Thứ Năm, 17 tháng 12, 2020

TT&HĐIII - 25/c

                                            TRẦN THỦ ĐỘ - ĐỜI LUẬN ANH HÙNG

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
 Trần Hạnh Thu
.

CHƯƠNG IV: ĐỊA LINH NHÂN KIỆT

“Thủ đô là cái đại tập thành của cả đất nước từ khí non sông tụ lại. Không bàn tán về những thành phố khác, mà nói về Hà Nội thì không ai không nhớ đến bài ca chính khí của nó…
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo cái nghĩa tín đồ hành hương, nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà xúc phạm vào nó là phải đền tội”
“Khi một giống nòi bị dồn đến chỗ chỉ có thể lựa chọn cái chết và nô lệ thì xông vào cái chết là dũng cảm hơn. Nơi nào mà nó không phải là thiết yếu thì bạo lực mới bị lên án. Có những trường hợp phải công nhận bạo lực bởi vì không còn cách nào khác”

"Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?"
                                                           (Khuyết danh)
 

 

 

(Tiếp theo)

***


Năm 1175, Lý Anh Tông băng hà. Thái tử Lý Long Cán mới 3 tuổi lên ngôi, tức Lý Cao Tông. Theo lời nhận định của sách Đại Việt sử ký toàn thư, Cao Tông lớn lên chơi bời vô độ, chính sự hành pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, sự nghiệp nhà Lý suy từ đây. 
Trong hơn 2 thế kỷ dưới triều Lý, giặc ngoại xâm không xâm phạm được đến Thăng Long, nhưng đất kinh kỳ cũng phải chịu đựng những cơn binh lửa của xung đột triều đình và chiến tranh phe phái. Đó là “Loạn ba vương” năm 1028 khi Lý Thái Tổ vừa từ trần và nhất là cuộc tranh chấp cuối đời Lý, mở đầu là “Loạn Quách Bốc”. Năm 1209, viên tướng Phạm Bỉnh Di đem quân đi đánh dẹp quân làm phản Phạm Du ở Nghệ An. Phạm Du thua chạy, Bỉnh Di sai tịch thu tài sản đốt hết. Vua Cao Tông lại gọi Phạm Du vào kinh sư, Bỉnh Di đem quân trở về, vua bắt giam lại sai giết chết. Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin, đem binh đánh vào kinh sư, khiến Lý Cao Tông phải chạy ra ngoài, đó gọi là loạn Quách Bốc.
Các cuộc biến loạn làm Kinh thành trở thành bãi chiến trường, cung thất và phố phường nhiều chỗ bị tàn phá. Từ năm 1216 đến 1220, trong vòng 4 năm, vua Lý Huệ Tông phải rời kinh thành về điện tranh dựng tạm tại Tây Phù Liệt (Thanh Trì) và thành Thăng Long bị gọi là Kinh Cũ (Cựu Kinh).
Lý Huệ Tông là ông vua bạc nhược, bỏ bê triều chính và vô trách nhiệm. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh công chúa mới 8 tuổi, rồi bỏ vào chùa Chân Giáo đi tu. Chiêu Thánh công chúa lên ngôi, gọi là Lý Chiêu Hoàng, vì còn nhỏ nên quyền bính ở cả Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện tiền chỉ huy sứ.
Triều Lý đời Huệ Tông đã suy yếu cực độ, sang đời Chiêu Hoàng chỉ còn là danh nghĩa, mọi công việc triều chính thực chất là do họ Trần điều hành. Cuối triều Lý, vua quan ăn chơi sa đọa, kinh tế đất nước suy thoái, mất mùa đói kém liên miên, các thế lực quý tộc phong kiến đánh giết lẫn nhau, cướp bóc bừa bãi. Trong khi đó, tai họa xâm lược đã lồ lộ ngoài biên thùy: đế quốc Nguyên Mông đang là lực lượng vô địch, tung hoành khắp nơi từ Á đến Âu, đánh Kim, diệt Hạ, chiếm Triều Tiên, sửa soạn chinh phục Đường và Đại Việt.
Đất nước cuối triều Lý đang trên đà suy yếu như thế chắc chắn không thể chống nổi một đế quốc mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.
May thay, có lẽ là nhờ vào khí thiêng sông núi chưa dứt, địa vẫn còn linh và nhân vẫn còn kiệt, mà đất nước đã chuyển mình, rời bỏ con đường ngày một u tối, tai họa chực chờ, để tiến về hướng tươi sáng.

Trần Thủ Độ (1194 – 1264), cũng gọi Trung Vũ đại vương, là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện lật đổ nhà Lý, lập nên nhà Trần, thu phục các thế lực người Man làm phản loạn và trong cuộc chiến kháng quân Nguyên lần thứ nhất.

Năm 1209, Lý Cao Tông phải chạy ra khỏi kinh sư vì loạn Quách Bốc, Lý Huệ Tông Lý Hạo Sảm – khi ấy đang là Thái tử phải chạy đến nương nhờ Trần Lý. Gia đình họ Trần vốn làm nghề đánh cá, trở nên giàu có, người chung quanh theo về. Họ Trần dẫn quân về triều dẹp loạn, rước vua về kinh sư, nhân đó mà khuynh loát triều đình. Với chức vụ Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Thủ Độ đã sắp xếp cho con người anh họ của mình lấy Lý Chiêu Hoàng, sau đó Nữ hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông (Trần Cảnh), lập ra triều Trần.

Trần Thủ Độ một tay cáng đáng trọng sự, giúp Trần Thái Tông bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Đại Việt bấy giờ được cường thịnh, có thể chống cự với Mông Cổ. Ông được nhiều nhà sử học qua các thời đại thừa nhận và đánh giá cao về tài năng, khả năng chính trị quyết đoán hiệu quả, nhưng cũng vì thế có rất nhiều sự phê bình tiêu cực về nhân phẩm của ông. Nhiều ý kiến cho rằng ông đã vi phạm các chuẩn mực đạo đức do ông đã bức tử Lý Huệ Tông cũng như cưới Huệ hậu (chị họ của ông) làm phu nhân; ép Trần Thái Tông lấy vợ của anh trai khi đang mang thai 3 tháng và nghi vấn tàn sát tôn tộc nhà Lý.

Nguồn gốc của Trần Thủ Độ không được các sách chính sử chép rõ. Sử chỉ chép rằng, Trần Lý ở Tức Mặc (Nam Định) sinh ra Trần Tự Khánh, Trần Thừa và con gái Trần Nhị Nương. Trần Thủ Độ là em họ của ba người con của Trần Lý. Trần Thừa sinh ra Trần Thái Tông Trần Cảnh, Trần Thủ Độ là chú họ của Thái Tông.

 Trần Thủ Độ đã thu xếp êm đẹp cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, khởi dựng cơ nghiệp nhà Trần.
Trần Cảnh lên ngôi, lấy niên hiệu là Thái Tông, mở đầu thời đại nhà Trần (1226 - 1400). Trần Thủ Độ làm Thái sư.
Triều Trần thành lập đã chấm dứt tình trạng loạn ly cuối triều Lý, khôi phục lại quyền lực của chính quyền trung ương. Trên cơ sở kế thừa thành quả đã đạt được của triều Lý, triều Trần đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp tích cực nhằm thúc đẩy đất nước phát triển về mọi mặt. Nền văn minh Đại Việt tiếp tục phồn thịnh.
Dưới triều Trần, Thăng Long vẫn là kinh đô của nước Đại Việt. Thăng Long đời Trần hầu như không khác Thăng Long đời Lý. Trong 175 năm đóng đô ở đây, nhà Trần tận dụng tất cả những cơ sở đã được xây dựng từ trước, tu bổ mở mang thêm, kiến tạo một số công trình được cho là cần thiết…
Thăng Long đời Trần không có cái sôi nổi dựng xây như đời Lý, nhưng vẫn đầy ắp những sáng tạo văn hóa và nét đặc biệt nổi trội của nó là trực tiếp tham gia đánh giặc ngoại xâm, đánh rất giỏi.
Ba lần đại thắng quân Mông - Nguyên là một trong những võ công chói lọi nhất của dân tộc ta trong sự nghiệp chống ngoại xâm mà hiếm dân tộc nào trên thế giới có được. Cả ba lần ấy đều “động chạm” đến địa danh Thăng Long nên không thể không kể về nó khi muốn kể câu chuyện về lịch sử Hà Nội. Một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên cái vinh quang bất diệt đó chính là sự xuất hiện đúng lúc những con người vừa tài năng vừa lạ lẫm trong dòng họ nhà Trần, như là sự linh ứng, để lại biết bao nhiêu giai thoại làm rung động lòng người.
Năm 1209, hoàng tử Sảm chạy loạn về Hải Ấp, thấy Trần Thị Dung đẹp quá bèn lấy làm vợ. Tháng 11 năm Canh Ngọ (1210), hoàng tử Sảm lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Huệ Tông; sai quân rước Trần Thị Dung về lập làm Nguyên phi. Anh ruột của Trần Thị Dung là Trần Tự Khánh được phong là Chương Tín Hầu. Đến giữa năm Bính Tý (1216), Trần Thị Dung được sắc phong làm Hoàng Hậu, đồng thời Trần Tự Khánh làm Phụ Chính và anh ruột của Tự Khánh là Trần Thừa được giữ chức Nội thị Phán Thủ. Khi Trần Tự Khánh mất, vua Huệ Tông cho Trần Thừa làm Phụ quốc thái úy, và năm sau giao cho em họ Hoàng hậu là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ.

