Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TT&HĐIII - 25/c
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
TRẦN THỦ ĐỘ - ĐỜI LUẬN ANH HÙNG
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
"Lịch sử hoài
thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc
cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời
giáo huấn cho thế hệ sau." Cervantes (Tây Ban Nha)
"Lịch sử là bằng
chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là
thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân." Cicero (La Mã)
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
“Thủ
đô là cái đại tập thành của cả đất nước từ khí non sông tụ lại. Không
bàn tán về những thành phố khác, mà nói về Hà Nội thì không ai không nhớ
đến bài ca chính khí của nó…
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo cái nghĩa tín đồ hành hương,
nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà xúc phạm vào nó là phải
đền tội”
“Khi
một giống nòi bị dồn đến chỗ chỉ có thể lựa chọn cái chết và nô lệ thì
xông vào cái chết là dũng cảm hơn. Nơi nào mà nó không phải là thiết yếu
thì bạo lực mới bị lên án. Có những trường hợp phải công nhận bạo lực
bởi vì không còn cách nào khác”
"Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn Hỏi ai gây dựng nên non nước này?" (Khuyết danh)
(Tiếp theo)
***
Năm 1175, Lý Anh Tông băng hà. Thái tử Lý Long Cán mới 3 tuổi lên ngôi, tức Lý Cao Tông. Theo lời nhận định của sách Đại Việt sử ký toàn thư,
Cao Tông lớn lên chơi bời vô độ, chính sự hành pháp không rõ ràng, giặc
cướp nổi như ong, đói kém liền năm, sự nghiệp nhà Lý suy từ đây.
Trong
hơn 2 thế kỷ dưới triều Lý, giặc ngoại xâm không xâm phạm được đến
Thăng Long, nhưng đất kinh kỳ cũng phải chịu đựng những cơn binh lửa của
xung đột triều đình và chiến tranh phe phái. Đó là “Loạn ba vương” năm
1028 khi Lý Thái Tổ vừa từ trần và nhất là cuộc tranh chấp cuối đời Lý,
mở đầu là “Loạn Quách Bốc”. Năm 1209, viên tướng Phạm Bỉnh Di đem quân đi đánh dẹp quân làm phản Phạm Du ở Nghệ An.
Phạm Du thua chạy, Bỉnh Di sai tịch thu tài sản đốt hết. Vua Cao Tông
lại gọi Phạm Du vào kinh sư, Bỉnh Di đem quân trở về, vua bắt giam lại
sai giết chết. Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin, đem binh đánh
vào kinh sư, khiến Lý Cao Tông phải chạy ra ngoài, đó gọi là loạn Quách Bốc.
Các cuộc biến loạn làm Kinh thành trở thành bãi chiến
trường, cung thất và phố phường nhiều chỗ bị tàn phá. Từ năm 1216 đến
1220, trong vòng 4 năm, vua Lý Huệ Tông phải rời kinh thành về điện
tranh dựng tạm tại Tây Phù Liệt (Thanh Trì) và thành Thăng Long bị gọi
là Kinh Cũ (Cựu Kinh).
Lý
Huệ Tông là ông vua bạc nhược, bỏ bê triều chính và vô trách nhiệm.
Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh
công chúa mới 8 tuổi, rồi bỏ vào chùa Chân Giáo đi tu. Chiêu Thánh công
chúa lên ngôi, gọi là Lý Chiêu Hoàng, vì còn nhỏ nên quyền bính ở cả
Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện tiền chỉ huy sứ.
Triều
Lý đời Huệ Tông đã suy yếu cực độ, sang đời Chiêu Hoàng chỉ còn là danh
nghĩa, mọi công việc triều chính thực chất là do họ Trần điều hành.
Cuối triều Lý, vua quan ăn chơi sa đọa, kinh tế đất nước suy thoái, mất
mùa đói kém liên miên, các thế lực quý tộc phong kiến đánh giết lẫn
nhau, cướp bóc bừa bãi. Trong khi đó, tai họa xâm lược đã lồ lộ ngoài
biên thùy: đế quốc Nguyên Mông đang là lực lượng vô địch, tung hoành
khắp nơi từ Á đến Âu, đánh Kim, diệt Hạ, chiếm Triều Tiên, sửa soạn
chinh phục Đường và Đại Việt.
Đất nước cuối triều Lý đang trên đà suy yếu như thế chắc chắn không thể chống nổi một đế quốc mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.
May
thay, có lẽ là nhờ vào khí thiêng sông núi chưa dứt, địa vẫn còn linh
và nhân vẫn còn kiệt, mà đất nước đã chuyển mình, rời bỏ con đường ngày
một u tối, tai họa chực chờ, để tiến về hướng tươi sáng.
Trần Thủ Độ (1194 – 1264), cũng gọi Trung Vũ đại vương, là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử Việt Nam.
Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện lật đổ nhà Lý, lập nên
nhà Trần, thu phục các thế lực người Man làm phản loạn và trong cuộc
chiến kháng quân Nguyên lần thứ nhất.
Năm 1209, Lý Cao Tông phải chạy ra khỏi kinh sư vì loạn Quách Bốc, Lý Huệ Tông Lý Hạo Sảm – khi ấy đang là Thái tử phải chạy đến nương nhờ Trần Lý. Gia đình họ Trần vốn làm nghề đánh cá, trở nên giàu có, người chung quanh theo về. Họ Trần dẫn quân về triều dẹp loạn, rước vua về kinh sư, nhân đó mà khuynh loát triều đình. Với chức vụ Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Thủ Độ đã sắp xếp cho con người anh họ của mình lấy Lý Chiêu Hoàng, sau đó Nữ hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông (Trần Cảnh), lập ra triều Trần.
Trần Thủ Độ một tay cáng đáng trọng sự, giúp Trần Thái Tông bình
phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước
Đại Việt bấy giờ được cường thịnh, có thể chống cự với Mông Cổ. Ông được
nhiều nhà sử học qua các thời đại thừa nhận và đánh giá cao về tài năng, khả năng chính trị quyết đoán hiệu quả, nhưng cũng vì thế có rất nhiều sự phê bình tiêu cực về nhân phẩm của ông. Nhiều ý kiến cho rằng ông đã vi phạm các chuẩn mực đạo đức do ông đã bức tử Lý Huệ Tông cũng như cưới Huệ hậu
(chị họ của ông) làm phu nhân; ép Trần Thái Tông lấy vợ của anh trai
khi đang mang thai 3 tháng và nghi vấn tàn sát tôn tộc nhà Lý.
Nguồn gốc của Trần Thủ Độ không được các sách chính sử chép rõ. Sử chỉ chép rằng, Trần Lý ở Tức Mặc (Nam Định) sinh ra Trần Tự Khánh, Trần Thừa và con gái Trần Nhị Nương. Trần Thủ Độ là em họ của ba người con của Trần Lý. Trần Thừa sinh ra Trần Thái Tông Trần Cảnh, Trần Thủ Độ là chú họ của Thái Tông.
Trần Thủ Độ đã
thu xếp êm đẹp cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, khởi dựng
cơ nghiệp nhà Trần.
Trần Cảnh lên ngôi, lấy niên hiệu là Thái Tông, mở đầu thời đại nhà Trần (1226 - 1400). Trần Thủ Độ làm Thái sư.
Triều
Trần thành lập đã chấm dứt tình trạng loạn ly cuối triều Lý, khôi phục
lại quyền lực của chính quyền trung ương. Trên cơ sở kế thừa thành quả
đã đạt được của triều Lý, triều Trần đã áp dụng nhiều chính sách và biện
pháp tích cực nhằm thúc đẩy đất nước phát triển về mọi mặt. Nền văn
minh Đại Việt tiếp tục phồn thịnh.
Dưới
triều Trần, Thăng Long vẫn là kinh đô của nước Đại Việt. Thăng Long đời
Trần hầu như không khác Thăng Long đời Lý. Trong 175 năm đóng đô ở đây,
nhà Trần tận dụng tất cả những cơ sở đã được xây dựng từ trước, tu bổ
mở mang thêm, kiến tạo một số công trình được cho là cần thiết…
Thăng
Long đời Trần không có cái sôi nổi dựng xây như đời Lý, nhưng vẫn đầy
ắp những sáng tạo văn hóa và nét đặc biệt nổi trội của nó là trực tiếp
tham gia đánh giặc ngoại xâm, đánh rất giỏi.
Ba
lần đại thắng quân Mông - Nguyên là một trong những võ công chói lọi
nhất của dân tộc ta trong sự nghiệp chống ngoại xâm mà hiếm dân tộc nào
trên thế giới có được. Cả ba lần ấy đều “động chạm” đến địa danh Thăng
Long nên không thể không kể về nó khi muốn kể câu chuyện về lịch sử Hà
Nội. Một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên cái vinh quang bất
diệt đó chính là sự xuất hiện đúng lúc những con người vừa tài năng vừa
lạ lẫm trong dòng họ nhà Trần, như là sự linh ứng, để lại biết bao nhiêu
giai thoại làm rung động lòng người.
Năm
1209, hoàng tử Sảm chạy loạn về Hải Ấp, thấy Trần Thị Dung đẹp quá bèn
lấy làm vợ. Tháng 11 năm Canh Ngọ (1210), hoàng tử Sảm lên ngôi vua, lấy
niên hiệu là Huệ Tông; sai quân rước Trần Thị Dung về lập làm Nguyên
phi. Anh ruột của Trần Thị Dung là Trần Tự Khánh được phong là Chương
Tín Hầu. Đến giữa năm Bính Tý (1216), Trần Thị Dung được sắc phong làm
Hoàng Hậu, đồng thời Trần Tự Khánh làm Phụ Chính và anh ruột của Tự
Khánh là Trần Thừa được giữ chức Nội thị Phán Thủ. Khi Trần Tự Khánh
mất, vua Huệ Tông cho Trần Thừa làm Phụ quốc thái úy, và năm sau giao
cho em họ Hoàng hậu là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Hoàng
hậu chỉ sinh hạ được hai công chúa. Người chị là Thuận Thiên công chúa,
sau này được gả cho Phụng Kiều Vương Trần Liễu, con cả của Trần Thừa.
Người em là Chiêu Thánh công chúa, sau này là vua Lý Chiêu Hoàng. Con
trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh (Trần Thái Tông), đồng tuổi với
Chiên Thánh công chúa. Trần Liễu có người con trai tên là Trần Quốc
Tuấn, sau này trở thành đại anh hùng dân tộc. Trần Cảnh có 4 người con
trai là Thái tử Hoảng, Trần Quang Khải, Trần Ích Tắc, Trần Nhật Duật và 2
con gái. Hoảng sau này là vua Trần Thánh Tông, Tắc phản quốc, Khải và
Duật đều là những người có tài xuất chúng.
Trần
Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung đều là con của Trần Lý. Trần Lý là
hậu duệ của Trần Hấp. Trần Hấp là con của Trần Kính. Kính vốn gốc ở Đông
Triều, nối đời làm nghề đánh cá, trên đường đi tìm đất làm ăn sinh sống
đã cắm sào, dừng chân ở Thức Mạc (Nam Định), lấy vợ ở đó sinh ra Hấp.
Lớn lên, Hấp tìm sang Hải Ấp (Thái Bình), nơi giáp ranh các sông Nhị Hà
và sông Hải Triều, là vùng đất cổ trù phú, định cư luôn ở đó.
Sau
khi đã thu xếp cho Trần Cảnh lên ngôi, tháng 8 năm Bính Tuất (1226),
Thái sư Trần Thủ Độ lấy Trần Thị Dung, Hoàng hậu triều Lý và là chị họ
mình, làm vợ. Trần Thị Dung sau đó được phong làm Linh Từ Quốc Mẫu. Bà
đã có công chỉ huy giới hoàng tộc chủ động rút khỏi kinh thành trong lần
giặc Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ nhất (1257); đảm nhiệm việc
lo liệu thu nhặt sắt thép, động viên thợ ngày đêm rèn binh khí cho quân
Trần; trong trận Đông Bộ Đầu cũng có một phần công trạng.
Khi
Lý Chiêu Hoàng làm vua, Trần Thủ Độ đã nghĩ ngay đến việc giành ngôi
cho Trần Cảnh, bèn thưa với Trần Thừa. Trần Thừa ngần ngại:
-
Chúng ta với Thái hậu và Chiêu Hoàng là chỗ họ ngoại chí thân, nay làm
cái việc tranh đoạt ấy tôi e chẳng khỏi mang tiếng với hậu thế.
Trần Thủ Độ phân trần:
-
Tôi xem diện mạo Trần Cảnh mũi cao, hai gò má trội đúng là long chuẩn
dung nhan. Tính lại rộng rãi, biết thương người, có khí độ của vị thái
bình thiên tử. Vả chăng, thời thế lúc này chỉ có họ Trần thay ngôi nhà
Lý mới cứu được vận nước suy vi. Trời cho mà không lấy sẽ phải chịu tai
ương. Xin đại huynh nên suy nghĩ kỹ.
Trần Thừa bảo Thủ Độ:
- Mọi việc tùy chú định liệu, làm sao cho thành sự thì làm. Hóa nhà làm nước hay đến phải diệt tộc cũng ở một chuyện này đó.
Khi
Trần Cảnh đã ở ngôi vua , nhiều đảng loạn mượn cớ phù Lý chống Trần nổi
lên. Thủ Độ mời Trần Thừa làm Thượng hoàng lo giúp vua để ông rảnh tay
dẹp loạn. Không đầy một năm, Thủ Độ đánh dẹp và thu phục được các đảng
giặc để trở lại nắm triều chính.
Trần
Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) tại làng Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình).
Ông ít được học nhưng có tài thiên phú, có bản lĩnh, thẳng thắn và quyết
đoán.
Có
lần duyệt hộ khẩu, Linh Từ quốc mẫu xin riêng cho một người làm chức
Câu đương (một chức dịch trong xã). Ông ghi tên họ quê quán. Duyệt đến
xã ấy, hỏi tên đương sự, đương sự mừng rỡ chạy đến. Trần Thủ Độ nói:
- Người vì có công chúa xin cho được làm Câu đương, không thể ví như những Câu đương khác, phải chặt một ngón chân để phân biệt.
Đương sự kêu van xin thôi, hồi lâu Thủ Độ mới tha cho. Từ đấy, không ai dám nhờ cậy việc riêng nữa.
Sử ghi, có lần Linh Từ quốc mẫu ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm, bị người quân hiệu chặn lại. Về nhà, Linh Từ quốc mẫu than:
- Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu ấy khinh nhờn như thế.
Thủ Độ sai quân đi bắt về. Nghe người quân hiệu kể lại ngọn nguồn câu chuyện, Thủ Độ khen:
- Người ở chức thấp mà biết giữ phép nước, như thế ta còn trách gì nữa - Nói rồi lấy vàng, lụa thưởng cho người ấy.
Có viên quan nhân lúc vào chầu vua Thái Tông, ứa nước mắt tâu:
-
Bệ hạ tuổi còn trẻ mà thái sư Trần Thủ Độ quyền nghiêng chân chúa,
không biết rồi tiền đồ xã tắc sẽ ra sao? Hạ thần lấy làm lo lắng lắm!
Vua bảo Thủ Độ:
-
Trẫm biết Thượng phụ chỉ có tấm lòng son vì nước chứ không có bụng
riêng nào. Vậy mà kẻ kia thấy ông nắm giữ mọi quyền bính, dám ngờ vực
xằng đã tâu với trẫm là đáng lo ngại về việc Thượng phụ chuyên quyền có
thể không hay cho xã tắc. Đó là lời nói hại đến nghĩa vua tôi và tình
cảm chú cháu giữa Thượng phụ và trẫm.
Trần Thủ Độ trầm ngâm suy nghĩ rồi tâu:
-
Kẻ kia nói vậy mà đúng. Quả có chuyện chuyên quyền thật. Thế mới biết
một trăm người vâng dạ không bằng một người nói thẳng. Trong đám quan
lại chỉ duy nhất có người này ngay thẳng, bạo dạn, dám nói những điều
người khác chỉ dám nghĩ. Vậy, một triều thịnh phải khuyến khích người
nói thật.
Nói xong, Thủ Độ xin phép vua lấy mấy tấm lụa và mấy quan tiền thưởng cho viên quan nọ.
Lại
có chuyện, một lần, nhà vua tỏ ý cho An Quốc, anh ruột của Trần Thủ Độ,
làm tể tướng. Với tư cách là quan đầu triều, Trần Thủ Độ nói: “Nếu bệ
hạ thấy anh tôi là người hiền tài, thì tôi xin từ chức để nhường cho,
nếu bệ hạ nhận thấy không phải là hiền tài thì không nên dùng, chứ nếu
cả hai anh em đều làm tướng thì đối với thiên hạ còn ra thế nào?”. Đó là
câu nói khẳng khái của một tâm hồn bộc trực, và nếu một ông quan đầy
quyền uy, không lo đến trăm họ, không biết đặt quyền lợi của quốc gia,
xã tắc là trên hết, thì không thể nói được một câu như thế.
Trần
Thủ Độ thực sự là linh hồn của cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống sự
xâm lược của quân Nguyên Mông. Công lao của ông đối với đất nước, dân
tộc là không thể phủ nhận.
Tuy
nhiên, sử sách phong kiến thường coi Trần Thủ Độ như một quyền thần vô
học, có tài mà không có đức, có công với triều Trần nhưng có tội với
triều Lý. Lý do đưa ra là việc Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Chuyện
kể rằng: năm Nhâm Thìn (1231), nhân làm lễ Tiên Hậu nhà Lý ở thôn Thái
Đường (Đông Ngàn, Bắc Ninh), Thủ Độ sai làm nhà lá ở trên các hố để đến
khi các tôn thất nhà Lý vào tế thì bị sụt cả xuống, rồi lấy đất đổ lên
chôn sống hết. Nhưng trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, Ngô Sĩ Liên chú
giải rằng “việc này chưa chắc đã có thực”.
Trần Thủ Độ mất tháng Giêng năm Giáp Tý (1264), thọ 71 tuổi.
Thôn Ngừ, xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là nơi đặt lăng mộ của Thái sư Trần Thủ Độ (1194 - 1264), nhân vật lịch sử có ảnh hưởng rất lớn đến triều Trần cách đây gần một thiên niên kỷ.
Tương truyền, xưa kia lăng mộ này có kiến trúc rất bề thế với nhiều tượng thú tạc bằng đá vô cùng tinh xảo.
Tuy nhiên, sau những biến
động lịch sử, lăng đã dần dần rơi vào cảnh đổ nát và hoang phế. Đến thập
niên 1960, trong lăng chỉ còn một tượng hổ và một tượng đá vỡ không rõ
hình thù, có thể là tượng Huyền Vũ theo truyền thuyết dân gian.
Pho tượng hổ còn sót lại của
lăng được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật điêu
khắc cũng như mỹ thuật thời Trần nói riêng, và là một tác phẩm nghệ
thuật đẹp trong nền nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam nói chung.
Vào năm 1962, pho tượng này đã được chuyển về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở Hà Nội.
Sau một thời gian dài hoang phế, đến năm 1994 lăng mộ Thái sư Trần Thủ Độ mới được xây dựng lại. Đến những năm 2000, lăng mộ được trùng tu lớn và có diện mạo như ngày nay.
Trong lịch sử Việt Nam, Trần
Thủ Độ là một quyền thần có vai trò lớn trong việc họ Trần đoạt ngôi
nhà Lý. Ông là người nắm quyền thực tế của triều Trần trong khoảng thời
gian dài, từ 1226 đến khi ông qua đời vào năm 1264.
Vào năm 1258, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Thái sư Trần Thủ Độ đã nói một câu nổi tiếng, được ghi tạc vào sử Việt: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo"
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một bộ làm bộ làm tịch" Mark Twain -“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...” Vidhusekharsastri -"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!" Albert Einstein -"Lòng
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm ăn th
Mùa Chim Én Bay - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung MỌC CÁNH Em ơi em, mọc cánh bao giờ thế Định bay đi đâu mà nhìn ra đại dương? Tìm nguồn hạnh phúc bên kia thế giới Ở đó đang chờ một tình yêu thương? Thôi bay đi em, đừng áy náy, vấn vương Đừng lưu luyến kẻ dưng, người cũ Bay đi em, về phương trời quyến rũ Ở đó có tình sâu nặng đợi chờ! Bay đi em, đến xứ sở ước mơ Về chao liệng trên bến bờ hi vọng Thỏa khao khát những nỗi niềm vui sống Của một hồn thơ dào dạt yêu thương! Trần Hạnh Thu Câu Đợi Câu Chờ - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung Dương Hiểu Ngọc bay cao với đôi cánh "Thiên thần tình yêu 09:26 05/04/2014 Chắp "đôi cánh thiên thần", người đẹp Dương Hiểu Ngọc sẽ bay cao, bay xa trong nghệ thuật với những nỗ lực không ngừng. Xuất hiện liên tục trên các trang mạng trong thời gian gần
Nhận xét
Đăng nhận xét