TT&HĐ IV - 39/k
Sự hình thành và bí mật ở trung tâm dải ngân hà | Phim khoa học và khám phá
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi, lỡ đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc , chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG VII: TOÀN BÍCH
“Khi
công việc là thú vui thì cuộc sống là sự hưởng thụ bất tận. Còn nếu
công việc là nghĩa vụ thì lúc đó cuộc sống sẽ là nô dịch khổ sai”.
M. Gorki.
“Cuộc
sống bắt chước Nghệ thuật nhiều hơn là Nghệ thuật bắt chước Cuộc sống.
Có như thế không phải chỉ vì bản năng mô phỏng của Cuộc sống mà còn vì
thực tế rằng, mục đích tự giác của Cuộc sống chính là tìm cách để thể
hiện, và rằng Nghệ thuật cung cấp cho Cuộc sống vài hình thức đẹp đẽ để
Cuộc sống có thể biến năng lực ấy thành hiện thực…”.
Oscar Wilde.
"Chỉ cần là khoa học thì sẽ không có sự lừa dối người khác, người bị lừa dối là người không biết khoa học."
"Tất cả các môn khoa học trừu tượng đều không là gì khác ngoài việc nghiên cứu mối liên hệ giữa các biểu tượng."
"Khoa học cho chúng ta tri thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thông thái".
(Tiếp theo)
Chúng ta “dám cả gan” khẳng định rằng nếu hiện tượng không
phải xảy ra trên mặt phẳng ở hình 9 mà xảy ra trong không gian thực tại
vĩ mô, và được quan sát thấy (nghĩa là điểm KG A là một điểm (thực thể)
gồm một tập hợp vô vàn điểm KG kích thích), khi trình độ quan sát cũng
như nhận thức đã chín muồi, thì trước sau gì chủ thể quan sát cũng đi
đến những kết luận tương tự như chúng ta, trong đó có kết luận về tính
bất định của quan sát và hơn hết, cũng sẽ đi đến biểu thức “chắc như
bắp”:
(mà
Anhxtanh mới dừng lại ở mức độ cho nó là gần đúng và vẫn còn quan niệm
sai lầm về khối lượng cũng như mối quan hệ giữa m và mo!).
Cho
dù hình học không - thời gian có đạt tới thành quả đó đi nữa thì bản
thân nó không bao giờ có thể khắc phục được một nan giải có tính cốt
lõi, nảy sinh ra khi quan sát (một cách hình học thuần túy) một đối
tượng được cho là ở quá xa.
Chúng
ta quay lại hình 9. Giả sử quan sát hình học “thấy” được quá trình điểm
A chuyển động thẳng từ A đến A’ và cũng biết rằng quá trình đó xảy ra ở
khoảng cách rất xa so với vị trí đặt hệ quan sát (điểm O của hệ tọa độ
KTG). Để có thể suy ra được các trị số tọa độ x1, x2, y1, y2 (vì không thể đo trực tiếp được), chúng ta phải lập biểu thức vectơ:
sẽ hoàn toàn được xác định nếu xác định được vị trí của A và A’ so với O trong không gian, nghĩa là phải biết được độ dài của và . Nhưng làm thế nào để xác định chính xác được độ dài và khi hiện tượng ở
quá xa trong không gian? Đành rằng tại O có thể nhận được tín hiệu ánh
sáng từ A và sau đó là từ A’ để có thể xác định được các khoảng cách
theo công thức:
Hình 12: Tính bất định vị trí trong quan sát hình học
nhưng
làm sao biết được thời điểm khởi phát chuyển động và nhất là thời điểm
kết thúc chuyển động? Vả lại, cho dù có xác định được thời điểm khởi
phát thì vì không thể xác định được vận tốc chuyển động v của điểm A
(v<c) nên cũng không có cách nào xác định được thời điểm đạt tới A’
của chuyển động để mà có được thời lượng t2. Đó là nguyên
nhân làm cho quan sát hình học hoàn toàn bất định trong việc xác định vị
trí của A và A’ trong không gian khi chúng ta ở quá xa so với nơi đặt
hệ quan sát. Trên hình 12, quan sát hình học dễ dàng ngộ nhận là hoặc cũng có thể thậm chí là BB’…
Dù
hình học có cố gắng đến mấy thì cũng không thể khắc phục hết được những
bất định có tính chủ quan trong quan sát của nó và hơn nữa, quan sát
một cách hình học về không gian của nó đã không thể mô tả hết được những
biểu hiện biến động phong phú của không gian thực tại. Đó chính là
những dấu hiệu chỉ ra sự giới hạn của nghiên cứu hình học.
