TT & HĐ III - 24/i
Tiết Lộ Sự Thật Không Ngờ Về Con Người Thục Phán - An Dương Vương
" Đi đi con!
Trần Hạnh Thu
.
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
"Lịch sử hoài
thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc
cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời
giáo huấn cho thế hệ sau."
Cervantes (Tây Ban Nha)
Cervantes (Tây Ban Nha)
"Lịch sử là bằng
chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là
thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
Cicero (La Mã)
Cicero (La Mã)
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
Trần Hạnh Thu
CHƯƠNG XXIV: PHƯỢNG MÚA RỒNG BAY
"Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau..."
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau..."
(Trích "Việt Nam quê hương ta" - Nguyễn Đình Thi)
“Triết
lý Á Đông là cuộc sống phải hòa hợp với thiên nhiên. Mỗi người là một
tiểu vũ trụ hòa hợp trong đại vũ trụ. Chính thiên nhiên Hà Nội giúp
người ta hòa hợp một cách dễ dàng cái tôi chủ thể với bản thể vũ trụ
huyền bí và mênh mông. Tự thân mình trong môi trường ấy đã có sự hòa hợp
rồi… Tất nhiên là Sài Gòn rất đẹp… Nhưng Sài Gòn khác Hà Nội. Đi giữa
Sài Gòn, mình có cái bồn chồn của một doanh nhân đi tìm mối hàng, hay đi
tìm quán nhậu, còn đi giữa Hà Nội, tự nhiên ta thư thái như một lãng
tử. Ngồi ở một góc nào đấy tại Hà Nội là có thể nghĩ về đất nước và quên
đi xung quanh không cần một cố gắng nào hết. Nhưng mấy chục năm nay
người ta đã phá hoại quá nhiều môi trường sinh thái văn hóa tự nhiên
lắng đọng từ hàng nghìn năm… May mà dự án thủy cung Thăng Long thất bại
chứ không Hồ Tây cũng đã bị xâm hại rồi… “Đứng cạnh Hồ Tây có thể quên
được trời đất”. Đó là lời của ông tham tán văn hóa Đại sứ quán Phần Lan
tại Việt Nam - Pauli Mustonen nói với tôi trong buổi tối chia tay với
ông, một buổi tối Hồ Tây mù sương. Nhưng sau một lúc ngẫm nghĩ, ông ấy
nói: “Không biết khi tôi có dịp sang lại Việt Nam thì Hồ Tây có còn là
Hồ Tây như bây giờ hay không”. Nghe câu nói ấy, chúng tôi đều trầm hẳn
xuống và man mác buồn”
(Giáo sư Nguyễn Huệ Chi)
(Tiếp theo)
Sự
phát triển xã hội nào thì cũng không thoát ra ngoài được luật thịnh -
suy. Do hạn chế của nhận thức mà các quá trình phát triển ấy vào những
thời xa xưa đều mang nặng tính tự phát, làm cho mặt trái của dựng xây, là
phá hoại, tự do phát huy tác dụng. Sự phát triển kinh tế - xã hội nặng
tính tự phát trước sau gì cũng dẫn đến mất cân đối cung - cầu trong xã
hội, gây tình trạng ở mức nhẹ là khủng hoảng, khốn đốn ở mặt này mặt
kia, nặng là khủng hoảng toàn diện nền kinh tế, cơ sở sản xuất phá sản
hàng loạt, khó khăn thiếu thốn hoành hành, ở mức trầm trọng là xuất hiện
nạn đói, chiến tranh tàn phá, cách mạng.
Tất
nhiên, để đảm bảo phát triển được liên tục, ổn định và tránh nguy cơ
mất cân đối chủ yếu là về cung cầu thì một cách hợp lẽ tự nhiên cũng sẽ
có những hình thức điều tiết mà ở mức “hiền lành” là chẳng hạn như hạn
chế sinh đẻ, lan tỏa dân cư, cải thiện xuất - nhập khẩu hàng hóa - sản phẩm…, và ở
mức “dữ tợn” là chẳng hạn như: ứng dụng khoa học - kỹ thuật, qui hoạch
lại thiên nhiên, tiếp cận và cải tạo những vùng đất hoang hóa thời xa
xôi, viễn chinh xâm lược…
Có
thể nói thịnh - suy là biểu hiện vận động nội tại luôn vươn tới cân
bằng và phá vỡ cân bằng của mọi tiến trình phát triển kinh tế - xã hội
(có tính chu kỳ, theo dạng xoắn ốc). Sự mất cân đối và biểu hiện thịnh -
suy là không thể “tiêu diệt” được
một khi còn xã hội và nền kinh tế. Người ta chỉ có thể tác động tương
đối đến chúng, ảnh hưởng đến mức độ của chúng, cưỡng bức chúng biến dạng
chuyển hóa tương đối trong không gian và thời gian; có thể kéo dài, làm
nổi trội hơn quá trình thịnh vượng cũng như thu ngắn, giảm thiểu tác
hại đối với quá trình suy thoái trong những điều kiện nhất định.
Sự
mất cân đối cung - cầu nghiêm trọng nhất, toàn diện nhất, có thể dẫn
đến tai họa là điều kiện tự nhiên (trong đó có các bộ phận do nhân tạo
trong quá khứ chuyển hóa thành) đã không thể đáp ứng nổi những nhu cầu
thiết yếu của đời sống xã hội cũng như con người nữa.
Tồn
tại là phải có quá trình; quá trình là tập hợp kế tiếp nhau của các
biến đổi; quá trình biến đổi có chủ đích chính là sự phát triển. Vì vậy phát triển
là một tất yếu đối với mọi tồn tại, mọi sự vật - hiện tượng. Lịch sử
loài người là lịch sử về một sự phát triển (theo qui ước!). Từ săn bắt
hái lượm bước sang trồng trọt chăn nuôi và khi phát hiện ra cây lương
thực (nhất là cây lúa nước), loài người đã sáng tạo ra nền sản xuất nông
nghiệp. Đó là một bước phát triển nhảy vọt có tính cách mạng và định
mệnh của loài người. Nhờ nó mà khả năng kiếm sống của con người được
nâng cao vượt bậc và cũng tại nó mà mức độ tiêu dùng trong xã hội nhanh
chóng tăng cao cả về sự đa dạng lẫn trình độ, cả về số lượng lẫn chất
lượng, tạo nên sự phân hóa trong sản xuất và sự phân công lao động xã
hội, dẫn đến làm xuất hiện nền sản xuất hàng hóa.
Nền
sản xuất hàng hóa và đi liền với nó là thị trường tự do có tác dụng như
con dao hai lưỡi: vừa mở đường cho sự phát triển kinh tế - xã hội vươn
lên thịnh vượng, vừa làm cho nó mất cân đối và hướng tới suy thoái.
Tương lai của cực thịnh là suy tàn vì loài người chỉ biết tiến chứ không
biết lùi, bởi nỗi mỗi cá thể của nó là con người luôn bị khối tham vọng
của mình đè dúi về phía trước chứ không phải là con rôbốt vô tình! Tuy
nhiên nguyên nhân sâu xa lại là do nền sản xuất hàng hóa phi kế hoạch,
chạy theo yêu cầu của thị trường cạnh tranh tự do, đầy giả tạo và nguy
hiểm. Chính thị trường tự do ngày nay đã bộc lộ rõ rệt cái mặt trái của
nó. Kích thích tiêu dùng một cách mù quáng và ngày một vô hạn độ; chuyển
hóa những nhu cầu không thiết yếu thành thiết yếu làm tăng khối lượng
nhu cầu thiết yếu của đời sống, khoảng cách giàu - nghèo ngày một tách
biệt, gây mất cân đối trong sản xuất và lãng phí trong tiêu dùng, ảnh
hưởng bất lợi, xấu đến sản xuất nông nghiệp… Một ngày nào đó, khi qui mô
sản xuất - kinh doanh đạt đến mức liên thông toàn cầu thì đó, xét trên
tổng thể, là một nền kinh tế tự cung tự cấp, khép kín và duy nhất. Lúc
đó chính là lúc loài người đã hoàn thành việc tạo ra sự mất cân đối toàn
diện; và đứng trước một thảm họa do lẽ tự nhiên của sự phát triển mù
quáng và cái tham vọng mê lầm của chính mình gây ra. Yêu cầu cơ bản về
sự phát triển của một nền sản xuất hàng hóa là phải có một thị trường
ngày một mở rộng để tiêu thụ sản phẩm làm ra và được cung ứng lại nguyên
vật liệu duy trì sản xuất. Không được như thế, nó sẽ bị “gây khó dễ”,
đình đốn, thu hẹp và đến nước cùng là sụp đổ. Khi đã mất cân đối toàn
diện trên phạm vi toàn cầu, nghĩa là khi tài nguyên thiên nhiên đã hao
mòn (chưa nói đến cạn kiệt!), ruộng đồng, đất đai trồng trọt bị thu hẹp,
tàn phá bởi quá khứ, tác động trái chiều của sự thịnh vượng (chưa nói
đến tốc độ tiến tới nạn nhân mãn do kích thích!); thì thị trường cũng bị
mất cân đối toàn diện, teo tóp dần và điêu tàn đi, tính hàng hóa của
sản phẩm bị biến thái, lộn xộn và trở nên phi lý đến kỳ quặc. Lúc đó,
khả năng của điều kiện tự nhiên trở nên bất lực, không thể đáp ứng nổi
nhu cầu tiêu dùng của loài người nữa, kể cả lương thực thực phẩm. Điều
gì sẽ xảy ra? Có thể là một công cuộc khai hoang vĩ đại và lạ mắt nhất
của loài người: đi đập phá nhà máy, công xưởng, nhà cửa, thành phố,
đường xá, gỡ bỏ, thu dọn những khối lượng bê tông khổng lồ, để hồi phục
lại đất đai trồng trọt; có thể là chiến tranh tàn sát, nạn đói tàn sát,
ngộ độc môi trường tàn sát, để rồi “mười người chết bảy còn ba, chết hai
còn một mới ra thái bình” tạo cơ may trở về với sản xuất thuần túy nông
nghiệp, bắt đầu lại quá trình tạo dựng từ nền sản xuất tự cung tự cấp
và nhỏ lẻ.
Chúng ta e rằng sẽ đến một ngày loài người tự hủy diệt mình! Thái Dương Hệ còn đó, thảm họa Vũ Trụ chưa thấy đâu, mà con người đã diệt vong bởi chính mình. Như thế có đáng buồn không?!
Không
thể trực tiếp ăn vàng bạc, châu báu, ngọc ngà để sống được. Ấy vậy mà
ai cũng thèm khát chúng, trở nên tham tàn bạo ngược cũng vì chúng. Trong
khi đó thiếu không khí vài phút là chết ngạt; không có nước một đôi
ngày là chết khát; không có miếng ăn một vài chục ngày là chết đói.
Nhưng chẳng ai đoái hoài đến không khí, ai cũng lạnh nhạt với nước. Còn
miếng ăn thì cũng… thích đấy, nhưng là thứ tầm thường, chẳng ai xếp nó
vào mục tiêu ưu tiên, thậm chí là ít nhớ đến nó trong hoạch định hoạt
động sống của mình…
Thứ
gắn liền với sinh mạng thì không quí, thứ không có nó cũng chẳng chết
được thì quí. Thật kỳ quái!... Mà cũng chẳng kỳ quái tí nào nếu đem đặt
cái thói quen tâm lý quái quỷ đó vào bối cảnh nền kinh tế, hàng hóa. Nó
chính là đứa con vô tình của thị trường tự do vô cảm, nhưng nguyên nhân
sâu xa hơn là “tại” tự nhiên: muốn làm nổi trội mình, làm hấp dẫn mình
để được ưu tiên hưởng thụ khoái cảm trong quan hệ duy trì nòi giống,
hưởng thụ miếng ăn ngon, nhiều hơn trong hoạt động kiếm ăn của bầy đàn.
Theo hướng này có thể tìm thấy được nguồn gốc của ý thức thẩm mỹ và quan
niệm thẩm mỹ ở loài người!...
Có
ba thứ thuộc nhu cầu tiêu dùng thiết yếu nhất của con người được cho là
dồi dào vô tận là: ánh sáng mặt trời (ở dạng ẩn giấu), không khí và
nước uống (nổi trội hơn!). Giả sử rằng hoạt động sống của loài người
không ảnh hưởng tiêu cực gì đến những “nhu yếu phẩm” tự nhiên, sẵn có ấy
(nhớ là giả sử thôi đấy nhé!), thì khi sự mất cân đối toàn diện, toàn
cầu xảy ra, khi mà sự sống còn bị đe dọa nghiêm trọng hàng ngày hàng giờ
bởi sự chết đói và chưa có phương hướng vượt thoát, lúc đó vấn đề giải
quyết có miếng ăn sẽ là mối quan tâm chủ yếu, được đặt lên hàng đầu,
lương thực thực phẩm “đắt đỏ kinh khủng”, trở thành thứ quí báu nhất,
còn vàng bạc, châu báu, ngọc ngà mất giá đến độ có khi là “hết sạch”.
Thời
công nghiệp hóa, hiện đại hóa dồn dập, kéo theo phát triển du lịch, mở
rộng đô thị tràn lan… của đất nước, nhu cầu về xây dựng đã bê tông hóa
biết bao nhiêu đất trồng trọt mà vẫn không đủ, làm nên những “cơn sốt
đất” hầm hập, giá cả đất đai tăng vòn vọt đến choáng váng, chóng mặt.
Nhiều người đùa: đến giờ mới hiểu được câu thành ngữ “Tấc đất tấc vàng”.
Thực ra, chúng ta chưa giác ngộ được cái ý nghĩa thâm sâu hơn nhiều của
sự đúc kết dân gian ấy. Cái giá đất tưởng như đã cao vút đụng đến trời
xanh kia của ngày hôm nay hóa ra là chẳng nhằm nhò gì nếu mai sau, buộc
phải chuộc đất đó về, cải tạo nó lại thành đất trồng trọt để cứu đói…
Biết đâu chừng? Thủy Tinh ơi - Biển ơi, đừng dâng lên nhiều nhé!
Có
cách nào làm cho cái viễn cảnh mất cân đối toàn diện và toàn cầu không
xảy ra không? Có lẽ không mà cũng có thể là có! Sự lựa chọn một trong
hai khả năng đó là tùy thuộc vào tốc độ đạt đến của trình độ buộc phải
có của khoa học - kỹ thuật - công nghệ và ý thức chờ đợi của loài người,
nhưng trước tiên, hãy tiết giảm tiêu dùng, tiết kiệm và tái tạo có hiệu
quả nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, đất đai trồng trọt, nguồn nước
ngọt… Nghĩa là phải định hướng cho đúng, khống chế và điều tiết một
cách có kế hoạch đối với nền sản xuất hàng hóa trước tham vọng và thèm
muốn còn mù quáng của con người…
Quá trình tiến lên văn minh của xã hội loài người là có tính tự nhiên, là tất yếu. Phần tác động của ý muốn, của lý trí chủ quan của loài người chỉ mang tính phụ trợ, làm nhanh chậm quá trình ấy mà thôi. Do đó đến nay, dù đang sống trong tình trạng văn minh cao vợi rồi, con người vẫn bị kìm hỏa bởi sự mù quáng. Nếu sáng suốt, xã hội loài người đã không còn chiến tranh, không còn tranh giành lãnh thổ, không còn bất công, không còn những đòi hỏi danh lợi quá đáng, đã không quên lời khuyên của Lão Tử: "Được danh lợi mà mất sinh mệnh, cái nào hại? Cho nên ham danh lợi quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất mát nhiều. Biết thế nào là đủ thì không nhục, biết lúc nào nên ngừng thì không nguy...".
Đang
chuyện nọ lại xọ chuyện kia. Không dưng, lại đứng ra bói toán cho tương
lai loài người. Có “lạc quẻ” không đấy? Không lạc quẻ thì cũng lạc đề!
Không,
không lạc đề đâu! Chỉ vì hứng chí mà nói quá ra ngoài lề thôi! Ý chúng
ta là muốn có cơ sở để diễn đạt điều này. Sau khi đạt đến cực thịnh,
nước Văn Lang tiếp tục sự phát triển tự nhiên của nó theo hướng suy
thoái dần do xuất hiện những mất cân đối từ thời kỳ thịnh vượng tạo ra
và không được khắc phục như: trình độ tiêu dùng tăng lên những khả năng
đáp ứng của nền kinh tế không tăng mà thậm chí là giảm xuống do hiện
tượng tăng nhanh dân số; sự phân hóa giàu - nghèo ngày càng trở nên sâu
sắc mà nông dân là người hứng chịu đói khổ đầu tiên trong khi tầng lớp ở
“kiến trúc thượng tầng” vẫn cứ xa hoa thừa mứa. Có thể rằng quyền lợi
giữa hai lực lượng ấy đã trở thành đối kháng cùng với nạn đè đầu cưỡi
cổ, tham quan lại nhũng đã là duyên cớ trực tiếp làm cho xã hội Văn Lang
vào những đời vua Hùng cuối cùng đã trở nên loạn lạc…
Không
loại trừ khả năng thời bấy giờ vùng đất mà tộc người Âu Việt đã nằm
trong lãnh thổ có thể chế “liên bang nguyên thủy” Văn Lang, hoặc đóng
vai trò như một nước kiểu “chư hầu”. Lạc Việt và Âu Việt là anh em, có
quan hệ huyết thống bởi cùng có gốc chung là Bách Việt và suốt thời gian
dài đã kề vai sát cánh bên nhau trong sự nghiệp chung khai thiên lập
địa, là hai tộc người lớn nhất trên lãnh thổ Việt Nam cổ đại. Hai tộc
người ấy chẳng có lý do gì để mà tiêu diệt lẫn nhau. Đất nước lầm than,
nhân dân đói khổ, áp bức bóc lột đè nén đã làm cho nhân dân phản kháng.
Các vua Hùng những đời cuối với quan niệm về dân về nước đã lệch lạc và
trở nên phản động, đã chỉ còn cách duy nhất là nuôi dưỡng bạo lực (lấy
hung bạo mà thay cho trí nhân). Chính hành động đàn áp đó, dù nhất thời
là hữu hiệu để bảo vệ ngai vàng nhưng thực ra làm cho thế nước ngày càng
yếu đi và yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước ngày càng bức thiết. Chính
trong hoàn cảnh đó mà các thủ lĩnh người Âu Việt đã đứng lên tập hợp
lực lượng, trước hết là tộc người của họ để chống lại bạo lực cường
quyền và đồng thời nhận lãnh nhiệm vụ vì dân đổi mới đó. Ở đây, những
luận điểm có tính chân lý: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”; “Đại
nghĩa sẽ thắng hung tàn”, đã được thể hiện bằng sự nổi dậy đấu tranh vũ
trang của các thủ lĩnh Âu Việt và vì là chính nghĩa, phù hợp với ý
nguyện của nhân dân, được lòng dân hướng về, nên đã đánh bại quân đội
triều vua Hùng tại chân thành Cổ Loa, mở ra thời kỳ mới, sáng sủa hơn
cho đất nước. Bản thân việc đổi tên nước từ Văn - Lang thành Âu - Lạc và
việc tiếp tục duy trì Cổ Loa làm kinh đô của Thục Phán đã phần nào nói
lên được cái ý nghĩa tốt đẹp của cuộc nổi dậy ấy.
Tuy
vậy, cái hồi ức về một thời đại thịnh vượng dài lâu (dù cũng có thăng
có trầm), trong đó có những giai đoạn cực thịnh của đất nước, xóm làng
an vui, đời sống dân lành ấm no, hạnh phúc đã không bao giờ mất; cái
công lao vĩ đại của triều đại Hùng Vương đã không bao giờ bị lãng quên
trong dân gian - trong lòng dân tộc Việt (Nhờ đức tính truyền thống
“uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” đã được hun đúc nên
trong chính thời đại đó!). Và… cũng không thể quên được sự thực lịch sử
và công lao của Thục Phán - An Dương Vương. Có lẽ vì thế mà truyền sử
dân gian sau này chỉ lưu lại thời đoạn bi kịch của triều đại Hùng Vương
một cách “triền miên”, hoặc nếu có mô tả thì cũng ở dưới dạng ẩn dấu chứ
không nỡ nêu tên trực tiếp để bêu rếu tổ tiên, và những mô tả ấy đã bị
làm sai lạc đi bởi dã tâm (hay đơn giản chỉ là sự ngộ nhận?) của những
kẻ đô hộ nước ta sau đó? Có lẽ cũng vì thế mà lịch sử nước ta giai đoạn
này trở nên rối rắm, chứa đựng nhiều mâu thuẫn?
Không
nên bôi bác lịch sử! Đúng thế! Nhưng nếu lịch sử đó có thể đã từng bị
quá khứ bôi bác và chưa một lần tường minh? Không được bóp méo lịch sử!
Đúng thế! Nhưng nếu lịch sử đó chưa bao giờ tròn (cả về sự ghi nhận các
sự kiện lẫn cách hiểu chúng!)?
Sự
thực lịch sử bao giờ cũng chỉ là sự thực qui ước. Qui ước đó có gần sát
chân lý hay không thì lại phụ thuộc vào “thực chứng” và quan niệm. “Thực
chứng” nói được là nhờ sự phân tích lý giải, mà phân tích, lý giải “liến
thoắng” bằng cánh nào nếu không dựa trên cơ sở quan niệm đầy chủ quan
chưa qua kiểm chứng hoặc đã qua kiểm chứng rồi mà… vẫn sai của thời kỳ lịch sử truyền khẩu?
“Ôn
cố tri tân” là con đường độc đạo đến với chân lý; nhận thức và nhận
thức lại là quá trình cơ bản để tìm hiểu tự nhiên - xã hội, để nhận chân
được Tự Nhiên Tồn Tại. Trong khoa học đã xảy ra như thế và trong nghiên
cứu lịch sử lại càng phải như thế! Vậy thì có nên viết lại một lịch sử
mà quá khứ đã thừa nhận, nhưng bộc lộ những hỗn độn và khuất tất, dù vẫn
chẳng có bằng chứng xác đáng nào; dù chỉ là trên cảm tính chủ quan?
Nên
hay không nên thì cũng mặc kệ, khách quan hay chủ quan thì cũng mặc kệ,
đã là con người thì không thể thờ ơ trước một lịch sử hỗn độn mà mình
yêu thương, chúng ta cứ viết lại lịch sử theo cách nghĩ của một con dân
yêu Tổ Quốc mình, của một hậu duệ tôn kính tổ tiên mình, như một đóng góp
phản biện, và trong khi chờ “thực chứng” đích thực, chúng ta sẽ lấy đó
làm “chính sử” cho tâm hồn mình.
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------------------
-----------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét