Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TT&HĐIII - 25/a
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
Lý Thường Kiệt Đánh thành Ung Châu
BÀI THƠ " THẦN " TRÊN SÔNG NHƯ NGUYỆT
THÁI HẬU Ỷ LAN - Nữ chính trị gia kiệt xuất Việt Nam
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
"Lịch sử hoài
thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc
cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời
giáo huấn cho thế hệ sau." Cervantes (Tây Ban Nha)
"Lịch sử là bằng
chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là
thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân." Cicero (La Mã)
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
“Thủ
đô là cái đại tập thành của cả đất nước từ khí non sông tụ lại. Không
bàn tán về những thành phố khác, mà nói về Hà Nội thì không ai không nhớ
đến bài ca chính khí của nó…
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo cái nghĩa tín đồ hành hương,
nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà xúc phạm vào nó là phải
đền tội”
“Khi
một giống nòi bị dồn đến chỗ chỉ có thể lựa chọn cái chết và nô lệ thì
xông vào cái chết là dũng cảm hơn. Nơi nào mà nó không phải là thiết yếu
thì bạo lực mới bị lên án. Có những trường hợp phải công nhận bạo lực
bởi vì không còn cách nào khác”
"Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn Hỏi ai gây dựng nên non nước này?" (Khuyết danh)
Trong thời đại triều Lý, ở thế kỷ XI, quân dân Đại Việt lại một lần nữa đánh bại quân xâm lược nhà Tống.
Sau
thất bại thảm hại lần xâm lược trước (thời Lê Hoàn), triều đình nhà
Tống vẫn chưa từ bỏ âm mưu đánh chiếm nước ta, nhưng vì nội tình Trung
Hoa chưa dứt rối ren nên ý đồ đó chưa thực hiện được. Do phải đối phó
với các cuộc khởi nghĩa nông dân lớn (như khởi nghĩa Vương Tắc năm 1047)
cũng như phải đối phó với sự quấy nhiễu của các nước Liêu, Hạ ở phía
Bắc và Tây Bắc, nhà Tống buộc phải tạm thời dùng sách lược hòa hoãn với
Đại Việt, nhưng tham vọng vẫn rất lớn.
Tống Thần Tông lên cầm quyền vào lúc nhà Tống đang lâm vào những khó khăn
lớn về kinh tế - chính trị: ngân khố trống rỗng, mâu thuẫn xã hội căng
thẳng… Được vua Tống chấp thuận, tể tướng Vương An Thạch đã đề ra một
chính sách cải cách gọi là “Tân pháp” và tiến hành thực hiện mong giải
quyết tình thế. “Tân pháp” có cái hay nhưng cũng có cái dở, mà dở nhất
là bị sự phản đối kịch liệt của quan lại trong triều vì động chạm trực
tiếp đến quyền lợi cố hữu của họ. Việc thực hiện cải cách theo “Tân
pháp” do đó không mấy hiệu quả và coi như thất bại (bãi bỏ vào năm
1085). Khó khăn càng thêm chồng chất và nhà Tống đã quyết định mở lối
thoát bằng cách xâm lược nước ta, nơi đang thịnh vượng và giàu có của
cải.
Trước
hết, nhà Tống cố tình lôi kéo Chiêm Thành gây chiến ở phía Nam để phân
tán, làm yếu lực lượng quân sự Đại Việt, sau đó là mua chuộc các tù
trưởng thiểu số ở biên giới phía Bắc, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
việc quân Tống tiến công từ phía Bắc xuống. Xuất phát từ ý đồ đó, vua
Tống khẩn trương xây dựng hàng loạt căn cứ bàn đạp sát biên giới nước ta
và tập trung lực lượng ở những căn cứ đó.
Cuộc bình Chiêm phá Tống lần này nổi lên hai nhân vật kiệt xuất là Lý Thường Kiệt và Ỷ Lan.
Tượng Lý Thường Kiệt trong Đại Nam Quốc Tự
Nói
đến triều Lý không thể không nói về Ỷ Lan. Tên thật của Ỷ Lan là Lê Thị
Yến, quê ở làng Thổ Lỗi sau đổi thành Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc
Ninh), nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội. Ỷ Lan, hay còn gọi là Linh Nhân Hoàng thái hậu, là phi tần của Hoàng đế Lý Thánh Tông, mẹ ruột của hoàng đế Lý Nhân Tông trong lịch sử Việt Nam.
Theo truyền thuyết về bà, Ỷ Lan sinh ngày 7 tháng 3 năm Giáp Thân (7 tháng 4 năm 1044) tại hương Thổ Lỗi (đời Nguyễn thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh,
nay thuộc khu vực Làng Sủi, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà
Nội). Tuy nhiên, trong truyện thơ trên không nói rõ bà sinh năm nào, chỉ
cho biết cha bà họ Lê, có nguồn ghi tên là Lê Công Thiết, làm chức quan nhỏ ở Kinh thành Thăng Long. Và mẹ bà, theo truyện thơ chỉ ghi hiệu là Tĩnh Nương, có nguồn ghi tên là Vũ Thị Tĩnh, là một người làm ruộng tại hương Thổ Lỗi.
Đến năm Ỷ Lan 12 tuổi thì mẹ ốm mất, cha lấy mẹ kế họ Đồng, nhưng
ít lâu sau ông cũng qua đời. Vì mẹ mất từ lúc 12 tuổi, cha lấy vợ
kế, nên thân phận Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám”
(đền thờ Ỷ Lan ở Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) còn được gọi là đền thờ Bà
Tấm là vì thế).
Bà đã hai lần đăng đàn nhiếp chính, khiến đất nước dưới triều Lý được hưng thịnh, những đóng góp cho hoàng triều nhà Lý nhất là về Phật giáo
và tài năng trị nước của bà đều được sử gia khen ngợi và tán dương. Tuy
vậy, để có thể có quyền hành nhiếp chính đất nước, bà đã mưu kế dựa vào
Lý Thường Kiệt, phế truất và sát hại Thái hậu nhiếp chính tiền nhiệm là Thượng Dương Hoàng thái hậu. Việc làm này đã gây nên nhiều tranh cãi xung quanh bà.
Năm
ấy, vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi nên về
chùa Dâu cầu tự. Chợt thấy trong ngày hội vui mà trên nương vẫn có một
cô gái hái dâu, vua cho vời xuống hỏi sự tình. Thấy Lê Thị Yến bội phần
xinh đẹp, lại đối đáp lưu loát, vua cảm mến đưa về triều, rồi phong làm
Nguyên phi, cho xây một cung riêng, đặt tên là cung Ỷ Lan để nhớ lại kỷ
niệm cô gái tựa gốc cây lan ở buổi đầu gặp gỡ.
Mùa xuân, tháng Giêng, năm 1066, Ỷ Lan Phu nhân sinh ra Hoàng tử Lý Càn Đức. Ngày hôm sau, lập làm Hoàng thái tử, đổi niên hiệu, đại xá, và phong mẹ là Ỷ Lan Phu nhân làm Thần phi. Năm Mậu Thân (1068) bà lại sinh ra Minh Nhân vương, có thuyết sau đó là Sùng Hiền hầu. Thánh Tông cho đổi hương Thổ Lỗi làm hương Siêu Loại, và phong Thần phi làm Nguyên phi, đứng đầu các phi tần trong cung. Địa vị bây giờ của Ỷ Lan chỉ sau Dương Hoàng hậu.
Khác
với các hậu phi, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc để được lòng
vua mà lại quan tâm đến hết thảy công việc triều chính, khổ công học
hỏi, miệt mài đọc sách, nghiền ngẫm ngữ nghĩa nên chỉ trong một thời
gian ngắn mọi người đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết sâu sắc về nhiều
mặt của Ỷ Lan. Triều thần đều khâm phục Ỷ Lan là người phụ nữ có tài.
Một lần, vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước, Ỷ Lan tâu:
-
Muốn dân giàu nước mạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián của
đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm.
Thuốc đắng uống khó chịu nhưng chữa được bệnh. Điều hệ trọng thứ hai là
phải xem quyền hành là một thứ đáng sợ. Quyền lợi và danh vọng thường
làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh
lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước muốn mạnh,
Hoàng Đế còn phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở
nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ những điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô
địch.
Nghe
Ỷ Lan tâu, vua phục lắm.Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Tin cậy, trước khi đi nhà vua trao quyền nhiếp chính cho Nguyên phi Ỷ Lan điều khiển chính sự ở triều đình, giúp sức có Lý Đạo Thành là Thái sư đầu triều đương thời.
Cũng ngay năm
ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi
sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán, táo bạo
của Ỷ Lan, loạn lạc được dẹp yên, dân đói được cứu sống. Cảm cái ơn ấy,
cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn gọi Ỷ Lan là Quan Âm
Nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan.
Vua đánh giặc lâu không thắng, trao quyền bính
cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ trở về. Đến chân Cư Liên (Tiên
Lữ, Hải Dương) hay tin Ỷ Lan đã vững vàng đưa đất nước vượt qua khó
khăn khốn đốn, giữ yên thái bình, Thánh Tông nói: ... "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao!". Vua bèn quay ra trận, quyết đánh cho
kỳ thắng mới thôi, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và 5 vạn người.Năm sau (1070), Chế Củ xin đem đất ba châu: Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (tức vùng Quảng Bình và Quảng Trị ngày nay) để chuộc tội. Giang sơn Đại Việt bước đầu mở rộng xuống phía Nam.
Năm
Nhâm Tý (1072), Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều Lý không tránh
khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành Hoàng Thái Hậu nhiếp chính và Lý
Thường Kiệt nắm quyền Tể Tướng thì nước Đại Việt lại yên bề thịnh trị. Ỷ
Lan còn thi hành những biện pháp làm cho sức dân thế nước đều mạnh lên.
Trong
cuộc chiến tranh chống Tống, để Lý Thường Kiệt tập trung lo việc trận
mạc, Thái Hậu Ỷ Lan đã chủ động bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đạo Thành
từ Nghệ An về, trao lại chức Thái sư để cùng mình điều khiển triều đình,
huy động sức người sức của vào trận.
Làm nên chiến thắng chống xâm lược của nhà Tống, công của Thái hậu Ỷ Lan không phải nhỏ!
Đền thờ Nguyên Phi Ỷ Lan
Ấy
vậy mà sử sách phong kiến đã xóa sạch công lao với dân với nước của Ỷ
Lan, chỉ vì cái nguyên do thế này: khi vua Lê Thánh Tông vừa qua đời,
Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ
Lan ra khỏi triều đình. Đến mãi 4 tháng sau, nhờ có Lý Thường Kiệt giúp
sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm tiếp quyền nhiếp chính và vì tức giận, bà đã
bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói
đến chết. Phải cho rằng đó là một hành động sai lầm quá đáng của Ỷ Lan.
Có thể trị tội, thậm chí là cần phải xử tử, nhưng trị tội kiểu như thế
thì rõ ràng là quá tàn độc, quá nhẫn tâm và khó tha thứ (cô Tấm trong
chuyện “Tấm Cám” cũng hành xử tàn khốc để thỏa hận thù kiểu như thế. Về
mặt tâm linh, có thể hỏi rằng Tấm đã vận vào Ỷ Lan hay Ỷ Lan đã vận vào
Tấm, và sao Tấm vẫn được dân gian yêu mến?). Tục truyền rằng Nguyên phi Ỷ Lan sau này rất hối về việc này nên đã làm nhiều chùa Phật để sám hối.
Dù
sao đi nữa, cái lỗi lầm ấy của Ỷ Lan là thường thấy trong các triều
đình phong kiến ngày xưa, ở ngay cả những nhân vật khai quốc công thần,
nổi tiếng về tài năng đức độ chứ riêng gì… Và nó không thể che lấp được
công lao to lớn của Ỷ Lan đối với triều Lý nói riêng và đất nước Đại
Việt nói chung. Vì thế mà dân gian vẫn tôn vinh Ỷ Lan như đã từng tôn
vinh Dương Vân Nga. Đại Chúng bao giờ cũng sáng suốt!
Lý Thường Kiệt ( 1019 – 1105) là một nhà quân sự, nhà chính trị cũng như hoạn quan rất nổi tiếng vào thời nhà Lý nước Đại Việt. Theo nhận xét của sách Đại Việt sử ký toàn thư, nhà của ông nối đời làm quan theo thức thế tập,
tức là truyền chức này vĩnh viễn qua các đời, do đó có thể thấy gia
đình của ông là một nhà quan lại có gốc gác bền vững. Từ nhỏ Lý Thường
Kiệt đã tỏ ra là người có chí hướng và nghị lực, chăm học tập, rèn luyện
cả văn lẫn võ, từng nghiên cứu về binh pháp. Ông làm quan qua 3 triều Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và đạt được nhiều thành tựu to lớn, khiến ông trở thành một trong hai danh tướng vĩ đại nhất nhà Lý, bên cạnh Lê Phụng Hiểu.
Trong lịch sử Việt Nam, ông nổi bật với việc chinh phạt Chiêm Thành (1069), đánh phá 3 châu Khâm, Ung, Liêm nước Tống (1075–1076), rồi đánh bại cuộc xâm lược Đại Việt của quân Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết
chỉ huy. Đặc biệt, trận chiến ở ba châu Khâm, Ung, Liêm đã khiến tên
tuổi của ông vang dội ra khỏi Đại Việt và được biết đến ở đất Tống.
Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liệt ông vào một trong 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam. Con tàu chiến USS Chincoteague (AVP-24) trong những năm 1972 - 1975 được mang tên là RVNS Lý Thường Kiệt (HQ-16), để vinh danh ông.
Lý
Thưởng Kiệt vốn tên là Ngô Tuấn, người làng Thái Hà huyện
Thọ Xương (thuộc Hà Nội ngày nay, gần Bách Thảo). Thuở nhỏ, Ngô Tuấn
theo học thầy Lý Công Uẩn ở Bái Ân, rất chăm chỉ. Lớn lên, là người gồm
cả tài văn lẫn võ. Khởi thân làm thái giám. Sách An Nam chí lược trong quan chế đời Lý có hai tên Sùng ban và Lang tướng, nhưng chính sách ấy chép hai tên này rời nhau. Có lẽ "Sùng ban Lang tướng" là "Lang tướng thuộc Sùng ban", vì ngay trong sách Chí lược cũng có ghi một chức tên "Vũ nội Lang tướng", nhưng không rõ hai chức vụ này có địa vị thế nào trong triều đình. Bia Nhữ Bá Sĩ chép về hành trạng thời trẻ có phần huyền thoại của Lý Thường Kiệt như sau:
"Khoảng niên hiệu Thiên Thành, đời Lý Thái Tông, cha đi tuần biên địa,
ở Tượng Châu thuộc Thanh Hóa, bị bệnh rồi mất vào năm Tân Mùi (1031).
Thường Kiệt bấy giờ mười ba tuổi, đêm ngày thương khóc không dứt. Chồng của người cô là Tạ Đức thấy thế, đem lòng thương và dỗ dành. Nhân đó hỏi ông về chí hướng, ôn g trả lời: "Về văn học, biết chữ để ký tên là đủ. Về võ học, muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ, lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện". Tạ Đức khen là có chí khí, bèn gả cháu gái tên là Thuần Khanh cho ông, và dạy cho học các sách binh thư họ Tôn, họ Ngô. Thường Kiệt đêm ngày học tập. Đêm đọc sách, ngày tập bắn cung,
cưỡi ngựa, lập doanh, bày trận. Các phép binh thư đều thông hiểu cả. Tạ
Đức lại khuyên đọc sách nho. Thường Kiệt rất chịu gắng công học tập, nên
chóng thành tài. Năm ông 18 tuổi (1036), mẹ mất. Hai anh em lo đủ mọi lễ tống
táng. Trong khi cúng tế, hễ có việc gì, cũng tự tay mình làm. Lúc hết
tang, nhờ phụ ấm, Thường Kiệt được bổ chức "Kỵ mã hiệu úy", tức là một sĩ quan nhỏ về đội quân cưỡi ngựa".
Năm 1041, Lý Thường Kiệt còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi đẹp được sung làm Hoàng môn Chi hậu, một chức hoạn quan theo hầu Lý Thái Tông (1028 - 1054) . Trong 12 năm làm nội thị trong triều, danh tiếng của Thường Kiệt ngày càng nổi. Năm 1053, ông được thăng dần đến chức Nội thị sảnh Đô tri, khi năm 35 tuổi. Từ một chức quan thị vệ, ông
được vua yêu, nhận làm con nuôi (thiên tử nghĩa nam), được ban họ vua
nên từ đó mang tên Lý Thường Kiệt.Năm 1054, Thái tử Lý Nhật Tôn kế vị, sử gọi là Lý Thánh Tông.
Dưới triều Lý Thánh Tông (1054 - 1072), Thường Kiệt trở thành võ tướng, lên chức Bổng hành quân Hiệu úy, một
chức quan võ cao cấp. Ông thường ngày ở cạnh vua, thường can gián. Vì
có công lao, ông được thăng làm Kiểm hiệu Thái bảo, rồi Thái phó.
Năm 1061, người Man ở biên giới Tây Nam quấy rối. Sách Việt điện u linh, chuyện về Lý Thường Kiệt có chép như sau:"Gặp lúc trong nước, ở cõiTây Nam, dân nổi lên chống các thuộc lại, dân Man Lào lại hay tới quấy
rối. Vua thấy ông siêng năng, cẩn thận, khoan hồng bèn sai ông làm Kinh
phỏng sứ vào thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An, vào trao quyền tiện nghi
hành sự. Ông phủ dụ dân khôn khéo, nên tất cả năm châu, sáu huyện, ba
nguồn, hai mươi bốn động đều quy phục và được yên ổn".
Tháng 2 năm 1069, ông theo vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Trong cuộc bình Chiêm này, vì có công trong cuộc chiến với Chế Củ, Lý Thường Kiệt được ban quốc tính và từ đó ông chính thức được gọi là Lý Thường Kiệt. Bên cạnh vinh dự này, ông còn được hưởng tước và chức đáng kể, được thụ phong làm Phụ quốc Thái phó, kiêm các hàm như Dao thụ chư trấn Tiết độ, Đồng trung thư môn hạ, Thượng trụ quốc, Thiên tử nghĩa đệ cùng Phụ quốc thượng tướng quân.
Với danh xưng "Thiên tử nghĩa đệ", Lý Thường Kiệt đã bán chính thức dự vào hàng quốc thích, và ông còn nhận được tước Khai quốc công.
Năm 1072 Lý Thánh Tông qua đời, Thái tử Càn Đức mới 7 tuổi lên ngôi, sử gọi là Lý Nhân Tông. Thái sư đầu triều là Lý Đạo Thành tôn Hoàng hậu Dương thị làm Hoàng thái hậu, buông rèm cùng nghe chính sự. Mẹ đẻ của Nhân Tông là Thái phi Ỷ Lan
không được dự vào việc triều đình, bèn dựa vào Lý Thường Kiệt để nắm
lấy quyền nhiếp chính. Lý Thường Kiệt khi đó làm Đô úy, chức vụ ở dưới
Lý Đạo Thành.
Tháng 6 năm 1072,
tức là 4 tháng sau khi Nhân Tông lên ngôi, Nhân Tông ra chỉ phế truất
Thượng Dương Thái hậu, giam Thái hậu cùng 72 Thị nữ trong lãnh cung và
bắt chôn theo Thánh Tông. Có thể thấy, ngoài tác động của Ỷ Lan ở bên
trong với Nhân Tông còn có vai trò của võ tướng Lý Thường Kiệt.
Sau đó, Lý Đạo Thành bị giáng chức làm "Tả Gián nghị đại phu" và bị biếm truất ra trấn thủ Nghệ An. Hoàng thái phi Ỷ Lan, sau cái chết của Dương Thái hậu thì chính thức được tôn làm Hoàng thái hậu. Theo ý kiến của Hoàng Xuân Hãn,
việc xử chết Dương Thái hậu và giáng chức Đạo Thành, một mình Ỷ Lan
không thể thực hiện mà có vai trò của Lý Thường Kiệt, người nắm quân đội
trong tay, trong khi Lý Đạo Thành vốn là quan văn và tuổi tác đã cao. Từ đó Lý Thường Kiệt giữ vai trò phụ chính trong triều đình Đại Việt.
Với cương vị
Phụ Quốc Thái Úy, Lý Thường Kiệt là người nắm trọn binh quyền và là linh
hồn của cuộc kháng chiến chống Tống (1075 - 1077).
Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành
đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm
lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu ngầm dấy
binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện
không được mua bán với Đại Việt.
Sau
khi đã thực hiện được bước đầu của chiến lược “Trước Nam sau Bắc” (bình Chiêm - phá Tống) là
bình Chiêm, nhà Lý tích cực chuyển sang thực hiện bước thứ hai. Sang năm
1075, việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh tự vệ đã xong, dân tộc đã ở tư
thế sẵn sàng chiến đấu.
Trước
sự chuẩn bị, ráo riết tập trung binh lực, lương thảo, khí tài của nhà
Tống tại các cơ sở bàn đạp dọc ven biên giới nước ta, cuộc xâm lăng
không thể tránh khỏi của giặc ngày càng rõ rệt và nghiêm trọng. Nhận
thấy cơ hội có thể đánh tiêu diệt một bộ phận địch, ngay từ trong trứng
nước, nhằm tiêu hao, làm yếu sức mạnh ban đầu của chúng, với tư tưởng
chủ động, sáng tạo, Lý Thường Kiệt chủ trương: “Ngồi yên đợi giặc không
bằng đem quân ra trước chặn thế mạnh của giặc”. Đó cũng là tư tưởng chớp
thời cơ, bất ngờ ra đòn phủ đầu của võ công: “Tiên hạ thủ vi cường”.
Được triều đình tán thành, Lý Thường Kiệt huy động một lực lượng khoảng
10 vạn người,chia làm hai mũi, vượt qua biên giới.
Ngày
26-10-1075, Quân bộ gồm 60.000 người do các tướng Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An chỉ huy, tổng chỉ huy là Tôn Đản. Bộ binh tập trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu rồi tràn sang đánh các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, châu Tây Bình, Lộc Châu. Một cánh quân khác đóng gần biên giới Khâm châu cũng kéo tới đánh các trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo, "quân ta tới đâu như vào nhà trống không người". Cánh quân này còn có tác dụng
thu hút lực lượng quân Tống. Mũi thứ hai là đại quân ta gồm 6 vạn
người, do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, cùng voi chiến đi đường biển từ châu Vĩnh An (Quảng Ninh) đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm; Tông Đản vây châu Ung. Ngày 30 tháng 12
năm 1075, quân Đại Việt tiến chiếm thành Khâm Châu, bắt toàn bộ quan
quân nhà Tống mà không phải giao chiến một trận nào. Ba ngày sau, 2 tháng 1 năm 1076, Liêm Châu cũng thất thủ. Địch hoàn toàn bất ngờ nên bị tiêu diệt toàn bộ. Trên các mặt trận, quân Đại Việt hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và Liêm Châu
tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu. Đường
thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập Vạn. Còn đạo đổ
bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch Châu, dường như
để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới. Đến đây, 10 vạn
quân Đại Việt tiến sâu vào đất Tống, nhằm hướng thành Ung Châu. Ngày
18-1-1076, quân ta vây chặt thành Ung Châu.Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với 2.800 quân cương quyết cố thủ.
Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay thuộc thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận.
Tri châu Ung là Tô Giám
cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân
Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành, trong
thành thiếu nước, không thể chữa được cháy. Cuối cùng quân Đại Việt bắt
dân Tống chồng bao đất cao đến hàng trượng để họ trèo lên thành. Ngày
thứ 42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô Giám tự thiêu để khỏi rơi vào tay
quân Đại Việt.
Thường dân trong thành không chịu hàng nên bị quân nhà Lý giết hết hơn
58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn
100.000, tuy nhiên quân Đại Việt cũng tổn thất đến 10.000 người và nhiều voi chiến.
Lý Thường Kiệt chiếm xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc lấy Tân Châu. Viên quan coi Tân Châu nghe thấy quân Đại Việt kéo gần đến thành liền bỏ thành chạy trốn. Mục tiêu hoàn thành, Lý Thường Kiệt cho rút quân về.
Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về nước. Nhà Lý cho những người phương bắc đó vào khai phá vùng Hoan - Ái (Thanh - Nghệ)
Lúc
đầu, trước sự tấn công mạnh mẽ và bất ngờ của quân ta, nhà Tống rất bị
động và lúng túng chống đỡ, nhưng sau đó, với nhận định cho rằng đại
quân ta đang bị giam chân ở nơi xa xôi, trong nước tất trống rỗng, nhân
cơ hội đó có thể đánh úp, rồi sau sẽ tập trung lực lượng tiêu diệt đại
quân Lý Thường Kiệt, nên nhà Tống đã ráo riết lên kế hoạch: một mặt lo
đối phó với quân ta ở trước mặt (di chuyển kho tàng, cố thủ các thành
quan trọng, tăng viện ứng cứu…), một mặt tập hợp đại binh, chọn tướng
lĩnh tiến thẳng sang nước ta. Việc giữ được thành Ung Châu là điểm then
chốt của kế hoạch trên.
Nắm
bắt được âm mưu của giặc, nhận thức được tầm quan trọng của thành Ung
Châu, Lý Thường Kiệt hạ quyết tâm đánh chiếm bằng được trong thời hạn
sớm nhất. Với quyết tâm của cả hai bên, trận chiến ở đó xảy ra hết sức
ác liệt.
Tri châu Ung là Tô Giám
cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân
Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành, trong
thành thiếu nước, không thể chữa được cháy. Cuối cùng quân Đại Việt bắt
dân Tống chồng bao đất cao đến hàng trượng để họ trèo lên thành. Ngày
thứ 42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô Giám tự thiêu để khỏi rơi vào tay
quân Đại Việt.
Thường dân trong thành không chịu hàng nên bị quân nhà Lý giết hết hơn
58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn
100.000, tuy nhiên quân Đại Việt cũng tổn thất đến 10.000 người và nhiều voi chiến.
Lý Thường Kiệt chiếm xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc lấy Tân Châu. Tiếp đó, đốt phá các kho lương thực của
giặc ở cả vùng Tả Giang. Viên quan coi Tân Châu nghe thấy quân Đại Việt kéo gần đến thành liền bỏ thành chạy trốn. Mục tiêu hoàn thành, Lý Thường Kiệt cho rút quân về.
Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về nước. Nhà Lý cho
những người phương bắc đó vào khai phá vùng Hoan - Ái (Thanh - Nghệ).
Nhận
thấy mục tiêu chiến lược của cuộc tiến công tự vệ đã đạt được, Lý
Thường Kiệt khẩn trương cho toàn quân rút ngay về nước, chuẩn bị cho
cuộc đọ sức một mất một còn với quân xâm lược nhà Tống. Cuộc rút lui kịp
thời của đại quân Lý Thường Kiệt đã làm tiêu tan luôn âm mưu thâm hiểm
của nhà Tống. Sau này, Vương An Thạch (đã từ chức Tể tướng nhà Tống vào
tháng 10 năm 1076) còn có vẻ tiếc nuối: “Tôi khi trước thấy Giao Chỉ
đánh Ung Châu chưa hạ được, trong nước chúng bỏ không, nên tính có thể
hành động chóng mà đánh úp hậu phương của nó. Làm như thế thì ta không
cần đánh quân nó đang cướp nước ta mà chúng cũng bị tan. Sau khi Ung
Châu mất, việc đánh úp chúng không thể bàn đến nữa”.
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một bộ làm bộ làm tịch" Mark Twain -“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...” Vidhusekharsastri -"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!" Albert Einstein -"Lòng
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm ăn th
Mùa Chim Én Bay - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung MỌC CÁNH Em ơi em, mọc cánh bao giờ thế Định bay đi đâu mà nhìn ra đại dương? Tìm nguồn hạnh phúc bên kia thế giới Ở đó đang chờ một tình yêu thương? Thôi bay đi em, đừng áy náy, vấn vương Đừng lưu luyến kẻ dưng, người cũ Bay đi em, về phương trời quyến rũ Ở đó có tình sâu nặng đợi chờ! Bay đi em, đến xứ sở ước mơ Về chao liệng trên bến bờ hi vọng Thỏa khao khát những nỗi niềm vui sống Của một hồn thơ dào dạt yêu thương! Trần Hạnh Thu Câu Đợi Câu Chờ - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung Dương Hiểu Ngọc bay cao với đôi cánh "Thiên thần tình yêu 09:26 05/04/2014 Chắp "đôi cánh thiên thần", người đẹp Dương Hiểu Ngọc sẽ bay cao, bay xa trong nghệ thuật với những nỗ lực không ngừng. Xuất hiện liên tục trên các trang mạng trong thời gian gần
Nhận xét
Đăng nhận xét