Để
giải quyết được những bất cập trong quan sát hình học và bổ sung những
mặt còn khiếm khuyết của mình, nghiên cứu toán học, sau khi đã hoàn
thành trách nhiệm đặt nền móng cũng như làm người đi tiên phong mở
đường, sẽ phải nhường bước cho nghiên cứu vật lý học tiếp tục tiến lên.
Bằng cặp mắt gắn liền với thực tiễn và khả năng quan sát ngày một tinh
tường nhờ có chiêm nghiệm dài lâu, vật lý học, trên nền tảng của hình
học, sẽ xây dựng cho mình một lý thuyết cũng như một mô hình không gian
vật lý. Mô hình không gian này sẽ ngày càng được điều chỉnh, bổ sung đến
hoàn thiện để ngày càng mô phỏng đúng đắn Không Gian Vũ Trụ.
Trong
tương lai không xa nữa, ba phương chiều nhận thức Tự Nhiên Tồn Tại của
loài người là triết học, toán học và vật lý học sẽ được hợp nhất lại
thành ba bộ phận hữu cơ của một LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT VĨ ĐẠI.
Chúng ta tin tưởng sâu sắc điều đó, vì lẽ tự nhiên phải là như thế!
***
Toán học là một trác tuyệt vĩ đại mà loài người đã “vô tình” tạo dựng được cho mình!
Tồn
Tại là vốn dĩ, Không Gian là duy nhất. Vì lẽ đó mà Tồn Tại phải Tự
Nhiên, Không Gian phải Vận Động đến tận cùng khả năng, đến hết cung bậc
có thể; để làm lộ ra bức chân dung sống động đến tuyệt đối của Đấng Tạo
Hóa thiêng liêng và toàn năng cùng tột trong vĩnh cửu Thời Gian.
Tồn
Tại là tất cả mà cũng chẳng là gì cả, giác ngộ tuyệt đối mà cũng u minh
tuyệt đối. Từ nền tảng đó mà hiển hiện lên một Đấng Tạo Hóa cực kỳ
thiêng liêng mà cũng… chả ra làm sao cả. Có thể nói Đấng Tạo Hóa là một
hiện thực có hồn vía vô song, một tinh thần siêu phàm trong một thể xác
hoang hóa, toàn năng bao nhiêu thì cũng thiểu năng bấy nhiêu. Đối với
chúng ta, Ngài còn được thấy như một vị thần linh nhân dạng nhân tính,
thần linh tối cao của mọi thần linh, biến hóa khôn lường mà cũng bất
biến, uyên bác có thừa mà cũng không thiếu ngây ngô, vừa hồn nhiên vừa
khắc kỷ, hiền từ đến quá đỗi mà dữ tợn cũng đến quá thể. Vì thế mà vạn
vật - hiện tượng được hình thành thì cũng bị tiêu vong, tự do tung hoành
trong ràng buộc xiềng xích. Cũng vì vậy mà có vô sinh thì cũng có hữu
sinh, mà đã có sinh thì phải có tử. Đối với giới vô sinh thì quãng giữa
thành - vong được gọi là tồn tại, đối với giới hữu sinh thì quãng giữa
sinh - tử được gọi là sinh tồn hay cuộc đời. Đối với riêng con người thì quãng đó còn được gọi là "đường đời". (Nhưng không ai có thể thấy trước được con đường đời ấy cho đến giây phút lâm chung. Chỉ những ai chết không đột ngột mới thấy được một cách sáng sủa để phần lớn là quyến luyến với biết bao nuối tiếc!)
Đấng
Tạo Hóa thiêng liêng hiển hiện ra từ Tự Nhiên Tồn Tại để bảo toàn Tồn
Tại Tự Nhiên cho nên Ngài mở ra khả năng vạn vật - hiện tượng được tự do
tồn tại và vì Tồn Tại là duy nhất, “chỉ có thế thôi” , nên tự do tồn
tại lại gây ra cảnh cạnh tranh tồn tại, đấu tranh sinh tồn, dẫn đến may
và rủi, thành và bại ở từng cá thể tồn tại hay sinh tồn. Rõ ràng, Đấng
Tạo Hóa không hề thiên vị mà hóa ra thiên vị đáo để, không mảy may thị
phi mà hóa ra thị phi quá chừng!
Ở
loài người có trí tuệ, đấu tranh sinh tồn trở nên quyết liệt, gay gắt
và “huynh đệ tương tàn” đến mức có thể là hạng nhất trong Vũ Trụ. Vì tự
nhận giống loài mình là văn minh nên khi nói về bản thân, con người ta
không nói toẹt ra là “đấu tranh sinh tồn” mà dùng mỹ từ “mưu sinh”, cũng
như không nói “mưu cầu danh lợi” mà dùng mỹ từ “mưu cầu hạnh phúc”.
Cũng vì đấu tranh sinh tồn ở loài người “ghê gớm” như thế mà những may -
rủi, thành - bại… cũng gây nên biết bao cảm xúc sâu sắc trong tâm hồn
của mỗi con người như: vinh - nhục, tự hào - hổ thẹn, sướng - khổ, hạnh
phúc - bất hạnh…
Dù
sao thì cũng phải thừa nhận rằng loài người có thể là một trong vài
dạng hữu sinh tuyệt vời nhất (tạm quên cái bản tính “ưa phá phách” của
nó đi!) mà Đấng Tạo Hóa đã sản sinh ra được. Ngay từ thuở mới sinh
thành, loài người đã biết thực hiện cuộc trường chinh nhằm duy trì sự
sống còn của nó một cách chủ động sáng tạo. Để tăng cường khả năng thích
nghi, tự vệ trước môi trường thiên nhiên đầy biến động, loài người sơ
khai không những biết mở rộng, đa dạng hóa nguồn thức ăn, biết bắt chước
những sự vật - hiện tượng có sẵn trong thiên nhiên, mà còn biết chế ngự
thiên nhiên, cải tạo môi trường nhằm phục vụ đời sống của mình. Một
trong những đặc tính của chủ động sáng tạo là luôn tìm cách chủ động
sáng tạo hơn nữa. Muốn thế, yêu cầu tiên quyết đặt ra trước loài người
là phải tìm hiểu môi trường thiên nhiên mà nó đang sống trong đó và đồng
thời cũng đóng vai trò quyết định đến sự sống còn của nó. Do đó, có thể
nói chủ động sáng tạo là một quá trình xen kẽ giữa nhận thức Tự Nhiên
và tạo dựng thành quả một cách liên tục, phát triển từ thấp lên cao, từ
nông - hẹp đến sâu - rộng, từ nhỏ bé thành lớn lao của loài người.
Chính
trong cái quá trình chủ động nhận thức để sáng tạo, giúp tăng cường khả
năng thích nghi, cũng như nâng cao điều kiện sống còn ngày một tốt hơn,
loài người đã phát hiện ra những biểu hiện “mang tính toán học” (như số
lượng, sự hợp thành, sự phân chia…) để rồi, trên cơ sở quan niệm, qui
ước phù hợp với trình độ hiểu biết của mình, loài người đã sáng tạo ra
một trong những kiệt tác của mình là Toán học. Toán học ra đời trước
tiên là để ứng dụng phục vụ đời sống, sau đó là để tác động trở lại quá
trình nhận thức - sáng tạo, góp phần quyết định đến sự hiểu biết về Tự
Nhiên một cách ngày càng chắc chắn và sâu sắc ở loài người.
Trên
Trái Đất này, loài người là loài độc nhất vô nhị biết sáng tạo ra những
báu vật phi vật thể (hay là tinh thần) cho mình. Toán học là một báu
vật vô cùng quí giá, thậm chí là quí giá nhất trong số những báu vật đó, cũng là bảo bối bất ly thân của loài người trên bước đường
đi chiêm nghiệm Tự Nhiên Tồn Tại, đồng thời cũng là một khối hoang tưởng, phi thực tại vĩ đại. Cho nên, loài người ơi, hãy cảnh giác! Đừng để toán học dẫn dắt chúng ta đi về phương có Chúa Trời vì làm gì có Chúa, tương tự như đã dẫn dắt vật lý học đến với Big Bang và một Vũ Trụ giãn nở đầy ma mị!
Đó
là những lời “tụng ca” cuối cùng của chúng ta đối với Toán học và cũng
là những lời kết của câu chuyện kể về nó. Bởi vì chúng ta không thể cứ
si mê, quyến luyến, quẩn quanh chiêm ngưỡng mãi toán học được. Cho dù là
báu vật và là bảo bối đóng vai trò then chốt của sáng tạo khoa học thì
chỉ bản thân nó thôi là không thể giải thích được mọi hiện tượng trong
Vũ trụ bao la và bản chất đích thực của Tự Nhiên vĩ đại. Cuộc hành trình
đi tìm “cái gì đó” của chúng ta, do đó mà không thể kết thúc ở đây.
Đỉnh của Tu Di huyền thoại vẫn còn biền biệt, phải khẩn trương hơn nữa
mới được!
Xin
chào toán học kèm theo một lời cảm ơn chân thành rằng nhờ có toán học
mà chúng ta biết được núi Tu Di là một khối kim tự tháp tứ diện tam giác
đều, đồng thời cũng có thể là một khối cầu khổng lồ của mọi khổng lồ.
Vì vậy mà giờ đây, chúng ta vẫn bâng khuâng không biết mình đang đi đến
đỉnh của Tu Di hay là đang về nhà nữa. Song, cứ đi! Phải noi theo tiền
bối:
“Tráng sĩ đi đầu không mọc tóc
Gương Kinh Kha in dội trong lòng”.
Bất
chợt, chúng ta có cảm giác Đấng Tạo Hóa ở đâu đó rất gần và đang nhếch
mép cười chúng ta, một đám nhóc còn ngây ngô và liều mạng vô tình. Thây
kệ Ngài! Dù là toàn năng thì Ngài cũng chẳng hiểu được rằng, chúng ta rồ
dại chứ không phải ngây ngô, mê mải cố tìm cái gì đó chứ không phải
liều mạng vô tình, và hiện tại, chúng ta còn muốn được rồ dại hơn nữa.
Nếu Đấng Tạo Hóa biết đọc, chúng ta sẽ gửi cho Ngài bài thỉnh cầu sau
đây:
Xin Tạo Hóa cho ta khùng nhiều nhé
Để thấy hiển nhiên toàn những chuyện ngù ngờ
Để đủ gan lỳ cãi Triết - Khoa chí chóe
Bỏ đường đông quen, tưng tửng bước đường khờ
Xin Tạo Hóa cho ta thành nhỏ bé
Để dò la trò bất định vi mô
Để gặp Phôtôn hỏi về Cơ lượng tử
Sóng giao hòa hay hạt giăng tơ?
Xin Tạo Hóa cho ta mù đi nhé
Để ngộ ra nét quyến rũ Tenxơ
Để mò thấy từ Phương trình của Chúa
Vần gieo cuối cùng, kết đẹp một bài thơ.
***
(Hết phần IV, chương XXXIX)
---------------------------------------------------------------------------------
(Hết phần IV, chương XXXIX)
---------------------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét