TT & HĐ III - 24/m


                                                                      Cậu Bé Cờ Lau 

                                                        Lê Hoàn - Thập Đạo Tướng Quân 

           THÁI TỔ LÝ CÔNG UẨN SÁNG LẬP VƯƠNG TRIỀU LÝ & KINH ĐÔ THĂNG LONG


PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
 Trần Hạnh Thu
.

CHƯƠNG XXIV: PHƯỢNG MÚA RỒNG BAY

"Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau..."

(Trích "Việt Nam quê hương ta" - Nguyễn Đình Thi)

“Triết lý Á Đông là cuộc sống phải hòa hợp với thiên nhiên. Mỗi người là một tiểu vũ trụ hòa hợp trong đại vũ trụ. Chính thiên nhiên Hà Nội giúp người ta hòa hợp một cách dễ dàng cái tôi chủ thể với bản thể vũ trụ huyền bí và mênh mông. Tự thân mình trong môi trường ấy đã có sự hòa hợp rồi… Tất nhiên là Sài Gòn rất đẹp… Nhưng Sài Gòn khác Hà Nội. Đi giữa Sài Gòn, mình có cái bồn chồn của một doanh nhân đi tìm mối hàng, hay đi tìm quán nhậu, còn đi giữa Hà Nội, tự nhiên ta thư thái như một lãng tử. Ngồi ở một góc nào đấy tại Hà Nội là có thể nghĩ về đất nước và quên đi xung quanh không cần một cố gắng nào hết. Nhưng mấy chục năm nay người ta đã phá hoại quá nhiều môi trường sinh thái văn hóa tự nhiên lắng đọng từ hàng nghìn năm… May mà dự án thủy cung Thăng Long thất bại chứ không Hồ Tây cũng đã bị xâm hại rồi… “Đứng cạnh Hồ Tây có thể quên được trời đất”. Đó là lời của ông tham tán văn hóa Đại sứ quán Phần Lan tại Việt Nam - Pauli Mustonen nói với tôi trong buổi tối chia tay với ông, một buổi tối Hồ Tây mù sương. Nhưng sau một lúc ngẫm nghĩ, ông ấy nói: “Không biết khi tôi có dịp sang lại Việt Nam thì Hồ Tây có còn là Hồ Tây như bây giờ hay không”. Nghe câu nói ấy, chúng tôi đều trầm hẳn xuống và man mác buồn”
(Giáo sư Nguyễn Huệ Chi)

 

 

 

 (Tiếp theo)

***


Đinh Tiên Hoàng sinh vào ngày Rằm tháng Hai, năm Giáp Thân (tức 22 tháng 3 năm 924) ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình). Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Hoan Châu. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ngoại (Gia Thủy, Nho Quan) ở, vẫn nương nhờ người chú ruột là Đinh Thúc Dự ở quê nội gần đó. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau, được đám trẻ tung hô là 'tướng quân cờ lau". Và trong đám bạn đó, có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú, những người sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự nghiệp. Theo sách An Nam chí lược: Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, Giao Châu. Cha là Công Trứ, làm nha-tướng của Dương Đình Nghệ. Cuối thời Ngũ Đại, Dương Đình Nghệ đi trấn Giao Châu, lấy Công Trứ quyền Thứ sử Hoan Châu. Trước đây, Ngô Quyền giết Kiều Công Tiễn, cha con Bộ Lĩnh về với Ngô Quyền, Quyền nhân khiến Công Trứ về nhiệm chức cũ. Khi Công Trứ mất, Bộ Lĩnh kế tập chức cha".
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: "Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự hiểu kiến thức không bằng vua, cùng nhau suy tôn ông làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi, thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho bọn chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau: "Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, Chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn". Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan, cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương."

Năm 951, con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Văn truất bỏ Dương Tam Kha, tự lập làm vương, xưng là Nam Sách vương, rước anh là Ngô Xương Ngập trở về lập làm Thiên Sách vương. Đinh Bộ Lĩnh lúc ấy cậy có khe núi Hoa Lư hiểm trở, không chịu làm tôi. Ông cùng chú dựng cờ dấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông. Sau, giữa hai người xảy ra bất hòa. Hai vương muốn cất quân đi đánh, Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân. Đinh Liễn đến, hai vương trách tội Bộ Lĩnh không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn đem theo đi đánh.

Hai bên đánh nhau hơn một tháng không phân thắng bại, hai vương bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Đinh Liễn. Đinh Bộ Lĩnh tức giận nói: "Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?". Liền sai hơn mười tay nỏ nhắm Đinh Liễn mà bắn. Hai vương kinh sợ: "Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì". Bèn không giết Liễn mà đem quân về. 
Đinh Bộ Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công (Kiến Xương, Thái Bình) là người có đức mà không có con nối, bèn cùng với con là Đinh Liễn đến nương tựa. Minh Công thấy Đinh Bộ Lĩnh dáng mạo khôi ngô lạ thường, lại có khí lượng, mới nuôi làm con, ơn yêu đãi ngày càng hậu, nhân đó giao cho coi quân, sai đi đánh các hùng trưởng khác, đều thắng được cả. Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, quân lực ngày một lớn mạnh. Dưới trướng ông những hào kiệt của Giao Châu đều có mặt (Giao Châu thất hùng gồm: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng).

Năm 944 Ngô Quyền mất. Anh vợ của Ngô Quyền là Dương Tam Kha tự lập làm vua là Dương Bình Vương. Năm 950, Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền, lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua, xưng là Nam Tấn vương. Ngô Xương Văn đón anh trai là Ngô Xương Ngập về cùng làm vua, xưng là Thiên Sách Vương. Đến năm 954, Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập bị bệnh mất.

Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình bị phục binh bắn chết. Sách An Nam chí lược chép: "Văn chết, tham-mưu của Văn là Ngô Xử Bình, Thứ Sử Phong Châu Kiều Tri Tả, Thứ Sử Ninh Châu Dương Huy và nha tướng Đổ Cảnh Thạc, dùng binh tranh lập, rồi đều bị Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên".

Năm 966, sau cái chết của Nam Tấn vương các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ, hình thành 12 sứ quân:

Sơ đồ chiếm đóng 12 sứ quân
  1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa)
  2. Đỗ Cảnh Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công, giữ Đỗ Động Giang (Thanh Oai, Hà Nội)
  3. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu (Thái Bình)
  4. Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ)
  5. Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái (Yên Lạc, Vĩnh Phúc)
  6. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội)
  7. Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh)
  8. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du (Bắc Ninh)
  9. Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên)
  10. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội)
  11. Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Phú Thọ)
  12. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu (Hưng Yên)
Cuộc hỗn chiến của 12 sứ quân, không những làm cho đời sống dân chúng bất ổn, khổ sở mà còn gây cảnh chia cắt lãnh thổ đất nước, hao mòn lực lượng quân sự, làm thế nước ngày một yếu đi. Trong khi đó ở Trung Hoa, nhà Tống đã thành lập, chấm dứt tình trạng Ngũ Đại Thập Quốc, thống nhất lãnh thổ và đang ra sức xây dựng thành một đế chế hùng mạnh theo gương nhà Đường trước kia. Để đối phó với nguy cơ đó và cũng là thể theo nguyện vọng của nhân dân, cần phải nhanh chóng thống nhất đất nước, thống nhất các lực lượng, xây dựng và tập trung nhân tài vật lực, chuẩn bị mọi mặt dưới sự điều hành, chỉ huy của một chính thể trung ương duy nhất. Thời cuộc đã chọn Đinh Bộ Lĩnh để đặt lên vai ông vận mệnh đất nước và ông đã đáp ứng được một cách xuất sắc nguyện vọng thiết tha của Dân Tộc, đã hoàn thành trọng trách đối với thời đại ấy của lịch sử. Ông là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam. Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế: Thời kỳ phục quốc của Việt Nam, từ họ Khúc (Khúc Thừa Dụ) chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc rồi bị thất bại trước họa ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống
 
Đinh Tiên Hoàng
Hoàng Đế Đại Cồ Việt (chi tiết...)
VuaDinhTienHoang.jpg
Tượng Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư
Hoàng đế Đại Cồ Việt
Trị vì 968 - 979
Tiền nhiệm Sáng lập triều đại
Kế nhiệm Đinh Phế Đế
Thông tin chung
Hoàng hậu
Hậu duệ
Tên húy Đinh Bộ Lĩnh 丁部領
Đinh Hoàn 丁桓
Niên hiệu Thái Bình 太平
Triều đại Nhà Đinh
Thân phụ Đinh Công Trứ
Sinh 22 tháng 3 năm 924
Gia Viễn, Ninh Bình
Mất Tháng 10 năm 979
Hoa Lư, Ninh Bình

Đinh Bộ Lĩnh dấy binh, đánh đâu thắng đó, được tôn xưng là Vạn Thắng Vương. Trong vòng một năm, ông bình định xong các sứ quân và năm mậu Thìn (968), thì lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công, Lê Hoàn là Thập Đạo Tướng Quân (tổng chỉ huy quân đội), phong cho Đinh Liễn, con ông là Nam Việt Vương. Để tránh đụng độ với nhà Tống, năm 972, Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn mang đồ vật sang cống. Vua Tống phong cho Đinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ Quận Vương.
Lê Đại Hành
Ledaihanh.jpg
Tượng Lê Đại HànhHoa Lư.








Hoàng đế Đại Cồ Việt






Trị vì9801005
Tiền nhiệmSáng lập triều đại
Đinh Toàn (nhà Đinh)
Kế nhiệmLê Trung Tông

Thông tin chung


Hoàng hậu
Hậu duệ
Tên húy
Lê Hoàn (黎桓)





Niên hiệu
  • Thiên Phúc (天福 980 - 988)
  • Hưng Thống (興統 989 - 993)
  • Ứng Thiên (應天 994 - 1005)
Thụy hiệu
Đại Hành Hoàng đế (大行皇帝)
Tước hiệuMinh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế


Triều đạiNhà Tiền Lê
Thân phụLê Mịch[1]
Thân mẫuĐặng Thị Sen[1]
Sinh10 tháng 8, 941
Tĩnh Hải quân
Mất18 tháng 4, 1005 (63 tuổi)
Hoa Lư, Đại Cồ Việt
An tángTrường Yên (Hoa Lư)


























Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.
Con út Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn mới 6 tuổi lên nối ngôi. Mẹ của Toàn là Dương Thị (Dương Vân Nga) được tôn làm hoàng thái hậu (còn gọi là Dương Thái Hậu). Vì vua còn nhỏ, Dương Thái Hậu giao cho Lê Hoàn quyền chấp chính thay vua. Các tướng của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp sợ Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, bèn họp nhau khởi binh đánh. Lê Hoàn được tin cấp báo, ra quân giết sạch.

 

Đại Thắng Minh Hoàng Hậu
Hoàng hậu Đại Cồ Việt
Dương Vân Nga.JPG
Tượng Dương Vân Nga trong đền vua Lê Đại HànhHoa Lư
Hoàng hậu nhà Đinhnhà Tiền Lê
Tại vị 968 - 979
Hoàng thái hậu nhà Đinh
Tại vị 979 - 981
Đồng nhiếp chính Phó vương Lê Hoàn
Hoàng hậu nhà Tiền Lê
Tại vị 981 - 1000
Thông tin chung
Phu quân Đinh Tiên Hoàng
Lê Đại Hành
Hậu duệ Đinh Phế Đế
Đinh Hạng Lang
Lê Thị Phất Ngân
Tên húy Dã sử xưng Dương Vân Nga (楊雲娥)
Tước hiệu Hoàng hậu
Hoàng thái hậu
Hoàng hậu
Tước vị Đại Thắng Minh hoàng hậu
大勝明皇后
Thân phụ Dương Thế Hiển
Dương Thái Huyền
Dương Nhị Kha
Sinh ?
Ái Châu, Việt Nam
Mất 1000
Hoa Lư, Việt Nam
 
Lê Hoàn (sinh ngày 15 tháng 7, nhằm ngày rằm năm Tân Sửu, 10 tháng 8 năm 941, cha là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị, 18 tháng 4 năm 1005) là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê nước Đại Cồ Việt, trị vì nước Đại Cồ Việt trong 24 năm. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Hiện nay, có những giả thiết cho rằng Lê Hoàn là chủ mưu vụ ám sát vua Đinh Tiên Hoàng để giành ngôi vua. Giả thuyết này đúng sai không rõ vì không có bằng chứng, nhưng việc Lê Hoàn là một vị vua giỏi và có nhiều đóng góp cho đất nước là điều không thể phủ nhận. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn thu được nhiều thành tích nổi bật trong việc cai trị, như việc phát triển nông nghiệp, mở trường học, tuyển dụng nhân tài và đánh bại Chiêm Thành, đánh dẹp các tộc người ở biên giới, khiến họ phải quy phục triều đình. Vì vậy, ông vẫn được sử sách đánh giá là một minh quân có công trong việc xây dựng đất nước và được nhân dân ca ngợi. Ông là nhạc phụ của Hoàng đế Lý Thái Tổ, ông ngoại của Hoàng đế Lý Thái Tông.
Lê Hoàn quê ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa; được sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, “bố dỡ dó, mẹ xó chùa”. Cha mẹ mất sớm nên ngay từ bé, Lê Hoàn phải làm con nuôi cho một vị quan nhỏ, người cùng họ có tên Lê Lộc, chăm sóc dạy dỗ, không khác gì con đẻ. Theo truyền thuyết, có đêm mùa đông trời rét, Lê Hoàn úp cối mà ngủ. Đêm ấy ánh sáng đẹp đầy nhà, viên quan sát lén đến xem, thì thấy con rồng vàng che ấp bên trên, vì thế lại càng thêm quý trọng Lê Hoàn. Lớn lên, Lê Hoàn theo Đinh Liễn. Trong công cuộc dẹp “loạn 12 sứ quân”, ông là người lính dũng cảm, là chỉ huy tài năng, có công lớn giúp lập nên cơ nghiệp nhà Đinh, nên được phong chức Thập đạo tướng quân, Diện tiền đô chỉ huy sứ (Tổng chỉ huy quân đội kiêm chỉ huy đội quân cấm vệ) trong triều đình Hoa Lư.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, tức vua Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ, tăng đạo. Đinh Đế lấy Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ Sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục, Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi.
Tháng 10 năm 979, Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn ở sân cung. Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền cùng Lê Hoàn rước Vệ vương Đinh Toàn lên ngôi hoàng đế và tôn mẹ Đinh Toàn là Dương Vân Nga làm Hoàng thái hậu. Vệ vương Đinh Toàn lên ngôi khi mới 6 tuổi, Lê Hoàn làm nhiếp chính đảm đương việc nước, xưng là Phó vương. Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Phạm Hạp nghi ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn dấy binh, chia hai đường thủy bộ, tiến về Hoa Lư giết Lê Hoàn.
Lê Hoàn chỉnh đốn quân lữ, đánh nhau với Đinh Điền, Nguyễn Bặc ở Tây Đô, Đinh Điền, Nguyễn Bặc bỏ chạy, đem quân thủy ra đánh. Lê Hoàn nhân chiều gió phóng lửa đốt thuyền chiến, chém Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc đóng cũi đưa về kinh sư, sau đem chém. Phạm Hạp được tin, mất khí thế, chạy về làng Cát Lợi ở Bắc Giang. Lê Hoàn đuổi theo, bắt sống Phạm Hạp mang về kinh sư
Nghe tin Đinh Tiên Hoàng mất, triều đình nước ta rối ren, các đại thần phân biệt, tranh chấp gay gắt, nhà Tống cho rằng thời cơ xâm chiếm nước ta đã tới. Mùa thu năm 980, vua Đường một mặt động binh tiến đánh nước ta, mặt khác sai Lư Đa Tốn đưa thư sang đe dọa, lời lẽ rất trịch thượng: “Giao Châu của ngươi, xa ở cuối trời… thực là chỗ thừa của bốn chân tay…, vì thế cần mở lòng ngu tối cho ngươi để thấm nhuần thánh giáo của ta, ngươi có theo không? Huống chi đời Lý Đường từng đã là đất của Trung Hoa, cuối Đường vì nhiều khó khăn chưa kịp khu cử, nay Thánh triều ta lòng nhân trùm muôn nước… mong ngươi đến chầu cho mình ta được vui khỏa, để ngươi khỏi cái tủi úp mặt vào góc nhà mà làm rầy cho ta, nếu khiến ta phải dùng đến kế chặt xác băm xương, làm cỏ nước ngươi thì lúc ấy hối sao kịp nữa. Dù là biển của ngươi có ngọc châu, ta ném xuống suối, núi của ngươi có sẵn vàng, ta quăng vào bụi, không phải là ta tham của báu của ngươi… Ngươi có theo ta không? Chớ rước lấy tội lỗi. Ta đang chuẩn bị xe ngựa quân lính, sắp sửa các thứ chiên trống, nếu qui phục thì ta tha cho, nếu trái lệnh thì ta quyết đánh. Theo hay không, lành hay dữ, tự ngươi nghĩ lấy”.
Tháng 7 năm 980, nhà Tống lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao châu lục lộ thủy lộ Chuyển vận sứ, Lan Lãng đoàn luyện sứ Tôn Toàn Hưng, Bất tác sứ Hác Thủ Tuấn, Yên bi khổ sứ Trần Khâm Tộ, Tả giám môn tướng quân Thôi Lượng làm Ung Châu Lộ binh mã Bộ thư, Ninh Châu Thứ sử Lưu Trừng, Quân khi khố Phó sứ Giả Thực, Cung phụng quan Cáp môn chi hậu Vương Soạn làm Quảng Châu Lộ binh mã Đô bộ thư, họp quân cả bốn hướng, hẹn ngày cùng sang chinh phạt nước Nam.
Lê Hoàn không nao núng, tích cực cùng toàn dân chuẩn bị kháng chiến, một mặt khẩn trương lập thế trận chờ địch, một mặt cho người đem thư sang nhà Tống cầu hòa, xin cho Đinh Toàn được nối ngôi cha để làm kế hoãn binh. Lúc này có một sự kiện mà người đời sau tốn không ít bút mực để cảm khái. Khi Lê Hoàn cử Phạm Cự Lạng là Đại tướng quân đem binh đi chống giữ, Cự Lạng cùng các tướng vào thẳng cung nói với mọi người rằng: “Thưởng người có công và phạt kẻ không vâng lệnh, đó là phép hành binh. Bây giờ chúa thượng hãy còn thơ ấu, bọn ta dẫu hết sức liều chết, may mà có chút công lao thì ai biết cho. Chi bằng trước hãy tôn ngay Thập Đạo Tướng Quân lên làm Thiên Tử, sau sẽ ra quân cũng chưa muộn”. Ở hoàn cảnh khác, đó là câu nói phản nghịch, dễ bị chém bêu đầu như chơi! Thái Hậu Dương Vân Nga nghĩ gì trước câu nói đó? Giữ ngôi cho con hay thuận ý Cự Lạng? Dù chuyện hậu trường có thế nào đi chăng nữa thì hành động lấy áo long bào choàng lên vai Lê Hoàn của bà đã là một sự lựa chọn sáng suốt, thức thời, được lịch sử nước nhà ghi nhớ một cách trân trọng. Đó là một sự lựa chọn dứt khoát và hoàn toàn đúng đắn: làm yên lòng quân sĩ; chỉ có tài năng Lê Hoàn mới có thể đảm đương được tình hình nghiêm trọng và cần kíp của đất nước lúc đó; sự sống còn của Dân Tộc phải được ưu tiên hàng đầu! Hình ảnh Thái Hậu Dương Vân Nga choàng áo long bào lên vai Thập Đạo Tướng Quân - Lê Hoàn trong sự hò reo vang trời dậy đất của quân sĩ thật vô cùng đẹp đẽ. Và “nữ nhi thường tình” Dương Thị đã là hậu duệ xứng đáng của những Âu Cơ, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh.
Lê Hoàn lên ngôi vua (lập nên triều đại mà sử gọi là Tiền Lê), lấy hiệu là Đại Hành nên thường gọi là Lê Đại Hành. Ông cho quân mai phục chờ địch ở Chi Lăng và noi gương Ngô Quyền, lập bãi cọc ở lòng sông Bạch Đằng.
Mùa xuân năm 984, quân Tống do các tướng Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng và Trần Khâm Tô chỉ huy ồ ạt kéo sang Lạng Sơn, trong lúc cánh quân của Lưu Trường, Giả Thực theo đường thủy tiến về phía sông Bạch Đằng. Ở Bạch Đằng, quân ta lúc đầu vờ thua chạy để nhử địch, sau đó quay lại đánh dồn dập làm chúng thiệt hại nặng, không còn đủ sức tiến sâu vào nội địa nước ta. Trên bộ, khi quân tướng nhà Tống vừa đến Chi Lăng, bị quân ta đánh úp, chém chết Hầu Nhân Bảo. Nghe tin cánh quân Hầu Nhân Bảo thua nặng, Trần Khâm Tộ vội rút chạy, bị quân ta truy kích. Quá nửa quân số của cánh quân Trần Khâm Tộ bị tiêu diệt. Quân xâm lược nhà Tống đại bại. Vua Tống “quê độ”, tức giận sai chém Tôn Hoàng Hưng ở chợ Ung Châu, bắt giam đến chết Lưu Trường và Giả Thực.
Thắng lợi to lớn và nhanh chóng của Lê Đại Hành trong cuộc chống xâm lược nhà Tống đã củng cố vững chắc niềm tin vào khả năng tự vệ của dân tộc và mở ra kỷ nguyên bách thắng trước những cuộc xâm lăng của phong kiến phương Bắc.
Lê Đại Hành mất năm 1005 (Ất Tỵ), thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm. Nhưng triều Tiền Lê còn tồn tại thêm 4 năm nữa, qua hai đời vua là Lê Trung Tông (trị vì có 3 ngày thì bị Long Đĩnh giết chết) và Lê Long Đĩnh (hoang dâm và bạo ngược như vua Hạ Kiệt, Trụ Vương: mắc bệnh không ngồi được, phải nằm mà ngự triều nên tục còn gọi là “Lê Ngọa Triều”)
Tiếp theo triều Tiền Lê là triều Lý (1009 - 1225) mà người khai lập là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn  là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Xuất thân là một võ quan cao cấp dưới triều Nhà Tiền Lê, năm 1009, nhân khi vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê là Lê Long Đĩnh qua đời, con trai còn nhỏ, Lý Công Uẩn được lực lượng của Đào Cam Mộc và thiền sư Vạn Hạnh tôn làm hoàng đế. Trong thời kỳ trị vì của mình, ông dành nhiều thời gian để đánh dẹp các nơi phản loạn, vì cơ bản nước Đại Cồ Việt vẫn chưa thu phục được lòng tin của các tộc người vùng biên cương. Triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La vào tháng 7 năm 1010 và thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu dài của nhà Lý tồn tại 216 năm.

Lý Công Uẩn người ở Cổ Pháp, Bắc Giang (nay thuộc thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh), mẹ họ Phạm. Tuy nhiên, tên cha ông không được chép rõ, mà chỉ biết là sau khi ông lên ngôi đã truy tôn cha mình tước Hiển Khánh vương. Sách Đại Việt sử lược chép ông có một người anh trai (sau được phong Vũ Uy vương) và một người em trai (sau phong Dực Thánh vương). Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép anh ông sau được phong làm Vũ Uy vương và một người chú được phong Vũ Đạo vương. Theo sử ghi, Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (tức ngày 8 tháng 3 năm 974).

Lúc 3 tuổi, mẹ của Lý Công Uẩn ẵm ông đến nhà Lý Khánh Văn, Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi. Ông từ nhỏ đã thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường. Lúc còn nhỏ đi học, nhà sư ở chùa Lục Tổ là Vạn Hạnh thấy, khen rằng: Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ. Lớn lên, không chăm việc sản nghiệp, chỉ học kinh sử qua loa, khẳng khái có chí lớn.

Theo sách Việt sử tiêu án: Mẹ Lý Công Uẩn năm 20 tuổi nghèo hèn không có chồng, nương tựa người lão Sa môn ở chùa Ứng Thiên, làm việc thổi nấu, khi lửa tắt và bà đương ngủ lơ mơ, lão Sa môn ngẫu nhiên chạm phải, giật mình trở dậy rồi có thai mà sinh ra. Về sau, Lý Công Uẩn nương nhờ cửa Phật, Khánh Văn nuôi lớn, Vạn Hạnh dạy dỗ.
Theo truyền thuyết, cha thân sinh ra ông là một người nghèo khó, đi làm ruộng thuê, ở chùa Tiêu Sơn (An Phong, Bắc Ninh), phải lòng một tiểu nữ làm nàng có mang (có sách nói mẹ Lý Công Uẩn nằm mơ thấy giao cảm với thần núi Tiêu Sơn mà có mang sinh ra ông). Sư trụ trì thấy thế đuổi đi. Hai vợ chồng dẫn nhau đến khu rừng Báng, mệt mỏi ngồi nghỉ. Chồng khát nước, tìm đến chỗ có giếng ở giữa rừng để uống, chẳng may sẩy chân xuống giếng, chết đuối. Vợ ngồi chờ lâu không thấy, đến tìm thì thấy đất đã đùn lấp giếng rồi, ngồi khóc một hồi rồi vào chùa Ứng Tâm gần đấy xin ngủ nhờ.
Ông sư trụ trì chùa Ứng Tâm (tên là Lý Khánh Vân), đêm hôm trước nằm mơ thấy Long Thần báo mộng: “Ngày mai dọn chùa cho sạch, có Hoàng Đế đến!”. Nhà sư tỉnh dậy, sai tiểu quét dọn sạch sẽ, chực đợi từ sáng đến chiều, chỉ thấy một người đàn bà có mang xin vào ngủ nhờ. Nhà sư lấy làm lạ, hỏi rằng: “Chồng con quê ở đâu?”. Người đàn bà kể tên họ nhà chồng và chuyện sa xuống giếng. Nhà sư nghe vậy, cho ở nhờ ngoài cửa tam quan. (Có một thuyết khác nói rằng Lý Công Uẩn chính là con của Vạn Hạnh, anh ruột Lý Khánh Vân).
Được vài tháng, một đêm, cả chùa thơm nức, nhà sư thức dậy nhìn ra tam quan thì thấy sáng rực lên. Nhà sư sai bà hộ chùa ra thăm thì người đàn bà ấy đã sinh ra một đứa con trai, hai bàn tay có bốn chữ son: “Sơn hà xã tắc”. Lúc đó, bỗng nhiên trời nổi cơn mưa to gió lớn, xem ra thì người đàn bà sinh con xong đã chết. Nhà sư sai đem chôn người mẹ xấu số ở mảnh vườn sau chùa, còn đứa bé thì được nhà chùa cưu mang từ đó. Đứa bé được đặt tên là Lý Công Uẩn (mang họ của sư trụ trì Lý Khánh Vân), có tư chất thông minh và cũng rất tinh nghịch. Chuyện kể rằng, có lần oản chưa kịp dâng cúng đã bị ai đó khoét ruột ăn mất. Đêm đến, được Long Thần về báo mộng, sáng ra, nhà sư gọi Lý Công Uẩn đến mắng. Uẩn hỏi: “Ai nói với ông như thế?”. Nhà sư kể chuyện Long Thần báo mộng, Uẩn đem lòng tức, lẻn vào chùa đánh vào cổ ông Long Thần ba cái rồi viết sau lưng tượng bốn chữ: “Lưu tam thiên lý” (đày đi xa ba ngàn dặm). Long Thần lại báo mộng cho sư: “Hoàng Đế đã đuổi tôi rồi. Chào ông ở lại”. Nhà sư vội vàng vào chùa soát xem thì thấy mấy chữ ấy trên lưng tượng Long Thần bèn sai tiểu lấy nước chùi rửa ngay nhưng không sao sạch được; chỉ khi bảo Uẩn rửa thì chú ta chỉ nhổ nước bọt chùi cũng sạch ngay.
Khi 8, 9 tuổi, nhà sư cho Công Uẩn theo học ông sư tên là Vạn Hạnh bên chùa Tiêu Sơn. Một lần không thuộc bài, bị sư trói lại bắt nằm dưới đất, đến đêm Uẩn ta nghêu ngao:
“Canh khuya không dám dang chân duỗi
Vì sợ non sông, xã tắc xiêu.”
Vạn Hạnh thấy có khẩu khí thiên tử, tự bấy giờ đem lòng quí trọng Uẩn lắm.
Công Uẩn lớn lên tỏ rõ chí khí khác thường.Theo Ngọc phả các vua triều Lê ở Hà Nam và tư liệu tại các di tích ở Cố đô Hoa Lư – Ninh Bình, Lý Công Uẩn hàng năm theo Thiền sư Vạn Hạnh vào hầu vua Lê Đại Hành ở thành Hoa Lư. Công Uẩn được vua yêu, cho ở lại kinh thành học tập quân sự. Lê Hoàn lại gả con gái cả là công chúa Lê Thị Phất Ngân (sinh ra Lý Phật Mã) và đặc phong cho Công Uẩn làm Điện tiền cận vệ ở thành Hoa Lư. Năm 1005, Lê Hoàn mất, các con tranh giành ngôi vua. Năm 1006, Lê Long Việt giành được ngôi vua, trở thành vua Lê Trung Tông. Nhưng chỉ được 3 ngày, Trung Tông bị em là Lê Long Đĩnh giết hại giành ngôi. Lúc đó các quan đều sợ hãi bỏ chạy, chỉ có Lý Công Uẩn đến ôm xác vua Lê Trung Tông (Tiền Lê) mà khóc. Lê Long Đĩnh không những không trị tội mà khen Lý Công Uẩn là người trung nghĩa, tiếp tục trọng dụng ông, cho làm Tứ sương quân Phó Chỉ huy sứ, rồi sau đó thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ (chức chỉ dành cho hoàng tộc hoặc quốc thích), thống lĩnh hết quân túc vệ.
Bấy giờ ở làng Cổ Pháp có cây gạo cổ thụ bị sét đánh tước mất vỏ ngoài, lộ ra mấy câu sấm kỳ dị. Vạn Hạnh đến xem, biết là điềm nhà Lê đổ, nhà Lý lên, bảo riêng Công Uẩn rằng:Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nổi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may nghìn năm có một. Lý Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn”
Cuối năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Lý Công Uẩn cùng với Hữu Điện tiền Chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem 500 quân tùy long vào làm túc vệ. Khi ấy Chi hậu là Đào Cam Mộc dò biết Công Uẩn có muốn nhận việc truyền ngôi, mới nhân lúc vắng nói khích với Lý Công Uẩn về việc tiếm ngôi. Công Uẩn trong lòng thích lời nói đó nhưng còn ngờ Cam Mộc có mưu khác, mới giả cách mắng. Cam Mộc thong thả bảo Công Uẩn rằng: "Tôi thấy thiên thời nhân sự như thế, cho nên mới dám phát ngôn. Nay ông lại muốn cáo giác tôi thì tôi không phải là người sợ chết". Lý Công Uẩn nói: "Tôi đâu nỡ cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo, nên răn ông đó thôi". Hôm sau Đào Cam Mộc lại thuyết phục Lý Công Uẩn việc tiếm ngôi, Đào Cam Mộc cùng các triều thần bàn với Thái hậu phò lập Lý Công Uẩn lên làm vua. (Nhà Tiền Lê “đi” theo cách giống như “đến”, điều này phải chăng là linh ứng: công tội phân minh, đúng sai tự xử?). Đào Cam Mộc khuyên Lý Công Uẩn: “Hiện nay dân chúng khác lòng, trên dưới lìa ý, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược… đều có lòng suy tôn quan thân vệ. Bọn ta không nhân lúc này cùng nhau tôn phù thân vệ làm Thiên tử, phút chốc có xảy ra tai biến, chúng ta có giữ được đầu không?”.
Còn theo sách Đại Việt sử ký tiền biên, sử gia Ngô Thì Sĩ nêu nghi vấn cho rằng Lý Công Uẩn giết Lê Long Đĩnh để đoạt ngôi: "Lý Thái Tổ rất căm phẫn trước tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh vương, nhân lúc Khai Minh vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó, nên sử không được chép".
Sự thay đổi ngôi vua từ nhà Lê sang nhà Lý, như sau này nhận định, chính là sự đổi mới theo đòi hỏi của thời cuộc, phù hợp với lòng dân đã chán ghét triều đình Lê Long Đĩnh (với một ông vua dâm ác vô đạo, với nhiều luật lệ khắc nghiệt như đặt vạc dầu lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, dùng vào việc xét xử, có thể là cần thiết trong thời kỳ ly loạn, nước sôi lửa bỏng của tình hình đất nước trước đây, vẫn còn được duy trì áp dụng…), muốn có một triều đại mới, khoan hòa hơn, đủ uy tín để ổn định xã hội, phát triển đất nước…
Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế tháng 11, ngày Quý Sửu, năm Kỷ Dậu (tức 21 tháng 11 năm 1009), đặt niên hiệu là Thuận Thiên, nghĩa là "theo ý trời". Ông phong cha là Hiển Khánh vương, mẹ là Minh Đức Thái hậu, chú là Vũ Đạo vương, anh ruột là Vũ Uy vương, em ruột là Dực Thánh vương. Ông lập sáu hoàng hậu, con trưởng ông là Lý Phật Mã được phong Khai Thiên vương lập làm Thái tử. Các con trai khác của ông cũng được phong vương. Đồng thời, con gái lớn của ông là An Quốc công chúa Lý Thiềm Hoa được gả cho Đào Cam Mộc. Đào Cam Mộc cũng được phong Nghĩa Tín hầu, còn những người khác vẫn giữ chức cũ. Một người con gái khác là Lĩnh Nam công chúa là Lý Bảo Hòa được gả cho động chủ Giáp Thừa Quý. 
Thành Hoa Lư vốn là kinh đô của 2 triều đại Đinh và Tiền Lê, là một vị trí cố thủ tự nhiên giữa những mỏm núi đá nằm bên rìa phía Đông Nam đồng bằng sông Hồng trong tỉnh Ninh Bình. Hoa Lư kiểm soát tuyến đường đất từ đồng bằng sông Hồng tới các tỉnh phía Nam. Nó cũng là tiền đồn của những tỉnh phía Nam nhìn ra đồng bằng sông Hồng. Lúc lên ngôi, Lý Thái Tổ cho rằng "Hoa Lư thành thì hẹp, đất thì thấp", muốn dời đô về Đại La (nay là Hà Nội), tức thành Tống Bình đời Đường - nơi mà Cao Biền sau khi đuổi quân Nam Chiếu đã xây dựng lại phủ trị của An Nam đô hộ phủ. Nhà vua ra chiếu rằng: "Xưa kia nhà Thương đến vua Bàn Canh đã năm lần thiên đô, nhà Chu đến đời Thành Vương đã ba lần thiên đô, không phải là theo ý riêng một mình, là nghĩ đến kế muôn năm về sau. Nhà Đinh và Lê không theo lối cũ của Thương, Chu, cứ để kinh đô ở mãi nơi này, trẫm rất đau lòng. Duy có thành Đại La ở giữa khu vực của trời đất, có cái thế long, hổ vững bền, địa thế rộng và bằng phẳng, đất thì cao mà sáng sủa, rõ là khu vực phồn thịnh. Đã xét khắp đất Việt, chỉ có nơi ấy là thắng địa, là nơi đô hội thật là kinh đô của muôn đời sau".
Từ đây, lịch sử Việt Nam sang trang mới: Dân tộc Việt bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn, phục hưng toàn diện bản sắc và nền văn hóa truyền thống của mình. Trước yêu cầu mới và to lớn của lịch sử, Kinh đô Hoa Lư thời Đinh - Lê, về vị trí địa lý đã không còn đáp ứng được vai trò là thủ đô của cả nước.
 
Lý Thái Tổ
Vua Việt Nam (chi tiết...)
Tượng Lý Thái Tổ.jpg
Tượng Lý Thái Tổ tại Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, dựng năm 2004
Hoàng đế Đại Cồ Việt
Trị vì 10091028
Tiền nhiệm Sáng lập triều đại
Kế nhiệm Lý Thái Tông
Thông tin chung
Thê thiếp Linh Hiển hoàng hậu
Tên thật Lý Công Uẩn (李公蘊)
Niên hiệu Thuận Thiên
Thụy hiệu Thần Vũ Hoàng Đế (神武皇帝)
Miếu hiệu Thái Tổ (太祖)
Triều đại Nhà Lý
Thân phụ Hiển Khánh vương
Thân mẫu Minh Đức thái hậu
Sinh 8 tháng 3, 974
Từ Sơn, Bắc Ninh
Mất 31 tháng 3, 1028 (54 tuổi)
Long An điện, Thăng Long
An táng Thọ Lăng
Tôn giáo Phật giáo
Trước đây, triều Đinh và triều Tiền Lê đến đóng đô ở Hoa Lư. Đó là vùng núi non hiểm trở, thích hợp về mặt quân sự khi chính quyền còn non trẻ, phải đối phó với nhiều hiểm họa, thù trong giặc ngoài. Sự lựa chọn vị trí làm kinh đô của triều Đinh - Lê vào giai đoạn lịch sử đó có thể là hợp lý và trên thực tế, Hoa Lư đã làm tròn sứ mạng của nó một cách xuất sắc. Thời này Hà Nội cổ vẫn mang tên cũ: Đô hộ phủ. Vua Đinh cử đại thần thân tín là Lưu Cơ làm đô hộ phủ sĩ sư, cai trị miền Hà Nội. Tuy địa vị chính trị và quân sự không bằng Hoa Lư, nhưng khoảng trời đất có núi Nùng sông Tô ấy vẫn là nơi muôn vật giàu thịnh, đông vui.
Xuân năm 1010, vua Lý từ Hoa Lư về thăm quê hương Đình Bảng có ghé thăm đất cũ Đại La và đã thấy ngay được viễn cảnh của một kinh đô mới. Hà Nội đâu biết rằng nó đã được chọn lựa để bắt đầu cuộc đời năng động, sôi nổi của Thủ đô Đại Việt, thỏa nguyện cái ý chí thiêng liêng thoát ra từ thế núi hình sông, đã vang vọng từ rất sâu trong ngàn xửa ngàn xưa.
Vua Lý - Lý Thái Tổ đã nhận thức được sâu sắc tầm quan trọng về địa thế của một kinh đô. Theo ông, việc định đô không thể “theo ý riêng”, không thể “tự tiện chuyển dời”, mà phải nhằm “mưu toan nghiệp lớn”, tính kế cho con cháu muôn vạn đời. Ông cho rằng: “thành Hoa Lư ẩm thấp, chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác”. Vì thế, Lý Thái Tổ đã tự tay viết “Chiếu dời đô”, nói rõ lý do về quyết định chọn thành Đại La làm đô thành mới của nước Đại Việt. Trong đó có đoạn: “Thành Đại La ở giữa khu vực đất trời, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa nam, bắc, tây, đông tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh và phồn vinh, xem khắp nước Việt, chỗ ấy là nơi hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời”. Tất cả các quan văn võ trong triều đều vui mừng trước quyết định ấy, họ nói: “Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế ai dám không theo.” (Đại Việt sử ký toàn thư)
Mùa thu, tháng 7 lịch trăng năm Canh Tuất (1010), đoàn thuyền ngự của nhà vua từ Hoa Lư cập bến thành Đại La. Lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên, Lý Thái Tổ bèn đổi tên Đại La thành Thăng Long và từ phút đó cái tên Thăng Long đã gắn liền với biết bao nhiêu chiến công rực rỡ của giai đoạn lịch sử vô cùng oanh liệt là thời Lý - Trần, trong thiên anh hùng ca bất hủ về đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt. Và lịch sử ngàn năm văn hiến của thủ đô Hà Nội ngày nay cũng được định mốc từ đây (nhưng như chúng ta đã trình bày thì cội rễ của nó đã có từ thời khai mở đất nước).
Sau khi dời đô về Thăng Long, công việc đầu tiên của triều Lý là kiến thiết cung điện làm nơi ở, nơi làm việc của vua, quan, quí tộc và xây dựng thành lũy bảo vệ. Một cụm kiến trúc trung tâm gồm tám điện ba cung đã được dựng lên: “phía trước là điện Càn Nguyên, làm chỗ vua chầu, bên tả là điện Tập Hiền, bên hữu là điện Giảng Võ, lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đoan Phượng thông với cung Uy Viễn, hướng chính nam là điện Cao Minh, đều có Thềm Rồng, trong Thềm Rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía, sau điện Càn Nguyên lại có điện Long An, Long Thụy làm nơi vua nghỉ, bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện Nguyệt Minh, phía sau dựng hai cung Thúy Hoa, Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ” (Đại Việt sử ký toàn thư). Khu vực lâu đài cung điện đó được nhiều lần sửa chữa xây dựng thêm, lớn nhất là vào năm 1029 và năm 1203. Trong lần tu bổ năm 1029, điện Càn Nguyên đổi tên là điện Thiên An và một loạt kiến trúc được xây mới, trong đó có lầu Chính Dương trông coi giờ khắc và hai lầu chuông ở hai bên Thềm Rồng để “dân chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên.”
Khu cung điện của vua và triều đình gọi là Đại Nội. Bao quanh khu vực này có một vòng thành bảo vệ nghiêm ngặt gọi là Cấm Thành. Phía ngoài có vòng thành thứ hai gọi là Hoàng Thành hay thành Thăng Long. Thành đắp bằng đất, phía ngoài đào hào, mở bốn cửa: Tường Phù phía đông, Quảng Phúc phía tây, Đại Hưng phía nam và Diệu Đức phía bắc. Mười vệ điện tiền cấm quân làm nhiệm vụ thường xuyên canh phòng và bảo vệ bên trong Cấm Thành.
Thành Thăng Long là khu vực thành thị quân vương, giữ vai trò đầu não của nhà nước trung ương phong kiến tập quyền, trung tâm chính trị của cả nước. Phía ngoài là khu Thị - Dân cư hay gọi là “thành thị dân sự”, bao gồm những xóm làng nông nghiệp, những phố phường công thương nghiệp và một hệ thống bến - chợ của kinh thành, gọi là Thành Đại La, hay La Thành, hay “Thăng Long ngoại thành”. Vòng thành này cũng được đắp bằng đất với chức năng vừa là thành lũy phòng vệ, vừa là để ngăn ngừa lũ lụt. Nhà Lý đã nhiều lần sửa chữa, tu bổ thành Đại La trên cơ sở tận dụng thành Đại La cũ và địa thế tự nhiên của đất Thăng Long. Mặt đông, thành chạy dọc theo hữu ngạn sông Hồng như một đoạn đê của sông này (từ Bến Nứa cho đến Ô Đống Mác); mặt bắc dựa theo sông Tô Lịch phía nam Hồ Tây cho đến Yên Thái (đường Hoàng Hoa Thám), mặt tây theo tả ngạn sông Tô Lịch từ Yên Thái đến Ô Cầu Giấy và mặt nam theo sông Kim Ngưu qua Giảng Võ, Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, nối với đê sông Hồng. Như vậy, trên đại thể, thành Đại La được giới hạn khá rõ rệt bằng ba con sông: sông Hồng, sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Trong qui hoạch tự nhiên của nó, thành cũng là đê và sông cũng là hào.
Nét nổi bật của Thăng Long là sự thích ứng và tận dụng tối đa những điều kiện tự nhiên, sự hài hòa giữa những kiến trúc nhân tạo với cảnh sắc thiên nhiên. Diện mạo Thăng Long đời Lý, hồ Dâm Đàm (hồ Tây), đền Voi Phục (năm 1044, vua còn sai đặt cũi lớn ở Dâm Đàm, dùng voi thuần để nhử voi rừng!), đã làm cho chúng ta liên tưởng mãnh liệt tới diện mạo Cổ Loa Thành, kinh đô thời Hùng Vương, nước Văn Lang (và hơn thế nữa, cả hai đều gợi nhớ cách sắp xếp kiểu ba lớp trong hình Hà Đồ!).
Khu dân cư tập trung ngoài Hoàng Thành tuy không được sắp xếp, bố trí chặt chẽ, nhưng do điều kiện sinh sống cũng dần dần hình thành một qui hoạch hợp lý, độc đáo. Thăng Long, cũng như các thành thị phương Đông nói chung, tuy có phân biệt với nông thôn, nhưng không tách rời và đối lập với nông thôn. Ngay bên trong Thăng Long cũng có một bộ phận kinh tế nông nghiệp gắn bó chặt chẽ với những xóm làng nông nghiệp xung quanh.
Do nhu cầu từ sự phát triển kinh tế, nhu cầu của vua quan và binh lính, do vị trí buôn bán làm ăn thuận lợi, nhiều thợ thủ công và thương nhân các nơi tụ tập về Thăng Long. Phường thủ công, phố xá, chợ búa dần dần mọc lên. Bên cạnh những nghề thủ công dân gian là những xưởng thủ công của triều đình như xưởng đúc tiền, đóng thuyền, làm vũ khí, xe kiệu của vua quan…
Triều Lý tồn tại tương đối lâu, khoảng 216 năm với công cuộc xây dựng đất nước về mọi mặt đạt được nhiều thành tựu to lớn, đã có được điều kiện về công sức của cải để kiến thiết kinh thành và xây dựng nhiều công trình đồ sộ (đối với thời bấy giờ). Sử cũ ngợi ca các tác phẩm kiến trúc điêu khắc đời Lý là “chạm trổ trang sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ, xưa chưa từng có”.
Thời Lý, Phật Giáo đã rất thịnh hành. Một loạt các chùa tháp do nhà vua và quí tộc bỏ tiền xây dựng, tiêu biểu nhất là chùa Diên Hựutháp Báo Thiên.
Chùa Diên Hựu được xây dựng năm 1049, dựa theo một giấc chiêm bao của vua Lý Thái Tông. Chùa được dựng trên một cột đá giữa hồ nước rộng, tượng trưng một đóa sen nở, nên dân gian còn gọi là Chùa Một Cột. Chùa được tu sửa nhiều lần và mở rộng thêm vào năm 1125. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đợi ở Hà Nam Ninh), mang niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1126) còn ghi lại hình ảnh Chùa Một Cột thời Lý: “Đào hồ thơm Linh Chiểu, giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột nở đóa sen nghìn cánh, trên bông sen dựng tòa điện đỏ sẫm, trong điện đặt pho tượng vàng, quanh hồ có hành lang bao bọc, ngoài hành lang lại đào ao Bích Trì, bắc cầu vồng để đi lại, phía sân trước cầu, hai bên tả hữu, xây bảo tháp lưu ly”. Rõ ràng qui mô và cấu trúc của Chùa Một Cột đời Lý to lớn hơn nhiều so với Chùa Một Cột còn thấy ngày nay. Năm 1080, một quả chuông lớn được đúc cho Chùa Một Cột, nhưng chuông ấy đánh không kêu, nên bỏ ở ruộng chùa. Ruộng ấy thấy nhiều rùa, gọi là Qui Điền (ruộng rùa) và do đó chuông đồng ấy được gọi là Chuông Qui Điền.
Tháp Báo Thiên vốn còn có tên là tháp Đại Thắng Tư Thiên, ở chùa Sùng Khánh Báo Thiên. Tháp được xây năm 1057 trên một gò đất cao bên cạnh hồ Lục Thủy (hồ Hoàn Kiếm), gồm 12 tầng, đỉnh tháp đúc bằng đồng, cao sừng sững, từ rất xa đã nom thấy, được người đương thời coi như công trình tiêu biểu của Thăng Long. Trong chùa Báo Thiên còn có một quả chuông lớn, đúc hết 12000 cân đồng (hơn 7 tấn) với bài minh do Lý Thánh Tông làm.
Chuông Qui Điền, tháp Báo Thiên cùng với vạc phổ Minh (Hà Nam Ninh) và tượng Quỳnh Lâm (Quảng Ninh) là bốn công trình nghệ thuật nổi tiếng nhất đời Lý, được ngợi ca là “tứ đại khí”.
Ngoài chùa tháp, Thăng Long còn có nhiều đền miếu như đền thờ Hai Bà ở phường Bố Cái (quận Hai Bà Trưng), đền Bạch Mã phường Giang Khẩu (phố Hàng Buồm) thờ thần Tô Lịch, miếu Đồng Cổ ở phía tây thành Đại La (gần Bưởi) thờ thần Trống Đồng (biểu tượng của văn minh Việt cổ thời dựng nước… Tại miếu Đồng Cổ, hàng năm, vào ngày 4 tháng 4, các quan văn võ trong triều phải đến làm lễ thề và đọc lời thề: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết”. Đền Bạch Mã ở phía đông, đền Linh Lang (đền Voi Phục ở Thủ Lệ), ở phía tây, đền Trấn Võ (đền Quan Thánh) ở phía bắc và đền Cao Sơn (Kim Liên, dựng vào đời Lê) ở phía nam, trong quan niệm cổ truyền, được coi là “Thăng Long từ trấn”. Nhà Lý còn dựng đềnViên Khâu (quận Hai Bà Trưng)và đền Xã Tắc (gần đình Nam Đồng, quận Đống Đa) đề cầu mùa màng phong đăng, mưa thuận gió hòa.
Khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám cũng được bắt đầu xây dựng vào đời Lý. Năm 1070, nhà Lý lập văn miếu và cho hoàng thái tử đến đó học tập. Từ lớp học hoàng gia dần dần phát triển thành trường Quốc Tử Giám, trung tâm giáo dục, đào tạo trí thức của nước Đại Việt, nằm ở phía nam Hoàng Thành, giữa một địa hình rộng rãi, có nhiều ao hồ và vườn cây yên tĩnh. Năm 1075, nhà Lý mở khoá thi Nho học đầu tiên, người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh. Năm 1076, triều đình tuyển chọn những quan văn có học cho vào học ở Quốc Tử Giám. Đấy là những việc làm rất thiết thực, làm cơ sở đặt nền móng cho sự ra đời và phát triển nền giáo dục đại học truyền thống. Bên cạnh đó, nhà Lý còn lập Điện Giảng Võ trong Hoàng Thành làm nơi họp bàn của các võ quan. Năm 1170, Xạ Đình (săn bắn) được thiết lập ở phía nam thành Đại La. Ở đó, nhà vua đến tập bắn cung, cưỡi ngựa và các võ quan thường luyện tập phép tiến công, phá trận…
Như vậy là chỉ trong vòng trên dưới một thế kỷ sau khi định đô, Thăng Long đã được xây dựng về mọi mặt để trở thành một trung tâm chính trị kinh tế - văn hóa lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước, trong cái diện mạo mà thành quách, đê điều, kiến trúc cung đình, chùa chiền tôn giáo, đền miếu thờ cúng dân gian… tất cả đều hòa quyện với thiên nhiên, tạo nên một tính cách rất riêng nhưng không gượng, uyển chuyển, hiếu hòa, tươi vui mà hào sảng như rồng bay lên, rất phù hợp và cũng chính là biểu hiện của tâm hồn dân tộc Việt. Thăng Long thời Lý, qua mô tả của sử xanh, quả là đẹp đến ngoạn mục, vừa giản dị đến sắc sảo như Đại Chúng, vừa phong phú đến tuyệt đích hài hòa như Tự Nhiên. Đúng là phượng múa rồng bay trong non xanh nước biếc.

                                                          Chính điện ở Đền Đô
Có được một Thăng Long như thế, công đầu thuộc về Lý Công Uẩn. Với tư chất thông minh, lớn lên trên mảnh đất giàu văn hóa truyền thống dân tộc, lại được nuôi dưỡng theo những quan niệm nhân bản của các vị cao tăng Phật Giáo, Lý Công Uẩn đã tiếp thu được những kiến thức quí báu về tự nhiên - xã hội, để nhận biết sâu sắc về thời cuộc, để có một tầm nhìn xa rộng, từ đó mà làm nên một “Chiếu dời đô” bất hủ. Thật xứng danh là người con ưu tú của dân tộc Việt.
 
         Tượng 2 vị vua Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông tại đền Lý Bát Đế 
Lý Thái Tổ trị vì được 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi. Chỗ giếng nước mà cha của ông đã mất, ở rừng Báng ấy, những gò nổi xung quanh trông như hình bông sen nở ra tám cánh, đã như một điềm báo nhà Lý truyền ngôi được tám đời, bây giờ thuộc về làng Đình Bảng, huyện Đông Ngàn. Chùa Ứng Tân, nơi ông sinh ra, ngày nay được gọi là chùa Dận.
Dien tam bao chua Dan.jpg
                                                 Mặt tiền điện tam bảo chùa Dận
(Hết Chương XXIV)
-----------------------------------------------------------------------

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH