Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TT&HĐIII - 25/b
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
Người Hùng Nước Việt : Lý Thường Kiệt
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
"Lịch sử hoài
thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc
cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời
giáo huấn cho thế hệ sau." Cervantes (Tây Ban Nha)
"Lịch sử là bằng
chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là
thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân." Cicero (La Mã)
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
“Thủ
đô là cái đại tập thành của cả đất nước từ khí non sông tụ lại. Không
bàn tán về những thành phố khác, mà nói về Hà Nội thì không ai không nhớ
đến bài ca chính khí của nó…
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo cái nghĩa tín đồ hành hương,
nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà xúc phạm vào nó là phải
đền tội”
“Khi
một giống nòi bị dồn đến chỗ chỉ có thể lựa chọn cái chết và nô lệ thì
xông vào cái chết là dũng cảm hơn. Nơi nào mà nó không phải là thiết yếu
thì bạo lực mới bị lên án. Có những trường hợp phải công nhận bạo lực
bởi vì không còn cách nào khác”
"Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn Hỏi ai gây dựng nên non nước này?" (Khuyết danh)
(Tiếp theo)
Do tiền đồn ở Ung Châu là căn cứ tập trung quân để nam tiến bị phá tan, nhà Tống phải điều động thêm nhân lực và lương thảo để thực hiện chiến tranh với Đại Việt.
Tháng 3 năm 1076, nhà Tống sai Tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hẹn với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp không dám tiến vào Đại Việt.
Quân Tống viễn chinh lên đến 10 vạn quân, một vạn ngựa và hai mươi vạn
dân phu, khí thế rất mạnh mẽ, nhất là kỵ binh Tống, nhưng quân Tống muốn
phát huy kỵ binh thì phải làm sao qua khỏi vùng hiểm trở, tới chỗ bằng,
thì ngựa mới tung hoành được.
Lực
lượng xâm lược của nhà Tống lần này gồm 10 vạn quân chiến đấu, 20 vạn
quân tải lương, Quách Quỳ làm thống soái. Kế hoạch của chúng là: đại
quân sẽ tiến theo hướng Lạng Sơn - Thăng Long; thủy quân sẽ đi theo ven
biển vào sông Bạch Đằng; sau khi đánh tan các đạo quân thủy bộ của ta,
sẽ hội quân, dùng thuyền vượt sông, đánh chiếm Thăng Long.
Kế
hoạch của ta là: chủ yếu sử dụng các lực lượng thổ binh, lương binh, bố
trí một số nơi ở khu vực biên giới như Quảng Uyên (Cao Bằng), Hạ Liêu
và Cổ Lộng (vùng tiếp giáp giữa Bắc Cạn và Thái Nguyên), tăng cường một
bộ phận quân triều đình tại các vị trí quan trọng là Quyết Lý, Giáp Khẩu
(tức Châu Ôn và Chi Lăng). Mục đích của việc này là ngăn chặn tạm thời,
tiêu hao, sau đó là quấy rối, đánh úp các toán quân nhỏ làm phân tán
lực lượng địch. Tại khu vực ven biển có thủy quân đóng căn cứ tại Vân
Đồng (thuộc Quảng Yên) phối hợp với quân bộ đóng ở Ngọc Sơn (thuộc Móng
Cái), thực hiện nhiệm vụ đánh chặn địch trên vùng biển Đông Kính (ven
biển Quảng Ninh ngày nay), không cho chúng tiến vào sâu trong nội địa.
Xác định mặt trận chính sẽ là vùng trung du, Lý Thường Kiệt cho lập
phòng tuyến ở bờ nam sông Như Nguyệt (sông Cầu), lấy đó làm nơi quyết
chiến chiến lược. Phòng tuyến được đắp cao, có rào dậu chắc chắn, chạy
dài từ sườn đông bắc dãy Tam Đảo đến sườn tây nam dãy Nham Điển (Yên
Dũng, Hà Bắc) khoảng trên 200 dặm (chừng 100 km), dưới sông có thủy
quân, trên thành có quân đóng và tuần tiễu. Đại quân gồm 2 bộ phận: quân
bộ đóng ở vùng Thiên Đức (giữa Bắc Ninh và Thăng Long), quân thủy với
trên 400 chiến thuyền đóng ở Vạn Xuân (Phả Lai ngày nay)
Tuyến phòng thủ của quân Đại Việt, Lý Thường Kiệt dựa vào sông núi,
các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu. Từ trại Vĩnh Bình vào châu Lạng,
phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng Sơn
đến Đông Mô ngày nay, vào khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc châu Ôn. Rồi
lại phải qua dãy núi lèn (đá không phá đất), đá đứng như tường, ở giữa
có đường đi rất hiểm: đó là ải Giáp Khẩu, tức là ải Chi Lăng, ở phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Lạng Sơn ngày nay. Về đường thủy, để chặn địch qua sông, quân Nam chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng.
Các tướng lĩnh thuộc Man Động như: Nùng Quang Lãm, Nùng Thịnh Đức
coi ải Hà Nội, Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân giữ châu Môn, Vi Thủ An
giữ châu Tô Mậu, Lưu Kỷ coi Quảng Nguyên khi quân Tống sang đã đầu hàng. Duy có phò mã Thân Cảnh Phúc giữ châu Quang Lang (Lạng Sơn)
không những không chịu hàng mà còn rút vào rừng đánh du kích, giết rất
nhiều quân Tống. Những tướng lĩnh này trước kéo quân qua đất Tống, đánh
rất giỏi. Nhưng sau quân Tống tràn sang đánh báo thù, lúc đầu họ cự
chiến, sau vì thất trận và vì sự dụ dỗ, nên đã đầu hàng, thậm chí như
Hoàng Kim Mẫn còn chỉ đường bày mưu cho Tống. Sách Quế Hải Chí kể: "Viên
tri châu Quang Lang là phò mã, bị thua, bèn trốn vào trong rừng Động
Giáp, rồi du kích hậu phương quân Tống. Rình lúc bất ngờ đánh úp quân
địch làm chúng rất sợ hãi".
Quân Tống tràn xuống, theo đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh, tới
phía tây bờ sông Phú Lương; trong khi đó, một cánh quân tách ra, vòng
sang phía đông đánh bọc hậu quân Nam ở Giáp Khẩu (Chi Lăng) và thẳng tới
sông Cầu.
Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, lập chiến lũy sông Như Nguyệt để chặn quân Tống. Sông Cầu từ địa phận Cao Bằng chảy đến Lục Đầu, hợp với sông Bạch Đằng.
Từ Lục Đầu ra đến biển, là một cái hào tự nhiên sâu và rộng, che chở
cho đồng bằng nước Việt để chống lại tất cả mọi cuộc ngoại xâm đường bộ
từ Lưỡng Quảng kéo vào. Đối với đường sá từ châu Ung tới Thăng Long, thì
sông Bạch Đằng không can hệ, vì đã có sông Lục Đầu, là cái hào ngăn
trước rồi. Trái lại, sông Cầu rất quan trọng. Thượng lưu sông Cầu qua
vùng rừng núi rất hiểm. Chỉ có khoảng từ Thái Nguyên trở xuống là có thể qua dễ dàng, và qua rồi thì có đường xuôi. Nhưng sau sông, ở về phía tây có dãy núi Tam Đảo,
là một cái thành không thể vượt. Chỉ có khoảng từ huyện Đa Phúc đến Lục
Đầu là phải phòng ngự bờ nam mà thôi. Trong khoảng ấy, lại chỉ khúc
giữa, từ đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền, là có bến, có đường qua
sông để tiến xuống miền nam một cách dễ dàng thẳng và gần. Lý Thường Kiệt đem chủ lực chặn con đường từ trại Vĩnh Bình đến sông Nam Định
(sông Cầu) bằng cách đặt những doanh đồn và phục binh ở hai ải tiếp
nhau: ải Quyết Lý ở phía bắc châu Quang Lang và ải Giáp Khẩu (Chi Lăng)
ở phía nam châu ấy. Nếu hai phòng tuyến ấy bị tan, thì phải cố thủ ở
phòng tuyến thứ ba, tức là nam ngạn sông Nam Định. Để cản quân Tống qua
sông, Lý Thường Kiệt sai đắp đê nam ngạc cao như bức thành. Trên thành,
đóng tre làm giậu, dày đến mấy từng. Thành đất lũy tre, nối với dãy núi
Tam Đảo, đã đổi thế sông Nam Định và bờ nam ngạn ra một dãy thành hào,
che chở cả vùng đồng bằng Giao Chỉ. Thành hào ấy dài gần trăm cây số,
khó vượt qua nhưng lại dễ phòng thủ hơn là một thành lẻ như thành Thăng
Long.
Từ
tháng 7 năm 1076, vài cánh quân nhỏ của giặc đã xâm nhập vào nước ta,
chiếm trại Ngọc Sơn, tháng 10 đánh vào châu Quảng Uyên (Cao Bằng). Ngày
8-1-1077, Quách Quỳ kéo đại quân qua cửa ải nam Quan đánh vào Quyết Lý,
chiếm Quang Lang, Tô Mậu (thuộc Lạng Sơn)… rồi vòng sang phía tây, theo
đường tắt vượt qua dãy Bắc Sơn, tiến đến sông Phú Lương (đoạn sông Cầu
thuộc phần đất Thái Nguyên ngày nay). Đồng thời cho một bộ phận hành
quân đánh vào sau lưng đội quân Thân Cảnh Phúc. Thân Cảnh Phúc, biệt danh "Phò mã Áo chàm", tương truyền có thể là Thân Vũ Thành
(theo thần tích các đền thờ về nhân vật này dọc bờ sông Lục Ngạn), là tù
trưởng động Giáp châu Lạng tức châu Quang Lang (hay châu Ôn, Lạng Sơn)
(ngày nay thuộc Lạng Sơn).
Ông sinh ra trong gia đình nhiều đời làm thổ mục ở Động Giáp (là một
phần phía Nam tỉnh Lạng Sơn và một phần phía Bắc của tỉnh Bắc Giang),
tức vùng giáp khẩu Kép, Lạng Giang (Bắc Giang), là người dân tộc Tày, vốn gốc họ Giáp, sau lấy công chúa Thiên Thành nhà Lý, được vua nhà Lý đổi sang họ Thân
và phong chức Tri châu. Thân Cảnh Phúc lãnh đạo một đội quân người dân
tộc dựa vào rừng núi, dùng chiến thuật du kích chống Tống, chiến đấu sau
lưng đạo quân nhà Tống đến khi hy sinh, góp phần không nhỏ vào cho chiến thắng của nhà Lý trước nhà Tống năm 1077 ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Ông phân tán
lực lượng để bảo toàn cho bộ phận chủ yếu về hướng Vạn Xuân, giữ liên hệ
với thủy quân, bộ phận còn lại tản vào rừng núi hiểm trở đánh du kích,
chủ yếu nhằm vào các đoàn cải lương của địch. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Đại Việt tràn qua sông Như Nguyệt,
nhưng quân Nam đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống. Lý Thường
Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh thần quân Nam chiến
đấu. "Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều
phấn khởi. Quân Tống sợ, táng đảm, không đánh đã tan".
Sau
thời gian ngắn tác chiến trên khu vực biên giới, ngày 18-1-1077, đại
quân Tống đã tập kết được đến bờ bắc sông Cầu, cánh phải do Miêu Lý chỉ
huy tập trung trên đoạn bến Như Nguyệt, cánh trái do Quách Quỳ chỉ huy
đóng ở Thị Cầu.
Trên
biển, thủy quân địch đã bị quân ta, do tướng Lý Kế Nguyên chỉ huy đánh
thua liểng xiểng, phải rút về cố thủ ở Đông Kênh (có thể là Tiên Yên
ngày nay) cho tới hết chiến tranh.
Chờ
mãi không thấy thủy quân tới, Miêu Lý cho bắc cầu nổi, vượt sông đoạn
bến Như Nguyệt. Quân ta đánh chặn quyết liệt. Nhưng có bộ phận địch cũng
đã chọc thủng phòng tuyến, ồ ạt tiến sâu. Kỵ binh đi trước của chúng có
lúc đã đến cách thành Thăng Long khoảng 15 dặm. Tuy nhiên đã bị quân ta
từ phía Thiên Đức cơ động tới bao vây tiêu diệt. Quách Quỳ cũng đóng bè
chở quân đánh sang. Cuộc tiến công lớn này bị thất bại hết sức ê chề,
đến nỗi Quách Quỳ phải quay về cố thủ bờ bắc và lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị
chém”.
Chính
trong khoảng thời gian này, trên chiến tuyến sông Như Nguyệt, từ bờ
nam, vang lên bài thơ hào hùng, đi vào bất tử của Lý Thường Kiệt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ chuốc lấy bại vong)
Đại
quân Quách Quỳ từ đó ngày càng lún sâu vào thế bị động phòng ngự. Bị
quân ta tăng cường đánh phá tiêu hao cả phía trước lẫn phía sau, uy hiếp
phục kích quân lương, tình trạng giặc càng thêm khốn đốn, thiếu thốn
lương thực càng trầm trọng, tinh thần chiến đấu của binh lính ngày một
giảm sút.
Chớp
thời cơ đó, dù lực lượng địch còn đông (8 vạn) nhưng ý chí tiến công
không còn, Lý Thường Kiệt đã tổ chức những đòn phản công lớn. Cuối xuân
năm 1077, hai hoàng tử Hoàng Chân, Chiêu Văn được lệnh, chỉ huy 2 vạn
quân cùng 400 chiến thuyền từ Phả Lại, ngược sông Như Nguyệt, đổ bộ lên
bờ bắc đánh thẳng vào trận địa địch, gây cho chúng nhiều tổn thất, đặc
biệt là đội kỵ binh cơ động Quách Quỳ. Quân Tống cố sức chống đỡ, tung
kỵ binh ra phản kích đẩy quân ta lùi về phía bờ nam. Hai hoàng tử Hoàng
Chân và Châu Văn hy sinh. Trong khi địch đang tập trung đối phó ở phía
cánh phải, Lý Thường Kiệt, nhân ban đêm, chỉ huy đại quân vượt sông Phú
Lương, tiến công giặc ở cánh trái. “Đại phá quân Tống, mười phần chết đến
năm sáu” (Việt sử lược).
Những
thắng lợi to lớn của quân ta đã đẩy địch vào tình trạng khốn quẫn hơn
bao giờ hết: binh lực thiệt hại nặng, lương thảo gần cạn, sức cùng chí
nản. Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì chiến sự và khí
hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Đại Việt lại tập kích, doanh
trại của Phó tướng Triệu Tiết bị phá, dù quân Tống cũng giết được hai
tướng Đại Việt là Hoàng Chân và Chiêu Văn. Quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần.
Vua quan nhà Tống hoang mang, mâu thuẫn giữa phe chủ chiến và phe
chủ hòa ngày càng gay gắt.
Nắm
được tình thế bế tắc, cùng quẫn của địch và dựa trên sức mạnh, thanh
thế đang lên của quân dân ta, Lý Thường Kiệt lại một lần nữa tỏ rõ cái
văn võ gồm tài của mình, đã chớp thời cơ, chủ động kết thúc sớm chiến
tranh bằng một đòn đánh ngoại giao: bàn hòa với Quách Quỳ. Theo ông:
“Dùng biện sĩ để bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tốn máu xương mà bảo
an được tôn miếu”. Thật là một vị tướng kiệt xuất đã gồm đủ chữ “nhân”!
Để
tránh bị tiêu diệt, không còn con đường nào khác, Quách Quỳ chấp nhận
hòa ước, và không chờ lệnh triều đình, lập tức rút quân. Tháng 2 - 1077,
23400 quân chiến đấu và 3174 ngựa chiến của Quách Quỳ đã về đến đất
Tống. Sách Việt Sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh dẫn cổ sử nói về nội tình của nhà Tống về sự kiện này: Triều thần nhà Tống cho rằng "Cũng may mà lúc đó địch lại xin giảng hòa, không thì chưa biết làm thế nào".
Tính ra, trong hơn 3 tháng chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt trên 19
vạn quân chiến đấu và tải lương. Nếu tính cả chiến dịch hồi đầu đánh
sang đất Tống, thì gần 30 vạn quân địch đã bị tiêu diệt. Ta thu hồi toàn
bộ đất đai, trừ Quảng Uyên (nhưng về sau bằng con đường đấu tranh ngoại
giao, ta cũng thu hồi nốt)… Phá Tống thắng lợi, công đầu thuộc về Lý Thường Kiệt. Ông đã phát động được một cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy được toàn lực của nước Đại việt và sự hy sinh to lớn của toàn dân đoàn
kết, chiến đấu kiên cường, dũng cảm, mưu trí và sáng tạo vào công cuộc chống xâm lược. Với
tài năng thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh kiệt xuất, luôn
luôn thể hiện một tư tưởng tiến công rất cao trong chỉ đạo tác chiến,
ông liên tục tiến công kẻ thù: đánh phủ đầu quân xâm lược khi chúng chưa
kịp hành động, phản công nhanh chóng và quyết liệt ngay khi bị kẻ thù
tiến công, đánh ngay vào đội quân mạnh nhất của địch, ngay trên hướng
tiến công chủ yếu của chúng. Ông khéo kết hợp giữa tiến công và phòng
ngự tích cực, giữa chiến tranh chính qui và chiến tranh du kích, giữa các cách đánh tập trung, đánh trận địa và đánh vận
động. Ông vận dụng tài tình sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với công
tác chính trị và hoạt động ngoại giao. Non sông sạch bóng quân
thù. Lúc này vua mới 12 tuổi. Lý Thường Kiệt lại tiếp tục gánh trách
nhiệm lớn của triều đình trong công cuộc xây dựng đất nước, chăm lo đời
sống nhân dân. Ông đã cho tu bổ đê điều, đường sá, đình chùa hư hỏng
trong chiến tranh và tiến hành nhiều biện pháp nhằm cải tổ bộ máy hành
chính trong toàn quốc. Năm 1028, ông thôi chức Tể tướng và được
cử về trị nhậm trấn Thanh Hóa. Làm việc ở đây suốt 19 năm trời, đến năm
1101 thì vua Lý Nhân Tông lại mời ông trở lại về triều giữ lại chức Tể
tướng. Lúc này ông đã 82 tuổi. Những năm cuối đời, ông còn cầm quân đi đánh Lý Giác ở Diễn Châu (1103), dẹp giặc
Chiêm Thành quấy nhiễu ở Bố Chính (năm 1104). Năm 1104, vua Chiêm Thành là Chế Ma Na (Jaya Indravarman 2, 1086-1113) đem quân đánh và lấy lại 3 châu Địa Lý v.v... mà vua Chế Củ
đã cắt cho Đại Việt. Lý Thường Kiệt một lần nữa kéo quân đi
đánh, phá tan quân Chiêm, Chế Ma Na lại nộp đất ấy cho Đại Việt. Ông còn tổ chức lại quân
đội, duyệt đổi lại các đơn vị từ cấm binh đến dân quân.Ông mất năm 1105, thọ 86 tuổi. Khi mất được phong tặng Kiểm hiệu Thái úy
bình chương quân quốc trọng sự, Việt quốc công, được lập đền thờ ở
nhiều nơi.Văn bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn đã ca ngợi ông như sau: "Làm việc thì siêng năng, điều khiển dân thì đôn hậu, cho nên dân được
nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên
nhân dân kính trọng. Dùng uy vũ để trừ gian ác, đem minh chứng để giải
quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm. Thái úy biết rằng dân
lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để nỡ
thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang. Nuôi dưỡng đến cả những người
già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ thế mà được yên thân. Phép tắc
như vậy có thể là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự tốt đẹp đều ở
đấy cả".
Lý
Thường Kiệt đích thực là nhân kiệt, hiện thân của khí thiêng sông núi Việt, một đại anh hùng của dân tộc Việt, đồng thời là người
con ưu tú của Cổ Loa - Thăng Long, sống một lòng vì nước vì dân. Công lao và sự nghiệp của ông đã làm rạng rỡ
đất “ngàn năm văn vật” và mãi mãi tỏa sáng trong lịch sử Việt Nam.
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một bộ làm bộ làm tịch" Mark Twain -“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...” Vidhusekharsastri -"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!" Albert Einstein -"Lòng
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm ăn th
Mùa Chim Én Bay - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung MỌC CÁNH Em ơi em, mọc cánh bao giờ thế Định bay đi đâu mà nhìn ra đại dương? Tìm nguồn hạnh phúc bên kia thế giới Ở đó đang chờ một tình yêu thương? Thôi bay đi em, đừng áy náy, vấn vương Đừng lưu luyến kẻ dưng, người cũ Bay đi em, về phương trời quyến rũ Ở đó có tình sâu nặng đợi chờ! Bay đi em, đến xứ sở ước mơ Về chao liệng trên bến bờ hi vọng Thỏa khao khát những nỗi niềm vui sống Của một hồn thơ dào dạt yêu thương! Trần Hạnh Thu Câu Đợi Câu Chờ - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung Dương Hiểu Ngọc bay cao với đôi cánh "Thiên thần tình yêu 09:26 05/04/2014 Chắp "đôi cánh thiên thần", người đẹp Dương Hiểu Ngọc sẽ bay cao, bay xa trong nghệ thuật với những nỗ lực không ngừng. Xuất hiện liên tục trên các trang mạng trong thời gian gần
Nhận xét
Đăng nhận xét