Hoàng hậu chỉ sinh hạ được hai công chúa. Người chị là Thuận Thiên công chúa, sau này được gả cho Phụng Kiều Vương Trần Liễu, con cả của Trần Thừa. Người em là Chiêu Thánh công chúa, sau này là vua Lý Chiêu Hoàng. Con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh (Trần Thái Tông), đồng tuổi với Chiên Thánh công chúa. Trần Liễu có người con trai tên là Trần Quốc Tuấn, sau này trở thành đại anh hùng dân tộc. Trần Cảnh có 4 người con trai là Thái tử Hoảng, Trần Quang Khải, Trần Ích Tắc, Trần Nhật Duật và 2 con gái. Hoảng sau này là vua Trần Thánh Tông, Tắc phản quốc, Khải và Duật đều là những người có tài xuất chúng.
Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung đều là con của Trần Lý. Trần Lý là hậu duệ của Trần Hấp. Trần Hấp là con của Trần Kính. Kính vốn gốc ở Đông Triều, nối đời làm nghề đánh cá, trên đường đi tìm đất làm ăn sinh sống đã cắm sào, dừng chân ở Thức Mạc (Nam Định), lấy vợ ở đó sinh ra Hấp. Lớn lên, Hấp tìm sang Hải Ấp (Thái Bình), nơi giáp ranh các sông Nhị Hà và sông Hải Triều, là vùng đất cổ trù phú, định cư luôn ở đó.
Sau khi đã thu xếp cho Trần Cảnh lên ngôi, tháng 8 năm Bính Tuất (1226), Thái sư Trần Thủ Độ lấy Trần Thị Dung, Hoàng hậu triều Lý và là chị họ mình, làm vợ. Trần Thị Dung sau đó được phong làm Linh Từ Quốc Mẫu. Bà đã có công chỉ huy giới hoàng tộc chủ động rút khỏi kinh thành trong lần giặc Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ nhất (1257); đảm nhiệm việc lo liệu thu nhặt sắt thép, động viên thợ ngày đêm rèn binh khí cho quân Trần; trong trận Đông Bộ Đầu cũng có một phần công trạng.
Khi Lý Chiêu Hoàng làm vua, Trần Thủ Độ đã nghĩ ngay đến việc giành ngôi cho Trần Cảnh, bèn thưa với Trần Thừa. Trần Thừa ngần ngại:
- Chúng ta với Thái hậu và Chiêu Hoàng là chỗ họ ngoại chí thân, nay làm cái việc tranh đoạt ấy tôi e chẳng khỏi mang tiếng với hậu thế.
Trần Thủ Độ phân trần:
- Tôi xem diện mạo Trần Cảnh mũi cao, hai gò má trội đúng là long chuẩn dung nhan. Tính lại rộng rãi, biết thương người, có khí độ của vị thái bình thiên tử. Vả chăng, thời thế lúc này chỉ có họ Trần thay ngôi nhà Lý mới cứu được vận nước suy vi. Trời cho mà không lấy sẽ phải chịu tai ương. Xin đại huynh nên suy nghĩ kỹ.
Trần Thừa bảo Thủ Độ:
- Mọi việc tùy chú định liệu, làm sao cho thành sự thì làm. Hóa nhà làm nước hay đến phải diệt tộc cũng ở một chuyện này đó.
Khi Trần Cảnh đã ở ngôi vua , nhiều đảng loạn mượn cớ phù Lý chống Trần nổi lên. Thủ Độ mời Trần Thừa làm Thượng hoàng lo giúp vua để ông rảnh tay dẹp loạn. Không đầy một năm, Thủ Độ đánh dẹp và thu phục được các đảng giặc để trở lại nắm triều chính.
Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) tại làng Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình). Ông ít được học nhưng có tài thiên phú, có bản lĩnh, thẳng thắn và quyết đoán.
Có lần duyệt hộ khẩu, Linh Từ quốc mẫu xin riêng cho một người làm chức Câu đương (một chức dịch trong xã). Ông ghi tên họ quê quán. Duyệt đến xã ấy, hỏi tên đương sự, đương sự mừng rỡ chạy đến. Trần Thủ Độ nói:
- Người vì có công chúa xin cho được làm Câu đương, không thể ví như những Câu đương khác, phải chặt một ngón chân để phân biệt.
Đương sự kêu van xin thôi, hồi lâu Thủ Độ mới tha cho. Từ đấy, không ai dám nhờ cậy việc riêng nữa.
Sử ghi, có lần Linh Từ quốc mẫu ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm, bị người quân hiệu chặn lại. Về nhà, Linh Từ quốc mẫu than:
- Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu ấy khinh nhờn như thế.
Thủ Độ sai quân đi bắt về. Nghe người quân hiệu kể lại ngọn nguồn câu chuyện, Thủ Độ khen:
- Người ở chức thấp mà biết giữ phép nước, như thế ta còn trách gì nữa - Nói rồi lấy vàng, lụa thưởng cho người ấy.
Có viên quan nhân lúc vào chầu vua Thái Tông, ứa nước mắt tâu:
- Bệ hạ tuổi còn trẻ mà thái sư Trần Thủ Độ quyền nghiêng chân chúa, không biết rồi tiền đồ xã tắc sẽ ra sao? Hạ thần lấy làm lo lắng lắm!
Vua bảo Thủ Độ:
- Trẫm biết Thượng phụ chỉ có tấm lòng son vì nước chứ không có bụng riêng nào. Vậy mà kẻ kia thấy ông nắm giữ mọi quyền bính, dám ngờ vực xằng đã tâu với trẫm là đáng lo ngại về việc Thượng phụ chuyên quyền có thể không hay cho xã tắc. Đó là lời nói hại đến nghĩa vua tôi và tình cảm chú cháu giữa Thượng phụ và trẫm.
Trần Thủ Độ trầm ngâm suy nghĩ rồi tâu:
 - Kẻ kia nói vậy mà đúng. Quả có chuyện chuyên quyền thật. Thế mới biết một trăm người vâng dạ không bằng một người nói thẳng. Trong đám quan lại chỉ duy nhất có người này ngay thẳng, bạo dạn, dám nói những điều người khác chỉ dám nghĩ. Vậy, một triều thịnh phải khuyến khích người nói thật.
Nói xong, Thủ Độ xin phép vua lấy mấy tấm lụa và mấy quan tiền thưởng cho viên quan nọ.
Lại có chuyện, một lần, nhà vua tỏ ý cho An Quốc, anh ruột của Trần Thủ Độ, làm tể tướng. Với tư cách là quan đầu triều, Trần Thủ Độ nói: “Nếu bệ hạ thấy anh tôi là người hiền tài, thì tôi xin từ chức để nhường cho, nếu bệ hạ nhận thấy không phải là hiền tài thì không nên dùng, chứ nếu cả hai anh em đều làm tướng thì đối với thiên hạ còn ra thế nào?”. Đó là câu nói khẳng khái của một tâm hồn bộc trực, và nếu một ông quan đầy quyền uy, không lo đến trăm họ, không biết đặt quyền lợi của quốc gia, xã tắc là trên hết, thì không thể nói được một câu như thế.
Trần Thủ Độ thực sự là linh hồn của cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống sự xâm lược của quân Nguyên Mông. Công lao của ông đối với đất nước, dân tộc là không thể phủ nhận.
Tuy nhiên, sử sách phong kiến thường coi Trần Thủ Độ như một quyền thần vô học, có tài mà không có đức, có công với triều Trần nhưng có tội với triều Lý. Lý do đưa ra là việc Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Chuyện kể rằng: năm Nhâm Thìn (1231), nhân làm lễ Tiên Hậu nhà Lý ở thôn Thái Đường (Đông Ngàn, Bắc Ninh), Thủ Độ sai làm nhà lá ở trên các hố để đến khi các tôn thất nhà Lý vào tế thì bị sụt cả xuống, rồi lấy đất đổ lên chôn sống hết. Nhưng trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, Ngô Sĩ Liên chú giải rằng “việc này chưa chắc đã có thực”.
Trần Thủ Độ mất tháng Giêng năm Giáp Tý (1264), thọ 71 tuổi.


Tham lang mo Thai su Tran Thu Do
Thôn Ngừ, xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là nơi đặt lăng mộ của Thái sư Trần Thủ Độ (1194 - 1264), nhân vật lịch sử có ảnh hưởng rất lớn đến triều Trần cách đây gần một thiên niên kỷ.

Tham lang mo Thai su Tran Thu Do-Hinh-2
Tương truyền, xưa kia lăng mộ này có kiến trúc rất bề thế với nhiều tượng thú tạc bằng đá vô cùng tinh xảo.

Tham lang mo Thai su Tran Thu Do-Hinh-3
 Tuy nhiên, sau những biến động lịch sử, lăng đã dần dần rơi vào cảnh đổ nát và hoang phế. Đến thập niên 1960, trong lăng chỉ còn một tượng hổ và một tượng đá vỡ không rõ hình thù, có thể là tượng Huyền Vũ theo truyền thuyết dân gian.

Tham lang mo Thai su Tran Thu Do-Hinh-4
Pho tượng hổ còn sót lại của lăng được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc cũng như mỹ thuật thời Trần nói riêng, và là một tác phẩm nghệ thuật đẹp trong nền nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam nói chung.

Tham lang mo Thai su Tran Thu Do-Hinh-5
Vào năm 1962, pho tượng này đã được chuyển về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở Hà Nội.

Tham lang mo Thai su Tran Thu Do-Hinh-6
Sau một thời gian dài hoang phế, đến năm 1994 lăng mộ Thái sư Trần Thủ Độ mới được xây dựng lại. Đến những năm 2000, lăng mộ được trùng tu lớn và có diện mạo như ngày nay.  

Tham lang mo Thai su Tran Thu Do-Hinh-7
Trong lịch sử Việt Nam, Trần Thủ Độ là một quyền thần có vai trò lớn trong việc họ Trần đoạt ngôi nhà Lý. Ông là người nắm quyền thực tế của triều Trần trong khoảng thời gian dài, từ 1226 đến khi ông qua đời vào năm 1264.

Tham lang mo Thai su Tran Thu Do-Hinh-8
 Vào năm 1258, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Thái sư Trần Thủ Độ đã nói một câu nổi tiếng, được ghi tạc vào sử Việt: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo"
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét