Được trao giải Nobel Vật lý cho những cống hiến với vật lý lý thuyết và sự khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện, thiên tài Albert Einstein được đánh giá là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất thế giới.
Tiên đoán về Chiến tranh thế giới thứ 4
Nhân
loại đã trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới 1 và 2, để lại tổn thất
lớn về người và tài sản. Trong những năm qua, nhiều cuộc xung đột đẫm
máu diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Điều này khiến giới chuyên gia và
chính phủ các nước quan ngại những sự kiện này sẽ làm khởi động cỗ máy
chiến tranh, đẩy nhân loại vào cuộc Chiến tranh thế giới 3 tàn khốc, đẫm
máu hơn so với hai cuộc chiến tranh thế giới trước đó.
Sinh thời, nhà vật lý Albert Einstein từng đưa ra tiên đoán nổi tiếng về chiến tranh thế giới 3 và 4.
"Tôi
không biết chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ sử dụng vũ khí nào nhưng tôi
biết rằng chiến tranh thế giới thứ 4 sẽ sử dụng gậy gộc và đá", Einstein
nói.
Theo nhà khoa học Einstein, mặc dù không
biết loại vũ khí nào sẽ được các nước sử dụng trong Chiến tranh thế giới
thứ 3 nhưng ông tin rằng Chiến tranh thế giới thứ 4 sẽ sử dụng những vũ
khí thô sơ như gậy gộc và đá. Liệu lời tiên tri này của thiên tài vật
lý nổi tiếng lịch sử có trở thành sự thật hay không thì cho đến nay chưa
ai dám khẳng định.
</ifarme>
Bên
cạnh lời tiên tri về về chiến tranh thế giới 3 và 4, Albert Einstein
từng khiến mọi người kinh ngạc khi tiên đoán chính xác về một đại dịch
toàn cầu.
“Tôi sợ cái ngày mà công nghệ sẽ lấn
át sự giao tiếp giữa con người với con người. Thế giới lúc đó sẽ có một
thế hệ toàn những kẻ đần độn", Einstein dự đoán.
Đúng
như dự đoán của Einstein, với sự phát triển vượt bậc của khoa học công
nghệ, điện thoại thông minh đã trở thành “vật bất ly thân” đối với nhiều
người. Việc ra đời của điện thoại thông minh giúp con người liên lạc
với nhau trở nên dễ dàng hơn, với nhiều tiện ích hơn. Tuy nhiên, chúng
cũng khiến con người xa cách nhau hơn bởi lẽ mọi người dễ dàng bắt gặp
hình ảnh người người chăm chăm nhìn vào điện thoại của mình mà ít nói
chuyện trực tiếp với nhau hơn ngay cả khi trực tiếp gặp mặt, cùng đi ăn
uống…Nhiều người đã quên mất những mối quan hệ thực sự trong cuộc sống ở
bên ngoài chiếc điện thoại.
Thiên tài nổi tiếng với tin đồn từng thi trượt toán
Là một trong những nhà khoa học nổi tiếng thế giới,
Albert Einsteinđược nhiều người ngưỡng mộ bởi bộ óc thiên tài. Tuy nhiên, khi còn đi học, ông không được coi là một học sinh giỏi. Thậm chí, có tin đồn cho rằng với thành tích không mấy xuất sắc nên Einstein từng thi trượt môn toán. Tuy nhiên trên thực tế, Einstein chưa từng thi trượt mộ toán.
Albert Einsteinđược nhiều người ngưỡng mộ bởi bộ óc thiên tài. Tuy nhiên, khi còn đi học, ông không được coi là một học sinh giỏi. Thậm chí, có tin đồn cho rằng với thành tích không mấy xuất sắc nên Einstein từng thi trượt môn toán. Tuy nhiên trên thực tế, Einstein chưa từng thi trượt mộ toán.
“Tôi
chưa bao giờ thi trượt môn toán cả. Trước 15 tuổi, tôi đã thành thạo
những phép tính vi phân và tích phân”, Einstein cười lớn khi nói về tin
đồn thi trượt môn toán.
Khi học tiểu học,
Einstein luôn đứng đầu lớp, đặc biệt là môn toán. Thậm chí, ông còn tự
học hình học và đại số trước. Cha mẹ Einstein đã mua trước sách cho ông
để ông có thể học trong dịp nghỉ hè. Không những ông học được những mệnh
đề trong những cuốn sách đó mà còn cố gắng tự chứng minh những định lý
mới. Nhà vật lý này còn gây chú ý khi tự đưa ra cách chứng minh riêng
cho định lý Pitago.
Tâm Anh
Quan điểm của Phật giáo về chiến tranh
Đăng ngày 16 - 08 - 2017 - Lúc 07 : 00 : 00 (GMT+7)
1. Quan điểm của Phật giáo về chiến tranh
Nói một cách tổng quát, Phật giáo không chấp nhận chiến tranh dưới bất cứ hình thức nào, dù đó là chiến tranh dưới danh nghĩa gì. Vì chiến tranh là đồng nghĩa với tội ác, là gieo rắc sự nghèo nàn, tật bệnh, đói khát cho cả hai: chủ chiến và bị chiến. Chưa từng thấy có một đoạn nào Kinh điển nào trong Phật giáo tán thưởng đánh phá lẫn nhau, dù đó là đánh với danh nghĩa “cứu khốn phò nguy” hay danh nghĩa “bảo vệ quốc gia”. Như chúng ta thấy, chính dòng họ của đức Phật gần như gặp phải nạn diệt chủng, thế mà đức Phật không dùng thần thôngđể đánh bại kẻ thù, cứu lấy giòng tộc! Khi vua Tỳ-lưu-ly đem quân đánh phá thành Ca-tỳ-la-vệ để trả thùcái nợ xỉ nhục của ông khi trước, đức Phật đã ba lần trưa nắng ra tận biên ải để khuyến hóa vua Tỳ-lưu-ly cũng như để cản bước tiến của đoàn quân thiện chiến của Tỳ-lưu-ly. Nhưng kết quả ra sao? Bất thành! Vua Tỳ-lưu-ly đã làm cỏ dòng họ Thích-ca. Đặt trường hợp chúng ta, có lẽ chúng ta đã nghĩ rằng chúng ta phải có nhiệm vụ bảo vệ giang san, xã tắc, đánh bật kẻ thù, v.v…. và viện dẫn bao nhiêu là lý do để bào chữa hành động của mình. Nhưng đức Phật thì khác, với Phật nhãn Ngài biết rõ đâu là nhân, đâu là duyên của chiến tranh đó. Ngài còn chỉ trích các Bà-la-môn đã thọ nhận tín thí cúng dường mà còn bàn đến chiến sự (Kinh Phạm Võng, số 1, thuộc Trường Bộ Kinh). Lại