ĐẠI GIA, NGÀI LÀ AI? 15/c(Chú Hỏa)
-Tỷ phú là những người thiên bẩm kiếm tiền. Họ là những con người tưởng tài giỏi nhưng thật ra là quá ngu ngốc!
-Biết vậy nhưng ai cũng thích mình ngu ngốc!!!
--------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hơn trăm năm trôi qua, biết mấy vật đổi sao dời. Những giai thoại quanh cái tên Chú Hỏa ngày càng huyền hoặc sai lạc; chẳng những thế, những vết tích công trình của gia tộc này để lại tuy vẫn tồn tại sừng sững đó nhưng chẳng mấy người biết rõ ngọn ngành.
Sau cơn quốc biến 1975, con cháu dòng họ Chú Hỏa lần lượt ra đi, chia nhau lập nghiệp khắp nơi trên thế giới, chẳng còn ai ở lại Việt Nam. Lớp người đầu tiên chỉ biết chí thú làm ăn, chẳng ai nghĩ đến việc ghi chép sự tích công trạng của mình, khiến vết tích cũng như những giai thoại tuy nhiều nhưng phần lớn đều khác xa sự thực. Có rất nhiều thông tin liên quan đến gia đình họ, nhưng các dữ liệu lịch sử lại hết sức ít ỏi, nên những đồn đãi sai lạc đủ kiểu cứ lan truyền, khiến người nghe chẳng biết đâu mà lần.
“Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa” là câu ngạn ngữ nêu danh tứ
đại hào phú Sài thành hồi cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Ba người được
xếp trên trước đều là bậc quyền thế[1], còn Chú Hỏa tuy đứng hàng thứ tư nhưng lại là nhân vật để lại nhiều giai thoại cũng như công nghiệp nhất.
Khu vực Cầu Ông Lãnh nằm giữa khuôn viên các đường Galliéni (tức
đường Trần Hưng Đạo), Marchaise (đường Bác sĩ Yersin), Dixmude (đường Đề
Thám) và đường Belgique (thời Việt Nam Cộng Hòa là đường Bến Chương
Dương, nay nó đã được sang tên cho một cố thủ tướng Việt cộng). Thời
Pháp, dân Tàu kêu Cầu Ông Lãnh bằng Hậu Phương Lan, đến thời Đệ Nhất
Cộng Hòa mới phiên âm trực tiếp là Cựu Ông Lãnh 舊翁領 hoặc Cựu Ngũ Luân 舊五倫. Khu dinh thự Huỳnh Vinh Viễn đường
liền kề đại lộ de la Somme (nay là Hàm Nghi), nhà ga xe lửa đầu tiên
của Saigon được xây dựng ở đại lộ này. Cạnh đó là chợ Bến Thành, nơi đến
nay vẫn còn lưu lại những biệt thự kiểu Pháp do gia tộc HuiBonHoa xây
dựng.
-Biết vậy nhưng ai cũng thích mình ngu ngốc!!!
--------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Chú Hỏa và công nghiệp gia tộc Hui-Bon-Hoa
2017/11/09 bởi levinhhuy
Hơn trăm năm trôi qua, biết mấy vật đổi sao dời. Những giai thoại quanh cái tên Chú Hỏa ngày càng huyền hoặc sai lạc; chẳng những thế, những vết tích công trình của gia tộc này để lại tuy vẫn tồn tại sừng sững đó nhưng chẳng mấy người biết rõ ngọn ngành.
Sau cơn quốc biến 1975, con cháu dòng họ Chú Hỏa lần lượt ra đi, chia nhau lập nghiệp khắp nơi trên thế giới, chẳng còn ai ở lại Việt Nam. Lớp người đầu tiên chỉ biết chí thú làm ăn, chẳng ai nghĩ đến việc ghi chép sự tích công trạng của mình, khiến vết tích cũng như những giai thoại tuy nhiều nhưng phần lớn đều khác xa sự thực. Có rất nhiều thông tin liên quan đến gia đình họ, nhưng các dữ liệu lịch sử lại hết sức ít ỏi, nên những đồn đãi sai lạc đủ kiểu cứ lan truyền, khiến người nghe chẳng biết đâu mà lần.
Trọng tâm bài viết này nhằm làm rõ quá trình lập
nghiệp của gia tộc Hui-Bon-Hoa. Hy vọng qua câu chuyện về một dòng họ Ba
Tàu, có thể giúp người đọc hiểu thêm phần nào những đóng góp của người
Tàu ở miền Nam[2].
1- “Chú Hỏa” là ai?
Căn cứ vào tên Hui Bon Hoa được khai khi nhập Pháp tịch của Chú Hỏa, nhiều tài liệu Việt ngữ cho rằng tên thật của ông là Hứa Bổn Hòa 許本華[3].
Nhưng tra khắp thư tịch của người Tàu ở miền Nam thời đó sẽ chẳng tài
nào tìm được cái tên Hứa Bổn Hòa 許本華. Theo đa số người Tàu sống lâu năm ở
Sài Gòn-Chợ Lớn thì Chú Hỏa là đại từ dùng để gọi ông Huỳnh
Trọng Huấn, người được xem là đại diện của gia tộc Hui-Bon-Hoa vào đầu
thế kỷ XX. Nhưng xét ra, danh xưng Chú Hỏa vốn cũng đồng thời gắn liền
với Hui Bon Hua, tên do ông Huỳnh Văn Hoa 黃文華, thân phụ của Huỳnh Trọng
Huấn khai khi nhập tịch Pháp. Hui Bon Hoa chính là ký âm của Huỳnh Văn
Hoa – theo phương ngữ Phúc Kiến. Còn cái tên Hứa Bổn Hòa chỉ là suy
diễn, do ai đó dựa theo ba chữ Hui Bon Hoa đặt ra mà thôi.
Huỳnh Văn Hoa (1845-1901) còn có tên Huỳnh Tú
Vinh, hiệu Tình Nham. Gốc tổ ở huyện Nam An tỉnh Phúc Kiến, đến đời ông
cụ thân sinh thì dời đến thôn Văn Táo, trấn Hòa Sơn, huyện Hạ Môn (Phúc
Kiến). Năm 20 tuổi (1865), ông qua Việt Nam, đến Sài Gòn tay trắng lập
nghiệp.
2- Chuyện làm giàu của Chú Hỏa
Về chuyện làm giàu của Chú Hỏa, trong dân gian lưu truyền nhiều giai thoại[4].
Thực ra Huỳnh Văn Hoa có được số vốn ban đầu là nhờ ở lòng tốt của ông.
Số là ở Sài Gòn, ông có qua lại làm ăn với một người Pháp, anh bạn này
xui rủi bị sạt nghiệp, Huỳnh Văn Hoa đã tận tình giúp đỡ lộ phí cho bạn
về nước. Cảm cái ơn đó, anh chàng người Pháp tiết lộ cho Hoa thông tin
về khu vực nhà cầm quyền Pháp sắp quy hoạch để xây dựng thiết lộ. Huỳnh
Văn Hoa bèn mua lại bãi đất sình lầy rộng lớn ở khu đó với giá rẻ, nhờ
vậy ông được nhà nước thực dân đền bù số tiền lớn, Hoa có vốn mở tiệm
cầm đồ đầu tiên của mình[5].
Ra tiệm chỉ là thoát kiếp làm công, còn để tạo
dựng thịnh vượng cho cả một gia tộc lại phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như trí phán đoán nhanh nhạy, lòng quả cảm dám quyết đoán nắm bắt thời
cơ, và còn phải có ít nhiều may mắn. Trong quá trình kinh doanh của
Huỳnh Văn Hoa, sự phối hợp gắn bó của ông với một người Pháp mới là quan
trọng bậc nhứt.
Người đó là Antoine Ogliastro (1844-1908).
Antoine xuất thân từ một đại gia tộc ở đảo Corse, lúc bấy giờ đã là một
thương gia nổi tiếng, đầu tư trong nhiều lãnh vực. Năm 1875, ông thành
lập công ty Anton – Aogeliya Manchester ở thủ đô Paris; 1876 là hội viên
Hiệp hội Chambre de Commerce de Saigon và xây dựng một đồn điền hồ tiêu
ở Hà Tiên; 1881 trở thành ứng cử viên đầu tiên trong cuộc bầu cử quốc
hội Cochinchine (tức lãnh thổ Cộng hòa Tự trị Nam kỳ thời Pháp); 1885
đảm nhiệm Phó Lãnh sự Tây Ban Nha; 1886 là Lãnh sự Ý; 1887 là đại diện
Lãnh sự quán Ý tại Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn là Chủ tịch Hội đồng quản
trị Công ty tàu hỏa La Société générale des tramways à vapeur (SGTV),
chủ Công ty xuất nhập khẩu Anton Aogeliya (Société commerciale
d’import-export A. OGLIASTRO).
Huỳnh Văn Hoa luôn ghi nhớ công ơn Antoine đã dìu
dắt cũng như tận lực sát cánh cùng mình trên bước đường chinh phục sự
nghiệp lớn. Sau này, khi cả hai đã mất, vào thời kỳ kinh tế thế giới
khủng hoảng 1929-1931, những người thừa kế gia tộc Hui-Bon-Hoa đã hết
lòng ủng hộ Công ty la Société Louis Ogliastro & Cie. của Louis
Ogliastro – con trai Antoine Ogliastro – vượt qua giai đoạn khủng hoảng.
Mối thâm giao giữa hai gia tộc Tây-Tàu này đến nay đã hơn trăm năm vẫn
bền chặt như thuở ban đầu.
Trở lại với Huỳnh Văn Hoa. Năm 1887, để thuận
tiện và được ưu đãi trong kinh doanh, theo gợi ý của bạn già Antoine,
Huỳnh Văn Hoa nhập Pháp tịch, lấy theo tên thánh là Jean Baptiste Hui
Bon Hoa. Cụm từ Hui-Bon-Hoa được con cháu sau này dùng làm họ, và “Chú Hỏa” cũng thành tên chung được truyền thừa, dùng để gọi người đứng đầu của gia tộc này ở Việt Nam qua các thời kỳ.
Danh tiếng Chú Hỏa từ đó không chỉ lừng lẫy Sài
Gòn mà còn vang dội khắp Nam kỳ và lan rộng toàn cõi Đông Dương. Năm
1901, ông giao sự nghiệp ở Nam Việt lại cho các con, về Tàu thăm quê và
bệnh mất ở đó, được an táng ở Tuyền Châu (Phúc Kiến), hưởng dương 56
tuổi.
Huỳnh Văn Hoa tuy mất, nhưng sự nghiệp cũng như phương danh Chú Hỏa đã có được những mảnh hổ xứng đáng kế thừa phát huy.
3- Hậu duệ của Chú Hỏa
Ông bà Huỳnh Văn Hoa có cả thảy 15 người con,
trong đó có 4 trai. Người con trưởng tên Huỳnh Trọng Mô 黃仲謨, lúc nhỏ
được bác ruột là ông Huỳnh Văn Bỉnh nhận làm con. Người này lúc trẻ từng
sang Việt Nam giúp Chú Hỏa trong việc kinh doanh nhưng đã sớm mệnh một
khi đang độ trung niên, con cháu của ông vì không nhập Pháp tịch nên
ngày càng xa dần nguồn cội.
Người con thứ hai là Huỳnh Trọng Huấn 黃仲訓, tên
Tây là Tang-Hung HuiBonHoa, sinh năm 1876 ở Hạ Môn (Phúc Kiến). Ông là
cao đồ của danh nho đất Tuyền Châu Lý Thanh Cơ[6]. Sau
khi ứng thí đỗ tú tài, ông cưới vợ rồi qua Sài Gòn trợ giúp kinh doanh
với cha. Năm 1910, ông tiến hành đầu tư ở cố hương, lập Công ty địa ốc Huỳnh Vinh Viễn đường 黃榮遠堂, xây biệt thự ở Cổ Lãng tự (nay thuộc quận Tư Minh thành phố Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến) cho người nước ngoài thuê[7].
Thế chiến II bùng nổ, Nhật chiếm An Nam (cuối 1940), người Nhật nhiều
lần mời Huấn tham gia chính trường nhưng ông đều từ chối. Tháng 3-1942,
nhà cầm quyền Nhật nghi ngờ Huấn qua lại với chính phủ Tưởng Giới Thạch
nên bắt giam ông. Hơn ba năm sau, Nhật Bản đầu hàng Đồng minh (8-1945),
ông mới được trả tự do. Huỳnh Trọng Huấn qua đời tại Sài Gòn năm 1951,
hưởng thọ 76 tuổi. Ông có vai vế cao nhất gia tộc Hui-Bon-Hoa, và cũng
là người thừa kế danh hiệu “Chú Hỏa”.
Người thứ ba tên Huỳnh Trọng Tán 黃仲讚 – Tang-Chanh
HuiBonHoa. Sinh năm 1877 tại Tuyền Châu, Phúc Kiến. Sau khi cưới vợ,
ông qua Annam hiệp trợ kinh doanh với gia đình. Người này tính tình trầm
ổn, có công lớn khuếch trương chuỗi hiệu cầm đồ và kinh doanh bất động
sản của Hui-Bon-Hoa nên được mọi người trong gia tộc kính nể. Tán ít khi
ra mặt giao tiếp lại mất sớm (1934) nên ít được người ngoài biết đến.
Phải vài tháng sau khi Huỳnh Trọng Tán mất, Tạp chí Kinh tế-Tài chính
Nam kỳ phát hành số đặc biệt để tưởng niệm và tuyên dương những cống
hiến của ông trong nâng cao phúc lợi xã hội cho Nam kỳ, người ta mới
biết đến những đóng góp của ông[8]. Thập niên 60, con cháu của Tán dần dần thiên di ra nước ngoài.
Người con trai thứ tư là Huỳnh Trọng Bình 黃仲評 –
Thang-Phien Hui-Ban-Hoa, sinh năm 1892. Sinh sau đẻ muộn nên thời trẻ
Bình được cho du học, chỉ đến khi ông đã thuần thục (1922) mới tham gia
kinh doanh, hỗ trợ Huỳnh Trọng Huấn trong đối ngoại. Sau khi hai người
anh mất, Bình thành người quản lý tối cao và kế tục danh hiệu “Chú Hỏa”[9].
Anh em nhà họ phân công nhau, Huỳnh Trọng Huấn
tính tình hào sảng hiếu khách phụ trách đối ngoại giao tiếp với khách
hàng, Huỳnh Trọng Tán trầm lặng sâu xa lo việc đối nội quản lý tài vụ.
Khi phải về Tàu đầu tư, Huỳnh Trọng Huấn cho xây một cầu mát ở thắng
cảnh Nhật Quang nhai của Cổ Lãng tự để tỏ lòng nhớ người em Huỳnh Trọng
Tán. Tình cảm anh em của họ sâu sắc trên thuận dưới hòa, nên trong công
việc kinh doanh phối hợp cực kỳ ăn ý.
Năm 1931, khi gia tộc làm lễ “hợp bách tuế” (mừng
tuổi của hai trưởng bối Trọng Huấn, Trọng Tán cộng lại tròn trăm),
Huỳnh Trọng Huấn nhân dịp này đặt ra bài Huỳnh Vinh Viễn đường mục hành tự 黃氏榮遠堂穆行序:
慶元積善 Khánh nguyên tích thiện
和以致祥 Hòa dĩ trí tường
丕基南振 Phi cơ Nam chấn
修業東揚 Tu nghiệp Đông dương
子承孫繼 Tử thừa tôn kế
源遠流長 Nguyên viễn lưu trường
嘉禾文藻 Gia hòa văn tảo
翹首家鄉 Kiều thủ gia hương
(Mừng dòng họ càng thêm người càng chứa điều
thiện/ Lấy hòa thuận làm điều cực tốt lành/ Nền tảng lừng lẫy phương
Nam/ Công nghiệp rạng rỡ phương Đông/ Con truyền cháu nối/ Gốc vững dòng
bền/ Điềm lành đẹp đẽ/ Ngẩng đầu với quê xưa).
Đây là loại thơ mà các dòng họ lớn của người Tàu
áp dụng để đặt sẵn chữ lót cho con cháu, giúp họ hàng dễ nhận ra và biết
vai vế thứ bậc của nhau, còn gọi là “Phả tự thi” 譜字詩. Đời chữ Khánh, tức thế hệ thứ ba của dòng họ HuiBonHoa đã có hơn 50 người, đến thời điểm 1975 đã xuất hiện tên đệm bằng chữ Tích (thế hệ thứ năm). Dòng dõi Chú Hỏa từ đây đâm cành nảy nhánh sum suê thịnh vượng.
Bài thơ này của Huỳnh Trọng Huấn được khắc lại
theo thủ bút của ông, treo ở từ đường của Huỳnh Vinh Viễn đường. Sau
1975, giặc cộng tịch thu cướp mất nhiều đồ cổ ngoạn của gia tộc
Hui-Bon-Hoa, tấm bảng khắc Phả tự thi này cũng biến mất từ đó. Hơn 30 năm sau (2007), một người thuộc hàng chữ Nguyên
(thế hệ thứ tư) của gia tộc Hui-Bon-Hoa sang Việt Nam cúng phần mộ ông
bà, tình cờ gặp lại bảng khắc Phả tự của nhà mình được bày bán bên lề
đường đã lập tức mua lại. Tấm biển được mang về Pháp sum họp với con
cháu.
4- Khu dinh thự Nhà Chú Hỏa
Khu dinh thự của gia tộc Hui-Bon-Hoa tọa lạc ở
Quận Nhứt, Sài Gòn. Khu đất này ban đầu vốn là nơi ông Huỳnh Văn Hoa cất
nhà liền kề nhau cho các con trai, sau này được Huỳnh Trọng Huấn tậu
rộng thêm, với tổng diện tích 3.514m2. Mặt tiền là đường
d’Alsace Lorraine (nay là đường Phó Đức Chính); bên trái là đường
Hamelin (Đệ nhứt Cộng hòa đổi thành đường Hồ Văn Ngà, đời mạt cộng từ
đường đổi là Lê Thị Hồng Gấm); bên phải là đường d’Ayot (Việt Nam Cộng
Hòa là đường Nguyễn Văn Sâm, Việt cộng đổi thành đường Nguyễn Thái
Bình); và sau lưng là đường Bourdais (tức đường Calmette).
Sau khi từ Hạ Môn về, Huỳnh Trọng Huấn nhờ kiến
trúc sư người Pháp là Rivera thiết kế hòa hợp Á-Âu, xây bốn dinh thự ở
khu đất này (1925-1929), gồm: Trọng Huấn lâu, nay dùng làm Bảo tàng Mỹ thuật; Trọng Tán lâu, được Cộng quân dùng làm trụ sở ngân hàng một thời gian, sau đó đã dỡ bỏ; Trung lâu,
tòa nhà này tầng dưới là tổng hành dinh của Công ty bất động sản Huỳnh
Văn Hoa (tên Tây là Société Immobilière Hui-Bon-Hoa, SIHBH), tầng giữa
là từ đường của dòng họ, giờ là một phần của Bảo tàng Mỹ thuật[10]; Trọng Bình lâu, nay đã được chính quyền cách mạng cho tư nhân thuê.
Quần thể biệt thự này thời bấy giờ được gọi theo
tên công ty địa ốc của anh em nhà Hui-Bon-Hoa là khu dinh thự “Huỳnh
Vinh Viễn đường”, còn giới bình dânthì gọi là Nhà Chú Hỏa.
Đối diện Nhà Chú Hỏa là nhà 66 Phó Đức Chính, địa
chỉ này vốn là tiệm cầm đồ đầu tiên của Huỳnh Văn Hoa. Sau khi xây dựng
xong bốn dinh thự Huỳnh Vinh Viễn đường, Huỳnh Trọng Huấn cũng
cho xây mới tòa nhà này, dùng làm nơi trú ngụ cho người vợ kế và các
con của ông (Hình 4). Sau 1975, nhà này cũng được chính quyền mới tịch
biên. Sau nhiều lần sang tay nhau giữa các ông chủ đỏ, địa chỉ này hiện
nay là Cao ốc văn phòng Sacomreal – Generalimex.
5- Kinh doanh cầm đồ
Từ 1864, nhà cầm quyền Pháp đã cấp phép cho tư
nhân mở tiệm cầm đồ trên lãnh thổ Nam kỳ. Tiệm cầm đồ đầu tiên của
Saigon-Cholon là Công ty MM. Apan Suo-yoo, do Hoa kiều Apan thành lập.
Do lúc bấy giờ, giới kinh doanh ngành này thu lãi suất quá cao, nên vào
1871, chính quyền thực dân đã phải ban hành quy chế quản lý lãi suất,
đồng thời cũng chính thức cho phép mở tiệm cầm đồ ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ
Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long và Châu Đốc.
Năm 1875, Antoine Ogliastro – người sau này là
bạn tâm giao của Huỳnh Văn Hoa – thành lập công ty Antoine Ogliastro
& Cie. ở Paris, tham gia kinh doanh lãnh vực cầm đồ. Em vợ của
Antoine là Oscar du Crouzet làm giám đốc cho Apan, qua đó mà Antoine kết
giao với Hoa kiều Apan. 1878, hai người cùng với một Pháp kiều khác là
Théodore Blustein hợp tác thành lập công ty cầm đồ La Société Apan,
Ogliastro-Blutstein et Cie. ở Sài Gòn. Sau này, Blutstein qua đời, công
ty đổi tên thành La Société Ogliastro-Blutstein, Apan et Cie.. Công ty
của họ lần hồi mở thêm chi nhánh ở Đa Kao, Cầu Kho, Gia Định, và ở cả
miệt Lục tỉnh như Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên, Tân An… Huỳnh Văn Hoa
đã kết giao với Antoine trong quãng thời gian này.
Không ai biết đích xác họ quen nhau trong trường
hợp nào, chỉ biết từ 1887, Hoa đã là người quản lý toàn bộ ngành kinh
doanh cầm đồ của Antoine ở xứ Nam kỳ. Những năm tiếp theo đó, họ luôn
hùn hạp trong mọi cuộc làm ăn, cùng sánh vai nhau xây dựng sự nghiệp.
Năm 1900, các cửa tiệm cầm đồ của Antoine đều
được Huỳnh Văn Hoa hùn vốn, công ty của Antoine từ đó đổi tên thành Công
ty hợp doanh Ogliastro, Hui Bon Hoa et Cie. Năm 1901, Huỳnh Văn Hoa tạ
thế, thế hệ Chú Hỏa thứ hai thừa kế cổ phần của hợp doanh này. Chẳng
những thế, đến sau khi Antoine qua đời (1908), hai con ông là Lucien
Ogliastro và Louis Ogliastro vẫn tiếp tục hợp tác với các con của Huỳnh
Văn Hoa. Năm 1912, Lucien mất. Năm 1927, Louis chuyển hướng kinh doanh
ra thị trường Bắc kỳ và Cao Miên (Campuchia). Tuy vậy, đến năm 1951
Louis mới tuyên bố giải thể, rút vốn và rời khỏi thị trường Đông Dương.
Chuỗi tiệm cầm đồ do thế hệ thứ hai của hai dòng
họ ngày càng khuếch trương: ra Gò Vấp, Hóc Môn, Bà Chiểu; xuống tới Mỹ
Tho, Gò Công, Bãi Xàu, Sóc Trăng… Nói chung, mạng lưới kinh doanh của họ
phủ khắp các thị tứ và cảng sông trọng yếu của miền Nam.
Năm 1930, đối thủ của gia tộc Hui-Bon-Hoa xuất
hiện, đó là công ty kinh doanh động sản và tín dụng của Ấn Độ, Crédit
Mobilier Indochinois, có số vốn 10 triệu franc.
Năm 1931, Tòa Thị chính cho đấu thầu quyền khai
thác tín dụng ở Saigon, chỉ có hai công ty là Ogliastro-HuiBonHoa và
Crédit Mobilier Indochinois dự thầu. Người Ấn đã phá giá, đề xuất mức
thuế cầm đồ là 25% để giành được quyền kinh doanh trong 6 năm. Công ty
của hai gia tộc Ogliastro và Hui-Bon-Hoa phải rút khỏi thị trường
Saigon. Ngay trong năm đó, Indochinois mở rộng thêm chi nhánh, không chỉ
xuống Nam kỳ Lục tỉnh mà còn lan tỏa ra Hà Nội, Hải Phòng, Phnom Penh.
Tính riêng ở Nam kỳ, năm 1938 tổng cộng có 28 tiệm cầm đồ thì đến 16
tiệm là của Indochinois, còn lại 12 tiệm là của Ogliastro-HuiBonHoa.
Phải đến 1950, Indochinois giải thể, gia tộc Hui-Bon-Hoa mới trở lại địa
vị thống lãnh kinh doanh cầm đồ ở Nam kỳ.
6- Kinh doanh bất động sản
Lúc ban đầu lập nghiệp, Huỳnh Văn Hoa nhờ biết
được thông tin sắp xây dựng tuyến đường sắt ở Saigon, ông đã tậu một khu
đất hoang sình lầy diện tích gần 10ha với giá rẻ gần như cho không. Đến
1881, khi khởi công xây dựng tuyến đường hỏa xa Saigon-Cholon, nhà cầm
quyền Pháp đã đền bù cho Hoa một số tiền lớn, đủ để ông ra tiệm cầm đồ.
Không những thế, khu vực đó sau khi mở nhà ga liền trở nên sầm uất, Chú
Hỏa bèn cho cất nhà trên diện tích còn lại để bán và cho thuê. Khu đất
phát tích của Huỳnh gia đó tọa lạc ở Quận Nhứt, được người trong gia tộc
Hui-Bon-Hoa gọi là Hậu Phương Lan 厚芳蘭. Địa danh này được khắc trang
trọng trên mộ chí của Huỳnh Văn Hoa. Sau này Huỳnh Trọng Huấn đầu tư
dinh thự ở Hạ Môn cũng cho xây một nhà kỷ niệm có tên Hậu Phương Lan quán để ghi nhớ công ơn khai phá cơ nghiệp của cha mình.
Chẳng có tư liệu nào ghi chép địa điểm cụ thể của bãi đất hoang ấy. Còn cái tên Hậu Phương Lan nghe vừa văn vẻ vừa lạ hoắc, thật ra chính là ký âm phương ngữ Quảng Đông của địa danh Cầu Ông Lãnh.
Năm 1901, sau khi Huỳnh Văn Hoa mất, hai anh em
Trọng Huấn và Trọng Tán quyết định thành lập Công ty huynh đệ
Hui-Bon-Hoa (La Société Hui Bon Hoa et fréres). Công ty này chuyên kinh
doanh địa ốc, cất nhà cho thuê, xây dựng nhà xưởng và các tòa nhà thương
mại. Phạm vi hoạt động của nó không chỉ ở Saigon mà còn mở rộng trên
toàn Liên bang Đông Dương và các quốc gia lân cận. Anh em họ phân công
nhau: Trọng Tán xử lý công cuộc làm ăn ở Nam kỳ, Trọng Huấn về Hạ Môn
đầu tư, phát triển sự nghiệp ra hải ngoại.
Năm 1918, Đệ nhất Thế chiến kết thúc, kinh tế suy
thoái khiến giá đất giảm mạnh, Huỳnh Trọng Tán phóng tay thu mua và xây
cất nhà cửa, dinh thự ở Saigon-Cholon. Khắp các đại lộ huyết mạch và
chợ đầu mối thuộc địa bàn này đều có cơ ngơi tòa ngang dãy dọc của Chú Hỏa.
Ở thời kỳ cực thịnh, Công ty địa ốc Hui-Bon-Hoa sở hữu hơn hai vạn ngôi
nhà, bằng 1/5 tổng số địa ốc Saigon-Cholon lúc bấy giờ. Qua thời kỳ suy
thoái, kinh tế khởi sắc khiến giá bất động sản tăng dần, cơ nghiệp của
Huỳnh gia cũng tăng theo đều đều. Cùng lúc đó, công ty địa ốc Huỳnh Vinh
Viễn đường do Huỳnh Trọng Huấn thành lập ở Hạ Môn cũng xây cất được hơn
60 tòa biệt thự trên đảo Cổ Lãng, việc làm ăn cứ thế phát triển tính
bằng ngày.
Giai đoạn Đệ nhị Thế chiến, các thành viên thuộc hàng chữ Khánh
(thế hệ thứ ba) của gia tộc cũng chung tay nhập cuộc kinh doanh. Năm
1943, danh sách Hội đồng quản trị của Tổng Công ty địa ốc Hui-Bon-Hoa
ngoài ba anh em Huấn, Tán, Bình, còn có thêm tên của: Khánh Nam 慶楠
(Khien-Nam Hui-Bon-Hoa, con trai Trọng Huấn), Khánh Sam 慶杉 (Khien-Sam
Hui-Bon-Hoa, con trưởng Trọng Tán), Khánh Tung 慶樅 (Khien-Chion Lucien
Hui-Bon-Hoa, con thứ Trọng Tán), Khánh Phong 慶楓 (Khien-Hong Luce
Hui-Bon-Hoa, con trai thứ ba của Trọng Tán)[11].
Công việc kinh doanh của Sài thành đệ nhất phú
gia lúc này đã phát triển sang các lãnh vực khai thác đồn điền cao su ở
các tỉnh miền Đông và mở nhà máy chà gạo ở các tỉnh miền Tây. Các biệt
thự nghỉ mát cho người trong dòng tộc được xây dựng ở Đà Lạt; các biệt
thự tránh nóng cũng được xây ở Vũng Tàu để các cô cậu thuộc hàng chữ
Khánh mỗi cuối tuần ra tắm biển, lái du thuyền; và một khu phần mộ rộng
lớn ở Biên Hòa cũng được hình thành, để các trưởng bối lui về yên nghỉ
ngàn thu ở xứ Nam kỳ cây lành trái ngọt.
7- Huỳnh gia mộ viên
Năm 1901, ông bà Huỳnh Văn Hoa mất, được an táng ở
Tuyền Châu. Lúc bấy giờ, tiếng tăm của nhà cự phú đã lan xa ngoài lãnh
thổ Nam kỳ nên bọn trộm mộ đã vài lần “viếng thăm” nơi yên nghỉ của Chú
Hỏa. Các “Mô Kim hiệu úy”[12] đã không tìm được gì, bởi
Jean Baptiste Hui Bon Hoa vốn theo tín ngưỡng Công giáo nên không theo
phong tục tùy táng của cải của người Trung Hoa. Anh trai Tàu năm xưa đến
Annam với đôi bàn tay trắng, đến chót đời cũng trắng hai tay khiêm
nhường về với Chúa. Ba anh em Huỳnh Trọng từ đó không còn ý định gửi nắm
xương tàn của mình về cố quốc nữa.
Năm 1934, Trọng Tán mất. Trọng Huấn chọn một khu
đất thuộc Thủ Đức để làm mộ địa cho toàn gia tộc và an táng em mình ở
đó. Khu mộ này qua đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa được phân địa giới hành
chánh thuộc quận Dĩ An, tỉnh Biên Hòa, và được dân Biên Hòa gọi là “Mộ
Chú Hỏa”. Khu đất nằm trên đồi cao, đoạn dốc chỗ đó cũng được gọi “Dốc
Chú Hỏa”. Cách gọi tắt này khiến nhiều người lầm tưởng đó là mộ riêng
của Huỳnh Trọng Huấn, nhưng đây thật ra là nghĩa địa của cả gia tộc
Hui-Bon-Hoa. Huỳnh gia mộ viên là một công trình liên hoàn, bố
trí trên diện tích hơn 5ha, với đầy đủ các kiến trúc tiêu biểu của một
nghĩa trang Phúc Kiến, có cổng chính, miếu Thổ thần, nghĩa từ, nhà bia.
Năm 1951, Trọng Huấn; rồi 1961 đến Trọng Bình lần
lượt được an táng nơi đây. Nằm riêng biệt trên ngọn đồi cao nhất ở
trung tâm mộ viên là 3 ngôi mộ của anh em Huỳnh Trọng. Mộ phần ba đại
phú hào y hệt những ngôi mộ bình thường khác của người Tàu, ngoại trừ
văn bia và mộ chí Trọng Tán là do các thợ bậc thầy được mời từ bên Tàu
qua phụ trách; toàn bộ điêu khắc ở đây đều do các nghệ nhân Phúc Kiến ở
làng đá Bửu Long (Biên Hòa) tạo tác. Hai trụ đá trước mộ Trọng Huấn là
đôi liễn:
友于兄弟 Hữu vu huynh đệ
卜共山邱 Bốc cộng sơn khâu
(Anh em hòa thuận/ Chọn chung đồi núi – Câu “Hữu
vu huynh đệ” là thành ngữ xuất xứ trong Kinh Thư, thiên Quân Trần, ý nói
người bạn đầu tiên trong đời mỗi người chính là anh em của mình).
Tính đến năm 1975, tổng cộng có tám người thuộc gia tộc Hui-Bon-Hoa (kể cả ba anh em Huấn-Tán-Bình) được chôn cất ở đây[13].
Sau 1975, trước khi rời Việt Nam không hẹn ngày
trở lại, gia tộc Hui-Bon-Hoa cấp cho người chăm sóc Huỳnh gia mộ viên
một số vốn để đảm bảo người này vẫn tiếp tục nhiệm vụ của mình. Những
năm cuối thập niên 90, con trai người thủ mộ đó (được biết tên là Lương)
mạo nhận mình là con cháu Chú Hỏa, thông đồng với chính quyền địa
phương xà xẻo khu mộ của dòng họ Hui-Bon-Hoa, cắt đất bán cho người
ngoài vào xây dựng thổ cư. Từ năm 1999, Dĩ An được chuyển giao cho tỉnh
Bình Dương. Trải nhiều lần xáo trộn hành chánh, người xâm phạm ngày càng
đông, đến nay thì khu mộ viên này đã thành một mê cung, nếu không có
người hướng dẫn thì không tài nào tìm được nơi yên nghỉ của ba anh em
Huỳnh Trọng.
8- Đánh đuổi tư sản ngoại bang
Những năm cuối đời, Huỳnh Trọng Bình giao mọi
việc kinh doanh cho Huỳnh Khánh Mi 黃慶楣 (con trai thứ ba của Huỳnh Trọng
Huấn), đây cũng là người cuối cùng thừa kế danh hiệu “Chú Hỏa”.
Kể từ sau Đệ nhất Thế chiến, Huỳnh Vinh Viễn
đường trở thành “Vua bất động sản” không chỉ ở miền Nam Việt Nam mà cả ở
Hồng Kông, Hạ Môn, Đài Loan, Thượng Hải; thậm chí có sản nghiệp ở cả
Anh, Pháp. Đó không phải việc sức một người có thể làm được, mà là do
toàn gia tộc chung vai gánh vác.
Người sống trong Huỳnh Vinh Viễn đường phải theo
gia pháp rất nghiêm. Trai cưới vợ được cấp một nhà lầu 2 tầng cộng
40.000 franc làm vốn, gái lấy chồng được hồi môn một nhà trệt và 20.000
franc (không rõ thời điểm cụ thể, chỉ biết so với bậc lương cao nhất của
một công chức người Pháp vào lúc ấy là 8.000 franc/tháng), sau đó tuyệt
đối không được can dự gì vào khối tài sản của gia tộc. Ngoài ra, con
cháu trong họ được cấp toàn bộ học phí cho đến thành tài. Sau khi ra
trường, tùy theo ngành nghề đã học, họ đều được đặt vào vị trí thích hợp
để phục vụ cho công ty của gia tộc, lương thưởng theo năng lực cá nhân.
Ngay từ ấu thơ, các mãnh hổ Hui-Bon-Hoa đã được dạy rằng nếu không tìm
được một chỗ đứng trong công ty của gia tộc mình là sự sỉ nhục lớn.
Vì thỉnh thoảng vẫn có người tự nhận mình là dòng
dõi Chú Hỏa, ở đây xin gợi ý vài điểm để kiểm chứng hậu duệ Hui-Bon-Hoa
chánh hiệu:
– Phải biết đọc và viết chữ Tàu, vì con cháu Hui-Bon-Hoa tuyệt đối không có hạng thất học và vong bản.
– Phải theo Công giáo, đây là lẽ tất nhiên không cần bàn cãi và cũng không được phép có lựa chọn khác.
– Ngoài họ Huỳnh, còn phải có chữ lót trùng với bài Phả tự thi do Huỳnh Trọng Huấn đặt.
– Không thể có quốc tịch Việt Nam, vì gia tộc
Hui-Bon-Hoa tuyệt đối không để lại giọt máu nào rơi rớt ở mảnh đất này,
toàn bộ người của dòng họ này đã cuốn nóp cút khỏi xứ này từ sau 1975.
Từ 1955, Công ty địa ốc Hui-Bon-Hoa đã được Huỳnh
Trọng Bình chuyển trụ sở chính qua Paris, chính sách buộc Hoa kiều nhập
Việt tịch của Tổng thống Ngô Đình Diệm[14] do đó không hề ảnh hưởng đến dòng họ Pháp kiều này. Tuy vậy, sản nghiệp chính của họ vẫn là ở miền Nam Việt Nam.
Giữa năm 1974, tình hình miền Nam không mấy lạc
quan, Huỳnh Khánh Mi cho ngưng mọi hoạt động ở Việt Nam, phần lớn người
trong gia tộc được thu xếp cho ra các chi nhánh ở nước ngoài.
Ngày 30-4-1975, đoàn quân cờ đỏ sao vàng tiến vào
Sài Gòn. Khu dinh thự Huỳnh Vinh Viễn đường ở đường Phó Đức Chính được
trưng dụng làm tổng hành dinh của Bộ tư lệnh Quân khu 7 Việt cộng, gia
quyến của Chú Hỏa bị nhồi nhét dồn lên tầng trên cùng. Toàn bộ đồ cổ
ngoạn trong khu dinh thự tư nhân này lập tức được hàng đoàn xe GMC đến
dọn dẹp bằng sạch, với lý do để rộng chỗ cho Bộ tư lệnh làm việc.
Chưa hết, vài hôm sau, một cuộc đấu tố được phát
động, Công đoàn tố cáo những tội ác của gia tộc Hui-Bon-Hoa đối với nhân
dân: bóc lột công nhân, gian lận thuế má, chuyển nhượng nhà cửa phi
pháp, cho thuê nhà và cầm đồ với giá cắt cổ, kỳ thị và áp bức nhân công
người Việt… Huỳnh Khánh Mi cùng khoảng 10 người khác của gia tộc
Hui-Bon-Hoa liền bị tống giam, toàn bộ sản nghiệp của dòng họ này bị
tịch thu. Ước tính tổng tài sản của dòng họ Hui-Bon-Hoa không kể bất
động sản (và cả đồ cổ bị chở đi trước đó) là 80 tỷ tiền Việt Nam Cộng
Hòa, tương đương 32 triệu Mỹ kim vào thời điểm đó[15].
Cộng quân bắt giam, nói là nhằm truy cứu những
tội ác của họ, nhưng thật ra là để điều tra những bất động sản mà chúng
chưa nắm được. Hơn ba tháng sau, Huỳnh Khánh Mi mới được thả (ông kiên
quyết đòi mình phải là người sau cùng của gia tộc ra khỏi nhà giam).
Chưa đầy một tuần sau, toàn thể gia tộc Hui-Bon-Hoa ra sân bay rời Việt
Nam, hành trang cực kỳ gọn nhẹ của họ được công an Việt Nam xốc tung lên
để tìm châu báu lần cuối. Quân chó má tham lam vô độ vui mừng hơn trúng
số vì đã lột sạch được một nhà tư sản, nhưng chúng không thể ngờ là
chúng đã lỡ mất cơ hội thu phục tiềm lực hùng mạnh và quý báu nhất để
kiến thiết một quốc gia: sự ủng hộ của Hoa kiều trên thế giới.
Năm 1986, chính phủ Cộng hòa Pháp đền bù cho
những tổn thất mà công dân của họ đã phải gánh chịu trong chiến tranh
Việt Nam, gia tộc Hui-Bon-Hoa được một khoản không nhỏ, nhưng chẳng thấm
vào đâu so với những gì đã bị tước đoạt.
Năm 1987, “Nhà Chú Hỏa” được dùng làm Bảo tàng Mỹ
thuật. 1992, Bảo tàng chính thức khai trương. Tháng 7-2006, lần đầu
tiên, một vài thành viên thuộc hàng chữ Nguyên và chữ Tích (thế hệ thứ
ba và thứ tư) của gia tộc Hui-Bon-Hoa từ Pháp đến Sài Gòn tìm thăm vết
tích cũ của tiền nhân. Ở Bảo tàng Mỹ thuật, họ được ngắm nhìn một phần
cổ ngoạn của nhà họ khi xưa. Bà Nguyễn Thị Đức, Giám đốc Bảo tàng tiếp
đón họ, sau đó bà này cho báo giới biết: các thành viên của gia tộc
Hui-Bon-Hoa đã vui mừng nói rằng được trở thành Bảo tàng là “sự thay đổi
tốt nhất” cho ngôi nhà của họ. Thế sự đảo điên, những kẻ bị tước đoạt
giờ đây thành ra phải tri ân quân giặc cướp vì chúng đã “bảo quản” của
cải giúp mình!
9- Những đóng góp của gia tộc Hui-Bon-Hoa
Triết lý kinh doanh của nhà Hui-Bon-Hoa là lợi
nhuận thu được từ cộng đồng phải được dùng để phục vụ trở lại cho cộng
đồng, nâng cao phúc lợi xã hội. Chú Hỏa được khắp miền Nam nhớ
đến không phải vì tài sản kếch sù, mà vì những đóng góp cho xã hội.
Không tài nào thống kê được cụ thể có bao nhiêu ngôi nhà do Công ty địa
ốc Hui-Bon-Hoa xây dựng cho dân nghèo thuê với giá rẻ. Ngót trăm năm đã
trôi qua, đến nay người ta vẫn còn có thể nhiều lần bắt gặp không chỉ ở
Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, mà cả ở miệt Lục tỉnh, những dãy nhà liền kề
nhau rất đặc trưng kiểu “Chú Hỏa”. Những người dân nghèo bất kể Tàu,
Việt, đều có thể tìm đến Công ty Hui-Bon-Hoa để thuê hoặc mua trả góp
một ngôi nhà khang trang đủ tiện nghi gia đình và phù hợp với túi tiền
của mình.
Nhiều công trình lớn do họ xây dựng đến nay vẫn
phát huy công năng. Hạng mục này không cần phải kể nhiều, chỉ xin tùy
tiện điểm qua vài công trình quan trọng: Phước Thiện y viện (Huỳnh Trọng
Tán xây năm 1909, nay là Bệnh viện Nguyễn Trãi), Chẩn y viện (Huỳnh
Trọng Huấn xây năm 1937 – nay là Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn), Bảo sanh
viện Đông Dương (1937 – nay là Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ), chùa Phụng Sơn
(Huỳnh Trọng Bình xây năm 1949 – số 338-340 Nguyễn Công Trứ, Quận I),
chùa Kỳ Viên (năm 1949 – số 610 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 3, Quận 3),
Thành Chí học hiệu (Huỳnh Khánh Mi xây, nay là Trường THCS Minh Đức – số
75 Nguyễn Thái Học, Phường Cầu Ông Lãnh, Quận I)…
Từ thời Pháp thuộc, khi Huỳnh Trọng Tán mất
(1937), để vinh danh gia tộc Chú Hỏa, chính quyền thực dân đã đặt tên
cho con đường nối liền Saigon với Cholon là Đại lộ Hui Bon Hoa
(Boulevard Hui Bon Hoa), chính là đường Lý Thái Tổ ở Quận 10 ngày nay.
* * *
Hơn trăm năm trước (1865), một chàng trai đi
thuyền từ Phúc Kiến đến Saigon kiếm kế sinh nhai. Chàng trai ấy đã cùng
mấy đời con cháu mình góp phần xây dựng Nam kỳ thành xứ phồn vinh. 110
năm sau đó, Việt cộng có công lớn đánh đuổi gia tộc này biến mất khỏi
miền Nam để giúp bảo quản sản nghiệp cho người ta. Lịch sử của dòng họ
này từ đó đến nay vẫn được Cộng quân xuyên tạc hoặc cố tình dìm vào quên
lãng hòng che giấu bản chất thảo khấu của chế độ. Dù sao, dòng họ
Hui-Bon-Hoa vẫn nhất định sẽ còn tồn tại và phát triển dài dài, ít nhất
cũng lâu hơn bọn Cộng.
_______
[1] Sỹ tức Huyện Sỹ Lê Phát Đạt (1841-1900);
Phương là Đỗ Hữu Phương (1841-1914), còn gọi Tổng đốc Phương; Xường tức
Bá hộ Xường Lý Tường Quan (1842-1896).
[2] Loạt bài này là kết quả việc đối chiếu các
tài liệu Pháp, Nhật, Tàu, Việt; chủ yếu là dựa vào hai bài viết của hai
thành viên gia tộc Hui-Bon-Hoa là Eddie Hui-Bon-Hoa và Odette
Hui-Bon-Hoa. Trình độ ngoại ngữ của người viết thiệt là như hạch, toàn
phải nhờ phần mềm hỗ trợ dịch thuật; việc lượng định tính chân thực của
dữ liệu lại càng nan giải khiến bài viết phải sửa chữa, cắt bỏ và đứt
đoạn nhiều lần. Công việc khó nhằn này bắt đầu từ hơn 3 năm trước, cứ
đứt rồi lại nối, mãi vẫn chưa hoàn thành. Vốn đã định chịu thua xếp lại
cho khỏe, nhưng nếu không trình làng thì nhiều chi tiết lịch sử sẽ bị
khuất lấp, nên nay post lên rỉ rả làm động lực để đi đến cùng công việc;
hơn nữa biết đâu sẽ được người hiểu biết góp ý, giúp cho bài viết được
hoàn chỉnh hơn.
[3] 許本華 phiên âm Hán-Việt là Huỳnh Bổn Hoa (thanh
ngang không dấu), chữ Hoa (còn đọc là Huê) này chỉ đọc Hòa khi ký âm
theo tiếng Quảng Đông. Năm 1960, Vương Hồng Sển ghi trong “Sài Gòn năm
xưa”: “Hui Bon Hoa, tục danh Chú Hỏa, mặc dầu về sau danh vọng lớn,
địa vị cao, cũng không ai gọi Ông Hỏa bao giờ. Sớm nhập tịch Pháp nên ký
âm theo Pháp ngữ làm vậy rồi gọi như vậy cho đến đời đời, không rõ theo
Hán tự hà danh hà tánh?” (Nxb Tự Do, Sài Gòn 1961 – Phần 7: Nhân
vật Hoa Kiều hồi Tây mới qua). Rõ ràng ông Sển cũng không biết tên họ
thật của Chú Hỏa, nhưng sau đó một con giáp, năm 1973, đạo diễn Lê Hoàng
Hoa làm phim kinh dị “Con ma nhà họ Hứa” (“Dạ Lý Hương Films” sản
xuất), cốt truyện được cho là phỏng theo giai thoại về một cô con gái
của Chú Hỏa. Từ đó có thể thấy, vào lúc này, người ta đã bắt đầu lầm
tưởng gia tộc Chú Hỏa thuộc họ Hứa. Và đến năm 2002, người viết bài này
còn thấy trên tấm bảng trước cửa khu dinh thự cũ của gia tộc Hui-Bon-Hoa
(được Việt cộng trưng thu làm Bảo tàng Mỹ thuật – số 97, đường Phó Đức
Chính, quận Nhứt, Sài Gòn) kể lai lịch khu nhà cũng khẳng định Chú Hỏa
tên thật là Hứa Bổn Hòa.
[4] Điểm sơ qua, có các giả thuyết kiêm lời đồn sau:
– Lúc mới đến Sài Gòn, Chú Hỏa làm công cho một
chủ người Pháp. Nhờ siêng năng và đọc thông tính thạo nên được chủ Pháp
trọng dụng. Chủ Pháp mất, đã để lại gia tài bạc vạn cho chú.
– Chú Hỏa hồi mới đến phải sống bằng nghề
lạc-xoong, có lần chú mua được cái ghế nệm cũ, khi sửa lại để bán thì
ông tìm thấy trong lưng ghế có túi vàng.
– Chú Hỏa mua nền nhà cũ để ở, tình cờ khi sửa nhà đào được cả hầm vàng.
– Chính quyền Pháp đấu giá thanh lý một lô máy
truyền tin cũ, Chú Hỏa mua lại số hàng này và từ đống phế liệu đó… phân
kim được cả đống vàng.
– Chú Hỏa mua bán đồ cổ, nhờ biết chữ Tàu nên ông
thu mua được nhiều cổ ngoạn quý giá từ đời Hán, Nguyên, Thanh, nhờ đó
mà phất lên.
[5] Khu bãi lầy khởi nghiệp “kinh doanh bất động
sản” đó của Chú Hỏa sau này là tòa nhà Bureau du Chemin de fer của công
ty Hỏa xa Đông Dương mạng phía Nam (Chemin de fer de l’Indochine, CFI,
réseau du sud) nằm ở góc đường Hàm Nghi-Lê Lợi. Còn tiệm cầm đồ đầu tiên
của Chú Hỏa là căn nhà nằm ở góc đường Phó Đức Chính – Nguyễn Thái Bình
ngày nay.
[6] Không rõ hành trạng cũng như tác
phẩm của Lý Thanh Cơ, chỉ biết ông là cháu nội Lý Quang Địa (1642-1718),
đỗ tiến sĩ năm 1670 đời Khang Hy, làm quan đến Lại bộ Thượng thư, Văn
Uyên các Đại học sĩ.
[7] Cổ Lãng tự 鼓浪嶼, tức Kulangsu, một hòn đảo nhỏ
(diện tích chỉ 2 cây số vuông) thuộc huyện Tư Minh (nay thuộc thành phố
Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến). Cuối đời Tống, đảo có tên Viên Sa châu, đời
Minh đổi thành Cổ Lãng tự. Trịnh Thành Công từng dồn binh lập trại nơi
đây để chiến nhau với Mãn Thanh. Thời kỳ Chiến tranh Nha phiến
(1840-1842), Cổ Lãng tự bị thực dân Anh chiếm đóng. Năm 1843, theo Điều
ước Nam Kinh, Cổ Lãng tự thành cảng thông thương quốc tế.
Sau chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất
(1894-1895), Nhật Bản chiếm Đài Loan. E ngại Nhật sẽ lấn tới dòm ngó Hạ
Môn (do vị trí Hạ Môn đối diện eo biển Đài Loan), Thanh triều quyết định
tìm kiếm bảo hộ từ quốc tế, đề xuất dùng Hạ Môn làm cảng nhượng quyền
cho liệt cường. Từ 1902, Cổ Lãng tự của Hạ Môn thành tô giới công cộng,
lần lượt có 13 cường quốc đặt lãnh sự quán tại đây, cùng với đó là lượng
người nước ngoài tụ về đông đúc.
[8] L’Information d’Indochine, économique et financières, 1934.
[9] Huỳnh Văn Hoa đặt tên cho các con lấy chữ
Trọng làm chữ lót, tên đều theo bộ Ngôn 言: Trọng Mô 仲謨, Trọng Huấn 仲訓,
Trọng Tán 仲讚, Trọng Bình 仲評…
[10] Đây cũng là tòa đẹp nhất trong bốn dinh thự,
hiện còn chiếc thang máy đầu tiên của Saigon (bằng gỗ), nay vẫn còn vận
hành được. Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton khi viếng thăm Sài Gòn năm
2000 đã dùng đây làm nơi tiếp khách.
[11] Hàng chữ Khánh được đặt tên theo bộ Mộc 木.
[12] Mô Kim hiệu úy: tương truyền đời Tam quốc,
Tào Tháo thành lập một đội quân đặc biệt chuyên khai quật các lăng mộ đế
vương, chỉ huy đội quân này được phong chức Mô Kim hiệu úy (quan hiệu
úy mò vàng). Danh từ này sau đó được người Tàu dùng để gọi bọn trộm mộ.
[13] Cũng trong Huỳnh gia mộ viên, cách 8 ngôi mộ
của nhà Hui-Bon-Hoa gần 100m về phía Tây Bắc là 5 ngôi mộ khác cũng họ
Huỳnh. Chỗ khác nhau là trên đầu các bia mộ thuộc gia tộc Chú Hỏa khắc
hai chữ Vinh Viễn 榮遠 (gọi tắt Huỳnh Vinh Viễn đường, tên Tàu của Công ty địa ốc Hui-Bon-Hoa). Còn trên đầu bia các mộ này là hai chữ Tử Vân 紫雲.
Họ Huỳnh 黃 (ngoài Bắc đọc là Hoàng), vốn là một
họ lớn, được xếp hàng thứ 7 bên Tàu. Riêng ở Tuyền Châu, Phúc Kiến, có
10 họ lớn xếp theo thứ tự là: Trần, Lâm, Huỳnh, Vương, Lý, Trương, Ngô,
Lưu, Dương, Hứa; họ Huỳnh đứng hàng thứ ba, mệnh danh “Thám hoa” (Trạng
nguyên Trần, Bảng nhãn Lâm, Thám hoa Huỳnh).
Ông tổ họ Huỳnh ở Tuyền Châu là Huỳnh Thủ Cung
(629-712), một cự phú đời Đường. Năm 686, Cung xây Liên Hoa tự (nay là
Khai Nguyên tự, di tích văn hóa cấp quốc gia của đại lục). Tương truyền
chùa này quanh năm có mây tía bao phủ nên còn gọi Tử Vân tự. Con cháu
Huỳnh Thủ Cung từ đó tự xưng chi mình là Tử Vân Huỳnh.
Trải hơn ngàn năm, Tử Vân thành một nhánh lớn
mạnh của họ Huỳnh, với nhiều tên tuổi lớn: đời Bắc Tống có thư pháp gia
Huỳnh Đình Kiên, Nam Tống có tư tưởng gia Huỳnh Chấn, đời Thanh có Huỳnh
Tông Hy, Huỳnh Thận, Huỳnh Tuân Hiến, v.v… Cuối Minh đầu Thanh, có rất
đông người thuộc Tử Vân Huỳnh thiên di sang Annam.
Sự hiện diện của các ngôi mộ thuộc Tử Vân trong
khuôn viên mộ địa của nhà Vinh Viễn cho thấy gốc gác gia tộc Hui-Bon-Hoa
có mối liên hệ mật thiết với Tử Vân về huyết thống. Nhánh Huỳnh Tử Vân
cũng dựa vào bài Phả tự thi của họ nhà mình có chữ Trọng:
仲淑季禮則 Trọng thục quý lễ tắc
奕世種書田 Dịch thế chủng thư điền
文章昭國瑞 Văn chương chiêu quốc thụy
忠孝本家傳 Trung hiếu bổn gia truyền
để nhận ba anh em Trọng Huấn, Trọng Tán, Trọng
Bình là người thuộc dòng họ mình. Nhưng ngoài mỗi chữ Trọng làm tên đệm
trong bài thơ này thì không có thêm được chứng cớ khác. Tra các gia phả
nhánh Tử Vân cũng không hề thấy tên Huỳnh Văn Hoa và các con.
Mối liên hệ giữa nhánh Tử Vân và Vinh Viễn là có
thật; bằng không, các ngôi mộ của nhà Tử Vân đã không thể chen vào đây.
Tôi phân vân không thể chứng minh cụ thể mối liên hệ ấy, mà bỏ qua thì
tiếc, xin ghi lại vào chú thích này để tồn nghi.
[14] Có thể đọc thêm về chính sách này ở đây.
[15] Một so sánh để dễ hình dung: cùng thời điểm
đó, vào khoảnh khắc tồn tại cuối cùng của chính phủ Việt Nam Cộng hòa,
trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có ngân khoản dự trữ là 16 tấn vàng lá
(mà Cộng sau đó vu cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mang theo chạy ra
nước ngoài). Số vàng này gồm 1.234 thỏi, nặng khoảng 16 tấn, trị giá
71,658 triệu Mỹ kim. Tính ra, tài sản của gia tộc Hui-Bon-Hoa gần bằng
1/2 dự trữ ngân khố quốc gia.
Chuyện ly kỳ về doanh nhân giàu nhất Sài Gòn xưa
Lưu lạc nơi đất khách, từ một gánh ve chai, ông đã gây
dựng nên một sản nghiệp đồ sộ với trên 20.000 căn nhà ở các vị trí
đắc địa nhất Sài Gòn.
Theo Huy Thịnh/Tiền Phong
Nhận xét
Đăng nhận xét