nữa, trong Giới của hàng Tỳ-kheo (số 48 thuộc Ba-dật-đề) không được xem diễn binh tập trận. Qua đó, chúng ta thấy thái độ của đức Phật, không giống như các vị giáo chủ khác, Ngài không hề quan tâm đến chính sự. Nói như vậy, không có nghĩa là cả cuộc đời đức Phật không có đối mặt đến những vấn đề chính trị, tội phạm, chiến tranh. Xin đưa ra hai dẫn chứng. Một lần dòng họ Sakya (Thích-ca) và dòng họ Koliya chuẩn bị đánh nhau vì tranh chiếm dòng nước. Ngài nhận thấy nhân duyên Ngài có thể hóa độ được, nên Ngài đã đích thân đến phân giải, cuối cùng hai bên đều hòa thuận và sử dụng chung dòng nước[vi]. Trường hợp thứ hai, khi vua A-xà-thế muốn cất binh đánh nước Vajjì, liền sai đại thần Vũ-Xá đến thỉnh vấn đức Thế Tôn, đức Phật không trả lời trực tiếp, mà chỉ hỏi tôn giả A-nan về truyền thống tốt đẹp của dân Vajjì có được gìn giữ không? Qua đó, đại thần Vassakàra đã hiểu được yếu chỉ của đức Thế Tôn muốn nói. (Kinh Đại-bát Niết-bàn, số 16, thuộc Trường Bộ)
Trở lại vấn đề mà nhiều người thường đặt câu hỏi: Trường hợp các cuộc thánh chiến của Thiên Chúa giáo và Hồi giáo thời Trung cổ và cận đại, các cuộc thánh chiến xâm lăng thuộc địa của Hồi giáo ở vùng Trung Á và Tây Á, hoặc các cuộc xâm lăng của các Đế quốc thuộc Thiên Chúa giáo để mở mang nước chúa, họ có tội không? Vì họ nghĩ rằng họ làm vì chúa, họ đâu làm vì bản thân họ, cho nên sẵn sàng hy sinh thân mình. Theo lời Phật dạy, gieo ác nhân thì gặt ác quả. Do đó, họ mãi bị cộng nghiệp chiến tranh, giết hại lẫn nhau, oan oan tương báo, không biết khi nào mới chấm dứt được.
2. Quan điểm của Phật giáo về “lòng yêu nước”
Có một số trường hợp buộc phải giết người, họ gọi là “tội ác cần thiết”, như giết kẻ thù để bảo tồn quốc gia, hành động đó được xếp vào loại nào? Họ vì yêu nước mà sẵn sàng hy sinh thân mình, lại bảo đó là một hành động bất thiện sao? Họ có thể là những con người lương thiện, đạo đức, yêu quê hương, yêu đất nước, yêu dân tộc, họ hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, lại gán cho họ là những kẻ ác nhânthì có lẽ là không công bằng! Họ giết giặc nhiều chừng nào thì chính thể đó trao huân chương nhiều chừng ấy, vậy theo quan điểm của đạo Phật thì sao? Theo đạo Phật, có rất nhiều cấp độ để chúng tađánh giá hành động đó là thiện hay ác. Chứ chưa hẳn giết được nhiều giặc là hành động đáng khenngợi, hoặc chưa hẳn trốn tránh nhiệm vụ của mình là hành động đáng tán thưởng. Tất cả phải tùy thuộctâm của người ấy để đánh giá. Vì cùng ra trận để đánh kẻ thù, để bảo tồn quốc gia, nhưng tâm niệmkhác nhau dẫn đến kết quả nghiệp báo khác nhau. Một người thực hiện một hành động vì mọi người thì kết quả khác xa so với một người làm để thỏa mãn tính hiếu sát của mình. Biết bao nhiêu người không nỡ hạ sát kẻ thù khi thấy kẻ thù đang thất thế, đớn đau. Cũng biết bao nhiêu người thỏa mãn, khoái trá khi thấy kẻ thù đang bị khổ sở, hành hạ!. Chính những tâm niệm này là nền tảng để chúng ta đánh giácùng một hành động mà kết quả khác hay giống nhau.
Lại nữa, giết người thì phải đền mạng, đó là luật pháp của hầu hết mọi quốc gia. Còn trường hợp giết người lại được thưởng, đó là giết mấy tên trùm mafia, những tên tướng cuớp khét tiếng, đây cũng là điều khuyến khích của mọi quốc gia. Nếu chúng ta chỉ xét trên hành động, mà không xét về mục đích, động cơ thì mấy ông quan Tư Khấu thời xưa, nay là ban Tư Pháp sẽ là những người giết người nhiều nhất. Vì gần như ngày nào họ cũng phải dùng đến nhiều biện pháp để tra khảo, như đánh đập, tra tấncác tội nhân. Thậm chí phải giết bỏ, như vậy họ đều phạm tội sát sanh hay sao ? Không phải vậy, mỗi người có mỗi nhiệm vụ riêng, người làm quan phán xét theo luật pháp phân minh, góp phần tạo dựng xã hội được an bình, được thái hoà, thì rất có phước. Người làm lính, hết lòng bảo vệ biên cương lãnh thổ quốc gia cũng có phước. Đây là đạo đức nhiệm vụ của một người mà buộc phải chu toàn.
Nói như vậy, không có nghĩa là chúng tôi khuyến khích chiến tranh để tiêu diệt các tên khủng bố, hay tiêu diệt các tên trùm mafia. Như trên đã nói chiến tranh là đồng nghĩa với tội ác, mặc dù chúng ta thực hiện chiến tranh với một mục đích tốt đẹp cho mấy, nhưng không làm sao tránh khỏi tổn thương đến những đứa trẻ vô tội, con phải xa cha, vợ phải xa chồng, các bà mẹ sẽ vĩnh viễn không còn được trông thấy mặt con. Sau khói lửa chiến tranh, lưu lại bao tàn tích của tật nguyền, đói khát, bệnh hoạn v.v… nói không thể hết ! Chính vì vậy, các chính sách hoà giải, hiệp ước là chính sách tốt nhất mà đạo Phật hằng kêu gọi.
3. Vài trường hợp sát sanh khi đức Phật còn đang tu hạnh Bồ-tát
Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh (số 156) trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh có trình bày câu chuyện tiền thân của đức Phật. Câu chuyện này có thể là một trong những dẫn chứng phù hợp cho trường hợp này. Thuở xưa lúc đức Phật Thích-ca còn đang trong quá trình tu tập, lúc bấy giờ Ngài buộc phải giết một kẻ làm trinh thám cho 500 tên cướp để ngăn chặn cuộc tấn công của 500 tên cướp này, mặc dầu người do thám đó đã từng là bạn của Ngài.
Một câu chuyện khác được đề cập trong Huệ Thượng Bồ-Tát Vấn Đại Thiện Quyền Kinh (số 345), lúc bấy giờ đức Phật còn đang tu hạnh Bồ-tát, Ngài là thuyền trưởng của đoàn thương buôn 500 người đã giết một tên tướng cướp để cứu lấy 500 thương nhân đó. Ngài nghĩ rằng nếu vì giết một tên cướp này mà Ngài phải vào địa ngục, Ngài cũng sẵn lòng, vì điều đó còn tốt hơn để chúng giết hại biết bao nhiêu người! Trên thực tế, sau khi thân hoại mạng chung, Ngài được tái sanh lên cảnh giới chư thiên. Sau này Ngài thành Phật cũng chịu quả báo, nhưng không phải quả báo mất mạng mà chỉ giẫm gai trên đường !
4. Lịch sử một vài nước Phật giáo với chiến tranh
Trường hợp vì sự tồn vong của quốc gia mà giới sát có thể được xem là nhẹ. Trường hợp này có thể lấy điển hình ở Việt Nam vào thế kỷ XII, nhà Trần ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông lừng lẫy, oai hùng dưới sự lãnh đạo tài tình của những người vừa là Phật tử vừa là những người cầm vận mệnhquốc gia. Nếu chúng ta cứ khư khư chấp chặt thì nhân dân Việt Nam có lẽ đã bị vó ngựa Mông Cổ giẫm nát rồi, chưa hẳn có một đất nước độc lập như ngày nay. Trường hợp như vậy, người cầm vận mệnhquốc gia phải đặt đại thể dân tộc lên hàng đầu, lấy nhiệm vụ lãnh đạo quốc gian đặt lên trên đạo đứcbản thân. Do đó, cứu lấy nhân dân thoát khỏi ách xâm lược, đô hộ là phước đức, chứ không phải tội lỗi. Nếu chúng ta so sánh trận đánh của người Việt Nam xưa kia với trận đánh của Mỹ với Afghanistan vừa rồi, chắc chắn số người thiệt mạng cả Trung Hoa và Việt Nam hồi đó hơn không biết bao nhiêu lần số người thiệt mạng vừa rồi. Phật giáo không kết án những trận đánh như vậy, cũng không tán thán, mà tin tưởng có nghiệp báo vay trả nhiều đời nhiều kiếp.
Thế kỷ thứ XI dưới triều vua Langdarma, Phật giáo Tây Tạng bị pháp nạn. Nhà vua này vì nghe lời dèm pha của đạo Bon, ra lệnh tiêu diệt Phật giáo, phá chùa, giết Tăng. Hơn hai năm sau, có một vị Lạt-ma tên là Palgyi Dorjé lẻn vào cung ám sát vua rồi trốn đi. Nhờ đó Phật giáo không bị tiêu diệt hoàn toàn. Như vậy, người giết nhà vua đã hủy Phật, phá Tăng đó có phạm tội sát hay không? Theo nhân quảthông thường thì dễ đi đến kết luận là có, nhưng chưa hẳn, vì động cơ của người vị Tăng kia đâu phải giết người vì các tâm sở bất thiện như tham lam mà giết, sân hận mà giết, không thỏa mãn mà giết, mà giết chỉ vì động cơ bảo vệ chân lý, bảo vệ đời sống tâm linh cho mọi người. Nhân quả phức tạp trùng trùng, chứ không đơn giản là “gieo nhân nào gặt quả nấy”, do đó chưa hẳn vị Tăng ấy bị đọa vào các cảnh giới khổ đau như thông thường chúng ta nói. Chúng ta có thể tin được câu chuyện đức Phật trong thời quá khứ đã từng giết một tên cướp để cứu lấy 500 thương nhân, không phải vì thế mà đọa vào cõi xấu, ngược lại được sanh lên chư thiên, nhưng dư nghiệp cũng không tránh khỏi, đến khi thành bậc Chánh Đẳng Giác rồi mà còn giậm phải gai nhọn. Trường hợp vị Tăng kia cũng vậy, nếu vì Chánh pháptrường tồn ở nhân gian hoặc vì an ninh của quốc gia mà buộc phải hạ sát một số người nào quá ác độc, theo thiển ý của người viết thì phước đức nhiều hơn tội.
Lại nữa, câu chuyện của Ngài Cầu-na-bạt-ma, khoảng thế kỷ thứ V khi đến truyền giáo ở vùng Java, nay là Indonesia cũng là một dẫn chứng tốt để chúng ta học hỏi. Lúc bấy giờ Java bị vua lân bang đánh phá, nhà vua hỏi tôn giả Cầu-na-bạt-ma có nên đánh trả không, vì sợ rằng điều đó trái với giới luật nhà Phật ? Tôn giả Cầu-na-bạt-ma đã trả lời là nhà vua nên thực hiện nhiệm vụ của mình, nhưng khởi tâmđại bi thương xót mọi loài, bất đắc dĩ mới dùng hạ sách này.
***
Tóm lại, Phật giáo không chủ trương sát sanh để mưu cầu hạnh phúc cho bản thân cũng như quyền lợicho một nhóm hoặc cho dân tộc mình. Tuy nhiên, trong trường hợp cần phải bảo vệ dân tộc, bảo vệchân lý thì các hình thức bạo động với thiện ý được cho phép, nhưng chỉ là giải pháp nhất thời, chứ không phải là giải pháp tối ưu. Đạo Phật là một đạo tôn trọng sự sống của mọi chúng sanh, không riêng gì con người. Do đó, bất cứ hình thức nào như tự mình giết, hoặc bảo người khác giết, hoặc thấy giết mà đem lòng vui đều không được chấp nhận đối với một Phật tử.
Trái đất này được xanh tươi hay không, nhân loại được hạnh phúc không, tuỳ thuộc rất lớn vào mỗi người. Trong vòng sinh tử vô tận, vô số những người thân của ta, nay trở thành thân hoặc sơ, thậm chí đứng ở thế hai chiến tuyến đối lập. Chiến tranh là đỉnh cao của thù hận, mâu thuẫn, sát sanh, tranh giành tài sản, v.v…. Đây là một nghiệp tích luỹ của tội ác và bạo tàn. Do đó, mỗi Phật tử chúng ta nên ăn chay, hoà thuận, biết sống san sẻ, thương yêu kẻ khác là gieo nhân hoà bình, đem lại nguồn an vui và thịnh lạc cho mỗi người và cho toàn thể xã hội. Được như vậy thì quý biết bao!
(Thích Giác Hoàng)
Nói một cách tổng quát, Phật giáo không chấp nhận chiến tranh dưới bất cứ hình thức nào, dù đó là chiến tranh dưới danh nghĩa gì. Vì chiến tranh là đồng nghĩa với tội ác, là gieo rắc sự nghèo nàn, tật bệnh, đói khát cho cả hai: chủ chiến và bị chiến. Chưa từng thấy có một đoạn nào Kinh điển nào trong Phật giáo tán thưởng đánh phá lẫn nhau, dù đó là đánh với danh nghĩa “cứu khốn phò nguy” hay danh nghĩa “bảo vệ quốc gia”. Như chúng ta thấy, chính dòng họ của đức Phật gần như gặp phải nạn diệt chủng, thế mà đức Phật không dùng thần thôngđể đánh bại kẻ thù, cứu lấy giòng tộc! Khi vua Tỳ-lưu-ly đem quân đánh phá thành Ca-tỳ-la-vệ để trả thùcái nợ xỉ nhục của ông khi trước, đức Phật đã ba lần trưa nắng ra tận biên ải để khuyến hóa vua Tỳ-lưu-ly cũng như để cản bước tiến của đoàn quân thiện chiến của Tỳ-lưu-ly. Nhưng kết quả ra sao? Bất thành! Vua Tỳ-lưu-ly đã làm cỏ dòng họ Thích-ca. Đặt trường hợp chúng ta, có lẽ chúng ta đã nghĩ rằng chúng ta phải có nhiệm vụ bảo vệ giang san, xã tắc, đánh bật kẻ thù, v.v…. và viện dẫn bao nhiêu là lý do để bào chữa hành động của mình. Nhưng đức Phật thì khác, với Phật nhãn Ngài biết rõ đâu là nhân, đâu là duyên của chiến tranh đó. Ngài còn chỉ trích các Bà-la-môn đã thọ nhận tín thí cúng dường mà còn bàn đến chiến sự (Kinh Phạm Võng, số 1, thuộc Trường Bộ Kinh). Lại nữa, trong Giới của hàng Tỳ-kheo (số 48 thuộc Ba-dật-đề) không được xem diễn binh tập trận. Qua đó, chúng ta thấy thái độ của đức Phật, không giống như các vị giáo chủ khác, Ngài không hề quan tâm đến chính sự. Nói như vậy, không có nghĩa là cả cuộc đời đức Phật không có đối mặt đến những vấn đề chính trị, tội phạm, chiến tranh. Xin đưa ra hai dẫn chứng. Một lần dòng họ Sakya (Thích-ca) và dòng họ Koliya chuẩn bị đánh nhau vì tranh chiếm dòng nước. Ngài nhận thấy nhân duyên Ngài có thể hóa độ được, nên Ngài đã đích thân đến phân giải, cuối cùng hai bên đều hòa thuận và sử dụng chung dòng nước[vi]. Trường hợp thứ hai, khi vua A-xà-thế muốn cất binh đánh nước Vajjì, liền sai đại thần Vũ-Xá đến thỉnh vấn đức Thế Tôn, đức Phật không trả lời trực tiếp, mà chỉ hỏi tôn giả A-nan về truyền thống tốt đẹp của dân Vajjì có được gìn giữ không? Qua đó, đại thần Vassakàra đã hiểu được yếu chỉ của đức Thế Tôn muốn nói. (Kinh Đại-bát Niết-bàn, số 16, thuộc Trường Bộ)
Trở lại vấn đề mà nhiều người thường đặt câu hỏi: Trường hợp các cuộc thánh chiến của Thiên Chúa giáo và Hồi giáo thời Trung cổ và cận đại, các cuộc thánh chiến xâm lăng thuộc địa của Hồi giáo ở vùng Trung Á và Tây Á, hoặc các cuộc xâm lăng của các Đế quốc thuộc Thiên Chúa giáo để mở mang nước chúa, họ có tội không? Vì họ nghĩ rằng họ làm vì chúa, họ đâu làm vì bản thân họ, cho nên sẵn sàng hy sinh thân mình. Theo lời Phật dạy, gieo ác nhân thì gặt ác quả. Do đó, họ mãi bị cộng nghiệp chiến tranh, giết hại lẫn nhau, oan oan tương báo, không biết khi nào mới chấm dứt được.
2. Quan điểm của Phật giáo về “lòng yêu nước”
Có một số trường hợp buộc phải giết người, họ gọi là “tội ác cần thiết”, như giết kẻ thù để bảo tồn quốc gia, hành động đó được xếp vào loại nào? Họ vì yêu nước mà sẵn sàng hy sinh thân mình, lại bảo đó là một hành động bất thiện sao? Họ có thể là những con người lương thiện, đạo đức, yêu quê hương, yêu đất nước, yêu dân tộc, họ hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, lại gán cho họ là những kẻ ác nhânthì có lẽ là không công bằng! Họ giết giặc nhiều chừng nào thì chính thể đó trao huân chương nhiều chừng ấy, vậy theo quan điểm của đạo Phật thì sao? Theo đạo Phật, có rất nhiều cấp độ để chúng tađánh giá hành động đó là thiện hay ác. Chứ chưa hẳn giết được nhiều giặc là hành động đáng khenngợi, hoặc chưa hẳn trốn tránh nhiệm vụ của mình là hành động đáng tán thưởng. Tất cả phải tùy thuộctâm của người ấy để đánh giá. Vì cùng ra trận để đánh kẻ thù, để bảo tồn quốc gia, nhưng tâm niệmkhác nhau dẫn đến kết quả nghiệp báo khác nhau. Một người thực hiện một hành động vì mọi người thì kết quả khác xa so với một người làm để thỏa mãn tính hiếu sát của mình. Biết bao nhiêu người không nỡ hạ sát kẻ thù khi thấy kẻ thù đang thất thế, đớn đau. Cũng biết bao nhiêu người thỏa mãn, khoái trá khi thấy kẻ thù đang bị khổ sở, hành hạ!. Chính những tâm niệm này là nền tảng để chúng ta đánh giácùng một hành động mà kết quả khác hay giống nhau.
Lại nữa, giết người thì phải đền mạng, đó là luật pháp của hầu hết mọi quốc gia. Còn trường hợp giết người lại được thưởng, đó là giết mấy tên trùm mafia, những tên tướng cuớp khét tiếng, đây cũng là điều khuyến khích của mọi quốc gia. Nếu chúng ta chỉ xét trên hành động, mà không xét về mục đích, động cơ thì mấy ông quan Tư Khấu thời xưa, nay là ban Tư Pháp sẽ là những người giết người nhiều nhất. Vì gần như ngày nào họ cũng phải dùng đến nhiều biện pháp để tra khảo, như đánh đập, tra tấncác tội nhân. Thậm chí phải giết bỏ, như vậy họ đều phạm tội sát sanh hay sao ? Không phải vậy, mỗi người có mỗi nhiệm vụ riêng, người làm quan phán xét theo luật pháp phân minh, góp phần tạo dựng xã hội được an bình, được thái hoà, thì rất có phước. Người làm lính, hết lòng bảo vệ biên cương lãnh thổ quốc gia cũng có phước. Đây là đạo đức nhiệm vụ của một người mà buộc phải chu toàn.
Nói như vậy, không có nghĩa là chúng tôi khuyến khích chiến tranh để tiêu diệt các tên khủng bố, hay tiêu diệt các tên trùm mafia. Như trên đã nói chiến tranh là đồng nghĩa với tội ác, mặc dù chúng ta thực hiện chiến tranh với một mục đích tốt đẹp cho mấy, nhưng không làm sao tránh khỏi tổn thương đến những đứa trẻ vô tội, con phải xa cha, vợ phải xa chồng, các bà mẹ sẽ vĩnh viễn không còn được trông thấy mặt con. Sau khói lửa chiến tranh, lưu lại bao tàn tích của tật nguyền, đói khát, bệnh hoạn v.v… nói không thể hết ! Chính vì vậy, các chính sách hoà giải, hiệp ước là chính sách tốt nhất mà đạo Phật hằng kêu gọi.
3. Vài trường hợp sát sanh khi đức Phật còn đang tu hạnh Bồ-tát
Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh (số 156) trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh có trình bày câu chuyện tiền thân của đức Phật. Câu chuyện này có thể là một trong những dẫn chứng phù hợp cho trường hợp này. Thuở xưa lúc đức Phật Thích-ca còn đang trong quá trình tu tập, lúc bấy giờ Ngài buộc phải giết một kẻ làm trinh thám cho 500 tên cướp để ngăn chặn cuộc tấn công của 500 tên cướp này, mặc dầu người do thám đó đã từng là bạn của Ngài.
Một câu chuyện khác được đề cập trong Huệ Thượng Bồ-Tát Vấn Đại Thiện Quyền Kinh (số 345), lúc bấy giờ đức Phật còn đang tu hạnh Bồ-tát, Ngài là thuyền trưởng của đoàn thương buôn 500 người đã giết một tên tướng cướp để cứu lấy 500 thương nhân đó. Ngài nghĩ rằng nếu vì giết một tên cướp này mà Ngài phải vào địa ngục, Ngài cũng sẵn lòng, vì điều đó còn tốt hơn để chúng giết hại biết bao nhiêu người! Trên thực tế, sau khi thân hoại mạng chung, Ngài được tái sanh lên cảnh giới chư thiên. Sau này Ngài thành Phật cũng chịu quả báo, nhưng không phải quả báo mất mạng mà chỉ giẫm gai trên đường !
4. Lịch sử một vài nước Phật giáo với chiến tranh
Trường hợp vì sự tồn vong của quốc gia mà giới sát có thể được xem là nhẹ. Trường hợp này có thể lấy điển hình ở Việt Nam vào thế kỷ XII, nhà Trần ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông lừng lẫy, oai hùng dưới sự lãnh đạo tài tình của những người vừa là Phật tử vừa là những người cầm vận mệnhquốc gia. Nếu chúng ta cứ khư khư chấp chặt thì nhân dân Việt Nam có lẽ đã bị vó ngựa Mông Cổ giẫm nát rồi, chưa hẳn có một đất nước độc lập như ngày nay. Trường hợp như vậy, người cầm vận mệnhquốc gia phải đặt đại thể dân tộc lên hàng đầu, lấy nhiệm vụ lãnh đạo quốc gian đặt lên trên đạo đứcbản thân. Do đó, cứu lấy nhân dân thoát khỏi ách xâm lược, đô hộ là phước đức, chứ không phải tội lỗi. Nếu chúng ta so sánh trận đánh của người Việt Nam xưa kia với trận đánh của Mỹ với Afghanistan vừa rồi, chắc chắn số người thiệt mạng cả Trung Hoa và Việt Nam hồi đó hơn không biết bao nhiêu lần số người thiệt mạng vừa rồi. Phật giáo không kết án những trận đánh như vậy, cũng không tán thán, mà tin tưởng có nghiệp báo vay trả nhiều đời nhiều kiếp.
Thế kỷ thứ XI dưới triều vua Langdarma, Phật giáo Tây Tạng bị pháp nạn. Nhà vua này vì nghe lời dèm pha của đạo Bon, ra lệnh tiêu diệt Phật giáo, phá chùa, giết Tăng. Hơn hai năm sau, có một vị Lạt-ma tên là Palgyi Dorjé lẻn vào cung ám sát vua rồi trốn đi. Nhờ đó Phật giáo không bị tiêu diệt hoàn toàn. Như vậy, người giết nhà vua đã hủy Phật, phá Tăng đó có phạm tội sát hay không? Theo nhân quảthông thường thì dễ đi đến kết luận là có, nhưng chưa hẳn, vì động cơ của người vị Tăng kia đâu phải giết người vì các tâm sở bất thiện như tham lam mà giết, sân hận mà giết, không thỏa mãn mà giết, mà giết chỉ vì động cơ bảo vệ chân lý, bảo vệ đời sống tâm linh cho mọi người. Nhân quả phức tạp trùng trùng, chứ không đơn giản là “gieo nhân nào gặt quả nấy”, do đó chưa hẳn vị Tăng ấy bị đọa vào các cảnh giới khổ đau như thông thường chúng ta nói. Chúng ta có thể tin được câu chuyện đức Phật trong thời quá khứ đã từng giết một tên cướp để cứu lấy 500 thương nhân, không phải vì thế mà đọa vào cõi xấu, ngược lại được sanh lên chư thiên, nhưng dư nghiệp cũng không tránh khỏi, đến khi thành bậc Chánh Đẳng Giác rồi mà còn giậm phải gai nhọn. Trường hợp vị Tăng kia cũng vậy, nếu vì Chánh pháptrường tồn ở nhân gian hoặc vì an ninh của quốc gia mà buộc phải hạ sát một số người nào quá ác độc, theo thiển ý của người viết thì phước đức nhiều hơn tội.
Lại nữa, câu chuyện của Ngài Cầu-na-bạt-ma, khoảng thế kỷ thứ V khi đến truyền giáo ở vùng Java, nay là Indonesia cũng là một dẫn chứng tốt để chúng ta học hỏi. Lúc bấy giờ Java bị vua lân bang đánh phá, nhà vua hỏi tôn giả Cầu-na-bạt-ma có nên đánh trả không, vì sợ rằng điều đó trái với giới luật nhà Phật ? Tôn giả Cầu-na-bạt-ma đã trả lời là nhà vua nên thực hiện nhiệm vụ của mình, nhưng khởi tâmđại bi thương xót mọi loài, bất đắc dĩ mới dùng hạ sách này.
***
Tóm lại, Phật giáo không chủ trương sát sanh để mưu cầu hạnh phúc cho bản thân cũng như quyền lợicho một nhóm hoặc cho dân tộc mình. Tuy nhiên, trong trường hợp cần phải bảo vệ dân tộc, bảo vệchân lý thì các hình thức bạo động với thiện ý được cho phép, nhưng chỉ là giải pháp nhất thời, chứ không phải là giải pháp tối ưu. Đạo Phật là một đạo tôn trọng sự sống của mọi chúng sanh, không riêng gì con người. Do đó, bất cứ hình thức nào như tự mình giết, hoặc bảo người khác giết, hoặc thấy giết mà đem lòng vui đều không được chấp nhận đối với một Phật tử.
Trái đất này được xanh tươi hay không, nhân loại được hạnh phúc không, tuỳ thuộc rất lớn vào mỗi người. Trong vòng sinh tử vô tận, vô số những người thân của ta, nay trở thành thân hoặc sơ, thậm chí đứng ở thế hai chiến tuyến đối lập. Chiến tranh là đỉnh cao của thù hận, mâu thuẫn, sát sanh, tranh giành tài sản, v.v…. Đây là một nghiệp tích luỹ của tội ác và bạo tàn. Do đó, mỗi Phật tử chúng ta nên ăn chay, hoà thuận, biết sống san sẻ, thương yêu kẻ khác là gieo nhân hoà bình, đem lại nguồn an vui và thịnh lạc cho mỗi người và cho toàn thể xã hội. Được như vậy thì quý biết bao!
(Thích Giác Hoàng)
CHIẾN TRANH VÀ CHỦ NGHĨA HÒA BÌNH
BERTRAND RUSSELL (1872-1970)
Bertrand Russell. “Chiến tranh và chủ nghĩa hòa bình”. Thế giới ngày nay và tương lai nhân loại. Nguyễn Hiến Lê dịch. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1996.
Thưa Huân tước Russell, cụ có nghĩ rằng có những chiến tranh chính đáng không? Có nên dùng tiếng “chính đáng” đó không?
BERTRAND RUSSELL: Nên dùng lắm chứ, dĩ nhiên với điều kiện là phải định
nghĩa thế nào là “chính đáng”. Người ta có thể nghĩ tới những chiến
tranh được coi là hợp pháp. Đã có những chiến tranh mà một bên có thể tự
hào rằng mình chiến đấu hợp pháp. Nhưng cũng có thể nói tới những chiến
tranh có lợi hơn là có hại, và trong trường hợp này, sự phân loại khác
hẳn đi.
Xin cụ cho chúng tôi vài thí dụ.
B.R: Việc đó không khó. Tôi cho rằng ra trận để chống kể xâm lăng thì
là chính đáng. Chẳng hạn người Anh khi chống với hạm đội Y Pha Nho
Armada (năm 1588) là chính đáng. Và người Hung Gia lợi cũng vậy khi họ
chiến đấu cho tự do của họ. Người Anh đã thua (Y Pha Nho), người Hung đã
thua (Nga Sô). Nhưng nếu xét đoán theo kết quả thì sự phân loại sẽ hoàn
toàn khác hẳn. Ông tự hỏi chiến tranh có thể nào có lợi được không. Ông
thí dụ một chiến tranh không hợp pháp chút nào cả, chẳng hạn trường hợp
Da trắng xâm chiếm Bắc Mĩ. Tôi có thể nói rằng xét chung thì mặc dầu
không hợp pháp, cuộc xâm lăng đó có ích lợi đấy.
Thế còn chiến tranh giành lại Độc lập của Hoa Kì?
B.R: Theo tôi, có hoàn toàn chính đáng. Nhưng tôi cho rằng nó không
được hợp pháp. Có sự thực này là nếu ông qua Hoa Kì thì thế nào ông cũng
ngầm chê George Washington; ông phải xác nhận rằng không ai được dùng
sức mạnh hay bạo động để lật đổ một chính quyền đã được thành lập một
cách hợp pháp. Dĩ nhiên, điều tôi nói đó là hoàn toàn có tính cách hồi
cố.
Cụ có nghĩ rằng có những chiến tranh thành công, nếu xét theo dài hạn?
B.R: Có chứ. Chúng ta ngược dòng lịch sử, tới thời thượng cổ. Alexandre
và Cesar là những nhà đại chinh phục. Những chiến tranh xâm lăng của họ
không hợp pháp nhưng có hậu quả tốt. Alexandre truyền bá văn minh Hi
Lạp khắp miền Cận Đông, truyền bá ngôn ngữ Hi Lạp và duy trì cho chúng
ta di sản văn hóa của Hi Lạp. Nếu không có ông ta thì rất có thể rằng
ngày nay không một người nào trong chúng ta được biết người Hi Lạp đã
cống hiến những gì cho văn minh.
Còn Cesar?
B.R: Cesar đã xâm chiếm xứ Gaule, kết hợp xứ đó với thế giới văn minh;
sau đó, Pháp ngữ - mà ngày nay chúng ta rất tán thưởng mới phát sinh
được, đó là công của Cesar.
Chiến tranh do đâu mà sinh ra? Do những nguyên nhân kinh tế? Do sự
điên khùng của các nhà cầm quyền? Do lòng nhiệt tình hăng hái của các
dân tộc?
B.R: Có thể kiếm được thí dụ cho mỗi nguyên nhân đó. Có khi do nguyên
nhân này, có khi do nguyên nhân khác. Khi Đại Vương Frederic (Phổ) tấn
công Nữ hoàng Marie Therese (Áo) ở thế kỉ XVIII thì ông ta chỉ là dùng
cái quyền quốc vương của ông thôi. Theo tôi chiến tranh đó không có
nguyên nhân nào khác. Thế kỉ XVIII, chúng ta thấy nhiều ông vua xua quân
ra chiến trường mà chẳng có lí do gì chính đáng cả, chỉ để tìm danh dự
và quang vinh. Nhưng từ đó tới nay cái đó bớt nhiều rồi.
Ngày nay chúng ta đương chịu cái họa điên khùng của các nhà cầm quyền?
B.R: Phải. Nào bây giờ chúng ta xét tới những nguyên nhân kinh tế. Chắc
chắn là những nguyên nhân đó đã đóng một vai trò lớn trong chiến tranh
dai dẳng, bất tuyệt giữa Anh và Y Pha Nho. Về phía chúng ta (tức phía
Anh), các yếu tố có tính cách tôn giáo hơn; Người Anh chiến đấu để cự
tuyệt cái họ không muốn, người Y Pha Nho chiến đấu để cự tuyệt cái họ
không muốn; thực là một vụ dằng dai mà nguyên nhân, về phía chúng ta,
hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn thuộc về kinh tế. Vậy những nguyên nhân
kinh tế quả có đóng một vai trò. Mà sự cuồng loạn của đám đông thì cũng
vậy. Walpole làm thủ tướng rất lâu, sau bị lật đổ vì sự thác loạn của
đám đông, vì có những kẻ cương quyết đòi đem quân đánh Y Pha Nho. Đánh Y
Pha Nho là cái thói quen của người Anh chúng ta rồi; chúng ta hồi xưa
thích thế. Mà Walpole thì không thích.
Trong thế chiến thứ nhất, cụ theo chủ nghĩa hòa bình. Rồi qua thế
chiến thứ nhì, cụ không theo chủ nghĩa đó nữa, như vậy cụ có cho rằng cụ
tự mâu thuẫn với cụ không?
B.R: Không một phút nào tôi có thể cho tôi là tự mâu thuẫn với tôi cả.
Không khi nào tôi có thể nói rằng chiến tranh nào cũng chính đáng hết,
hoặc chiến tranh cũng bất chính đáng hết. Tuyệt nhiên không. Tôi đã có
cảm tưởng rằng một số chiến tranh nào đó chính đáng, một số khác không.
Thế chiến thứ nhì chính đáng, thế chiến thứ nhất không.
Tại sao thế chiến thứ nhì lại chính đáng?
B.R: Vì tôi cho Hitler là một con người không sao chịu nổi. Trong các
mục tiêu của chế độ Đức Quốc Xã, cái gì cũng ghê tởm, tôi cho rằng nếu
bọn Đức Quốc Xã chiếm được thế giới-mà hiển nhiên là họ có ý đó- thì
khắp thế giơi sẽ thành địa ngục. Chúng ta phải ngăn cản cái đó. Nhất
định phải ngăn cản.
Và bây giờ cụ vẫn nghĩ rằng thế chiến thứ nhất là một lầm lỗi?
B.R: Phải. Theo tôi thì lúc đó Anh nên trung lập. Hồi đó tôi đã nói vậy
và bây giờ tôi vẫn không thay đổi ý kiến. Nếu lúc đó chúng ta trung lập
thì Thế chiến thứ nhất đã không kéo dài. Nước Đức sẽ thắng, mạnh hơn
lên, phải, nhưng đâu phải là tuyệt mạnh. Mà nước Đức dưới triều vua thời
đó, đâu tới nỗi xấu xa, tàn ác lắm, người ta cứ tuyên truyền cho dân
chúng Anh tưởng lầm vậy đấy thôi. Hiện nay tôi thấy rất ít chính quyền
bằng được triều đình Đức thời đó. Như vậy đấy: chúng ta tấn công một
chính quyền xấu xa chỉ làm cho nó hóa ra tệ hại hơn. Chân lí đó không
thể đem áp dụng vào chiến tranh chống bọn Đức Quốc Xã được vì không có
gì mà lại tệ hại hơn họ được. Nhưng, đó là một chân lí. Và nếu năm 1914
chúng ta trung lập thì đã không có cái nạn Đức Quốc Xã và nạn phát xít.
Phát xít là sản phẩm của một tình thế: sự tan rã của đạo quân Nga và sự
hỗn loạn ở kháp Nga. Mà nếu Thế chiến thứu nhất không kéo dài như vậy
thì những cái đó có thể tránh được.
Mà ở Nga sẽ ra sao?
B.R: Sẽ có một cuộc cách mạng tựa như cuộc cách mạng mà người Nga muốn
làm 1905. Có thể gần chắc chắn rằng những người cách mạng xã hội sẽ nắm
được chính quyền mà họ không phải cùng một giuộc với bọn phát xít. Có
thể rằng họ sẽ cải thiện theo một cách dễ chịu.
Và cụ nghĩ rằng nước Đức sẽ không có chế độ Quốc Xã mà sẽ tiến lần lần tới một chế độ dân chủ phải chăng?
B.R: Đúng vậy. Đã xảy ra như vậy rồi đấy. Họ đã tiến bộ theo một nhịp
kha khá nhanh không kém Anh thời xưa. Đức sẽ thành một mước dân chủ đại
nghị dễ chịu. Đó là vấn đề thời gian. Mà cnhư vậy, chắc chắn là triết lí
quốc xã sẽ không phát triển, vì triết lí này là một phản ứng lại tình
trạng sụp đổ của Đức.
Nhưng thí dụ rằng hồi Thế chiến thứ nhất, chúng ta đứng ngoài, thì
Đức sẽ thắng Pháp rồi quay về phía Anh mà bảo: “Này, còn nước Anh này
nữa, phải quét sạch mới được”
B.R: Không có lí do gì để nhận định như vậy. Lúc đó người Đức có một số
mục tiêu hạn chế, họ đòi cái quyền có một hải quân khá mạnh, họ muốn
chiếm thêm thuộc địa, nhưng chúng ta không chấp nhận điều đó, họ muốn
làm chủ miền Balkan hơn- sự thực họ muốn rằng Ao chỉ huy miền Balkan.
Theo tôi nhận xét thì những mục tiêu đó của Hoàng đế Đức đã được định
rõ, hạn chế. Tôi không nghĩ rằng ông ta muốn chinh phục thế giới.
Nhưng, đứng về quan điểm của Anh, thì thế chiến thứ nhất là một chiến tranh chính đáng, phải vậy không?
B.R: Về phương diện pháp luật, phải, nếu ông cho rằng chiến đấu để bênh
vực nước Bỉ là điều hợp pháp; điểm đó dĩ nhiên có người chấp nhận, có
người không; nhưng nếu ông chấp nhận lí do đó thì thế chiến thứ nhất quá
là hợp pháp. Nhưng tôi không nghĩ rằng chiến tranh nào mà hợp pháp thì
cũng bắt buộc mình phải lâm chiến.
Cụ có nghĩ rằng thiên hạ thích chiến tranh không?
B.R: Nói thực ra thì rất nhiều kẻ thích cái đó. Năm 1914 điều đó là
một trong những điều làm cho tôi ngạc nhiên. Y kiến của tất cả các bạn
theo chủ nghĩa hòa bình và làm việc chung với tôi, là dân chúng không
muốn chiến tranh, các chính quyền đã bắt họ ra trận. Nhưng trên các
đường phố London, tôi đã nhìn vẻ mặt mọi người: không còn ngờ gì nữa, vẻ
mặt nào cũng hớn hở hơn lúc chưa tuyên chiến. Tôi đã viết bài bày tỏ ý
kiến đó và các bạn chủ bài báo của tôi mà người ta đã dò xét lòng nhiều
người! Hiện nay tôi còn nghĩ rằng nhiều người thích chiến tranh lắm,
miễn là bom đạn đừng nổ ngay trước cửa họ và họ đừng phải chịu thiệt
hại, đau khổ nhiều quá. Dĩ nhiên, chiến tranh xảy ngay trên đất đai của
ông thì bớt thú vị đi nhiều.
Đã có nhiều kẻ thích chiến tranh như vậy, thì thời bình họ biết dùng cái tinh thần hiếu chiến, hung hãn của họ vào cái gì được?
B.R: Không hẳn là tinh thần hiếu chiến, hung hãn mà lòng thích mạo
hiểm. Theo tôi, cái phần dân chúng thích mạo hiểm, phải cho họ mọi cơ
hội mạo hiểm, mọi cách mạo hiểm, mà cho thật nhiều vào. Miễn là đừng kém
quá mức, phải cho họ leo các ngọn núi, lên Bắc cực, xuống Nam cực.
Cụ có nghĩ rằng người Scandinavie nói rõ ra: người Thụy Điển- vì đã lâu lắm không biết chiến tranh mà sung sướng hơn không?
B.R: Có chứ. Từ 1914 đến nay họ không biết chiến tranh, và theo tôi
nhận xét thì xứ đó là một trong những xứ sung sướng nhất đấy. Dân chúng
xứ đó tha hồ hưởng đời và tôi chưa thấy người Thụy Điển nào bất mãn vì
không có chiến tranh.
Ở xứ đó có nhiều người tự tử quá?
B.R: Cái đó đúng. Sở dĩ vậy là vì người Thụy Điển không bị tôn giáo cấm
tự tử. Dân tộc đó ít tín ngưỡng. Những người Thụy Điển nào mộ đạo đã di
cư qua miền Trung Tây của Hoa Kì; những người ở lại trong nước thì vô
tín ngưỡng.
Nhưng chẳng phải là bản tính loài người thích chiến tranh sao?
B.R: Bản tính loài người là cái gì, tôi không biết nữa. Một bản tính
thì có thể nhồi nặn thế nào cũng được, người ta không nhận thấy điều đó.
Nhưng ông có thể so sánh một con chó nhà với một con chó sói trong
rừng: ông sẽ thấy sự luyện tập có sức mạnh ra sao. Con chó nhà không
hung dữ mà dễ chịu, thỉnh thoảng nó sủa đấy, có lẽ nó cắn người đưa thư
nữa đấy, nhưng xét chung thì đâu có vậy. Luyện tập cho loài người thì
kết quả có thể y hệt vậy, có thể thay đổi hoàn toàn con người. Bảo không
thể thay đổi được bản tính con người, là nói bậy với bạ!
B.R: Chúng ta đâu có rán thuyết phục họ. Có vài người rất hiếm, rất làm công việc đó, chứ đâu phải là đại đa số.
Cụ không nghĩ rằng giá có một chiến tranh làm cho Thụy Điển phấn khởi lên một chút, thì họ sẽ sung sướng hơn một chút ư?
B.R: Tôi không thấy có lí do gì để tin điều đó hiện nay, hầu hết các
dân tộc đều đã nếm mùi chiến tranh, và tôi thấy các dân tộc đó đâu được
sung sướng như dân tộc Thụy Điển, kém xa. Đó là cảm tưởng của tôi trong
các cuộc du lịch đấy.
Theo cụ thì người ta không ưa thế chiến thứ nhì bằng thế chiến thứ nhất phải không?
B.R: Là vì thế chiến thứ nhì không có cái điều, cái tình trạng của Thế
chiến thứ nhất. Dĩ nhiên, những người ra mặt trận năm 1914 không hân
hoan gì đâu vì họ biết rằng phen này đi thì rất có thể là không trở về.
Nhưng ở hậu phương người ta cho chiến tranh là hứng thú lắm. Qua thế
chiến thứ nhì thì khác hẳn. Người ta chán ngấy tồi- hai mươi lăm năm
trước người ta đã run lên vì chiến tranh rồi.
Lúc nãy cụ nói tới một chiến tranh Anh. Y Pha Nho xảy ra vì dân
chúng Anh cuồng loạn đòi tuyên truyền, chứ thủ tướng Walpole không muốn.
Cụ có tin rằng thời buổi này chúng ta có thể chống được sự cuồng loạn
đó hơn thời trước không?
B.R: Không hơn được đâu. Dân chúng đã biết đọc và báo chí đã làm cho sự
cuồng loạn của dân chúng đó tăng lên dữ dội. Nhưng đã bắt đầu thấy một
xu hướng ngược lại, phần lớn là nhờ vô tuyến truyền hình; thiên hạ ngồi
trong ghế bành tại nhà mình mà cũng được biết những tin tức thế giới.
Không cần những phòng mênh mông nơi đó quần chúng tới la ó om sòm nữa.
Những cuộc hội họp vĩ đại đó là nguyên nhân chính gây sự cuồng loạn.
Những cuộc “mít tinh” mà bớt quan trọng đi sự cuồng loạn của dân chúng,
theo tôi cũng giảm đi.
Cụ có cho rằng người ta sẽ ít thấy những cuộc hội họp ở công viên Trafalgar trong khi dân chúng chờ đợi tuyên chiến không?
B.R: Tôi nghĩ rằng người ta vẫn còn có thể thấy lại những cuộc hội họp
đó. Trafalgar Square là một chỗ rất tiện lợi, người ta tới đó dễ dàng
quá. Tôi cho rằng sẽ vẫn còn những cuộc họp ở đó- nhưng tôi có cảm tưởng
rằng sẽ không còn quan trọng như trước nữa. Những đám đông vĩ đại tụ
họp nhau ở công viện Trafalgar để hoan hô, tán thành một quyết định của
chính phủ đưa họ ra đỡ đạn, thì quả thực là lạ đời. Có thể mong rằng bản
tính con người khác vậy chứ. Thế là bản tính đó được đem ra dùng rồi
đấy. Nhưng tôi nghĩ rằng cái đó sẽ giảm bớt đi.
Nguồn: Phiên bản điện tử do triethoc.edu.vn thực hiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét