Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 161
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Vĩnh biệt “Hổ cụt đường 9” – Vị tướng khiến quân thù khiếp sợ
Bùi Hải |
190
Trung tướng Lê Hữu Đức tại một cuộc gặp mặt nhân dịp 30.4
17 lần bị thương trên các chiến trường, nhưng ông không chịu đầu
hàng bom đạn quân thù. Ông chỉ chịu dừng lại hành trình cuộc đời cực kỳ
gian khổ và vinh quang ở tuổi 93, để về với người Thủ trưởng vĩ đại của
mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Sáng nay, những mái đầu bạc đầu xanh của gia đình, bạn chiến
đấu cũ và rất nhiều đồng đội đã đến nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, làm những
thủ tục cuối cùng để tiễn đưa PGS. TS, Trung tướng Lê Hữu Đức về nơi an
nghỉ cuối cùng.
Họ nghiêng mình trước một vị chiến tướng đã tận
hiến đời mình "trọn gói" cho cả 4 cuộc kháng chiến nhiều mất mát, đau
thương nhưng hào hùng của dân tộc. Hổ cụt đường 9 và "cái đầu" trị giá nhiều ngàn đô la
Năm
1947, khi mới 23 tuổi, Tiểu đoàn trưởng Lê Hữu Đức đã bị đạn địch xuyên
vào bả vai trái ở chiến trường Điện Bàn – Quảng Nam. Ông ngất đi.
Ca mổ hoàn toàn không có thuốc mê, khiến Lê Hữu Đức gần như ngất đi một lần nữa. "Giống
như Hoa Đà mổ cho Quan Vân Trường ngày xưa, đau đớn không kể xiết.
Trước khi mổ, bác sĩ quân y tên Kỹ còn hỏi tôi: Không có thuốc mê đâu,
anh có chịu đựng được thì để tôi mổ chay. Không mổ, tay anh hỏng mất" – ông Đức kể lại.
Ông
gật đầu. Bác sĩ Kỹ lấy dây trói cánh tay ông giáp ngực, nhanh chóng
rạch vết thương và luồn hai ngón tay vào bả vai ông gắp đạn và xương vỡ.
"Tôi nghiến chặt răng và nhìn thấy một luồng máu phụt từ vai ra, cơ thể đau buốt dại".
Khi
thấy thao tác mổ quá nhanh, ông cắn răng đề nghị bác sĩ Kỹ xem còn mảnh
xương vụn nào thì tranh thủ vét ra hết, để sau phải mổ lại. Vết thương
lại được banh ra lần nữa trong đau đớn.
Dù ca mổ rất dứt khoát,
nhưng do không đủ thuốc men, cánh tay ấy hoại tử, hôi thối, nhức buốt
buộc ông phải đi đến một quyết định khó khăn nhất: Cắt bàn tay. "Cắt
bỏ một phần cơ thể tôi không sợ. Sợ nhất là với việc mất một tay, tôi
không còn đủ tiêu chuẩn làm lính chiến nữa. 23 tuổi đời đã bị loại ra
khỏi vòng chiến đấu thì còn nói chuyện gì." – ông nhớ lại.
Cuối
cùng, cánh tay vẫn phải cắt, nhưng nó không ngăn được ông tiếp tục
chiến đấu. Với một cánh tay rưỡi ấy, Lê Hữu Đức vẫn nhiều lần bò vượt
qua hàng rào dây thép gai, cùng cấp dưới vào tận căn cứ địch để trinh
sát, để đánh trận nào oanh liệt trận ấy.
Câu chuyện về người chỉ
huy có thân hình rất cao lớn, cụt tay, vẫn ngang dọc chiến trường gieo
sợ hãi cho Mỹ ngụy ấy, đã được chính đồng đội và cả kẻ thù, định danh
trong cụm từ oai dũng "Hổ cụt Tây Nguyên", "Hổ cụt đường 9 nam Lào".
Kẻ
thù còn treo thưởng: Ai lấy được đầu, đoạt được mạng sống của ông sẽ
được lĩnh hàng ngàn đô la. Nhưng cuối cùng, không một kẻ địch nào được
lĩnh thưởng, dù bom đạn của chúng đã khiến Lê Hữu Đức bị thương tới 17
lần.
Có những trận đánh, tưởng như không thể có phép màu nào cứu
sống được ông, nhưng rồi ông vẫn thoát. Một trận, bom thả trúng sở chỉ
huy của ông, tan nát tất cả. Những người còn lại không thể tìm ra dấu
vết cũ của căn hầm tướng Đức và cần vụ trú ẩn.
Khi mọi người đã
rơi nước mắt khóc ông thì một vị chỉ huy khác ra lệnh: Tan xác cũng phải
tìm bằng được thân thể anh Đức. Hóa ra, bom chỉ san phẳng phía trên chứ
không khoan sâu xuống. Khi thấy gậy của đồng đội thọc xuống tìm, theo
hướng dẫn của ông, cậu cần vụ đã nắm lấy cây gậy lay lay và hai người
được cứu sống.
“Hổ cụt Tây Nguyên”, “Hổ cụt đường 9” – Trung tướng Lê Hữu Đức
Đám cưới kỳ lạ và giọt nước mắt chiến tướng
Người
vợ gắn bó với tướng Lê Hữu Đức phần lớn cuộc đời, chăm sóc yêu thương
ông đến hơi thở cuối cùng, là người phụ nữ của cuộc hôn nhân thứ 2.
Cuộc
hôn nhân đầu là một câu chuyện vừa tuyệt vời nhất nhưng cũng đau thương
nhất. Ông gặp bà trong thời gian chiến đấu. Bà cũng là một chiến sĩ
cách mạng nam tiến.
Lăn lộn cùng nhau trong những năm tháng thiếu
thốn, gian khổ, xa quê hương, đã khiến hai người gần nhau, với một tình
yêu vừa đúng nghĩa vừa đậm sâu tình đồng đội.
Sau này, khi đã gần
90 tuổi, ngồi nói chuyện với chúng tôi, tướng Đức thỉnh thoảng vẫn kể về
người vợ - đồng đội ấy. Có lần, ông đã khiến chúng tôi khóc theo, khi
đưa cánh tay cụt lên lau nước mắt lã chã.
Ông kể, đám cưới của hai
người diễn ra giản dị và bí mật tại một mảnh vườn nhỏ ở vùng địch chiếm
đóng. Chỉ có vài cái kẹo, dăm cốc nước. Đêm tân hôn của cặp vợ chồng
trẻ cũng là màn trời chiếu đất ở trong vườn.
Thế nhưng, do yêu cầu
chiến đấu, chỉ vài ngày sau ông bà phải chia tay để hành quân đến những
nơi khác nhau. Sau đó, giặc thù đã cướp vĩnh viễn của ông người vợ -
người đồng đội tuyệt vời ấy.
Một lần khác, phóng viên báo tôi thấy
ông ứa nước mắt, khi nghe tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp tạ thế. Hôm ấy,
ngồi trong ngôi nhà nhỏ 4 tầng tại ngõ phố Đội Nhân, Hà Nội, ông chỉ lên
bức trướng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mừng thọ ông năm ông 80 tuổi,
nói về người cựu thủ trưởng trực tiếp của mình: "Mỗi lần nhắc
tới cụ Hồ, nhắc tới ông Võ Nguyên Giáp là tôi không cầm được nước mắt.
Hôm qua, có một người quen nằm ở viện 108 gọi điện cho cô giúp việc nhắn
với tôi là ông Võ mất. Sau đó lại nghe được tin xác nhận từ một chú
trung tá, tôi đã rất buồn. Đau xót vô cùng. Vẫn biết sinh ly tử biệt
nhưng tôi thấy tiếc một người tốt như vậy, văn võ song toàn, đức độ trọn
vẹn, ít có ai được như thế!".
Bức ảnh chụp lúc 12h50 ngày 30.4.1975 tại Tổng hành dinh với Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Đại tá Lê Hữu Đức ngoài cùng bên trái)
Những thời khắc lịch sử
Từ
chiến trường ra, Lê Hữu Đức được cất nhắc làm phó, rồi làm Cục trưởng
cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu, PGĐ Học Viện Quốc phòng.
Ông là
một trong những thành viên của Tổ Trung tâm thành lập năm 1973 gồm 4
người, do tướng Lê Trọng Tấn làm tổ trưởng. Tổ này có nhiệm vụ soạn thảo
kế hoạch Giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976.
Tổ họp liên
tục. Rất nhiều lần ông được báo cáo Kế hoạch trực tiếp với Đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Có lần ông được báo cáo trực tiếp suốt 3 tiếng đồng hồ với
Tổng Bí thư Lê Duẩn. "Anh Ba (ông Lê Duẩn) là người rất sáng
suốt, nhưng anh không phản đối gì. Anh nói sẽ bàn thêm với anh Tô (Thủ
tướng Phạm Văn Đồng). 2 giờ chiều cùng ngày, anh Ba mời cả Tổ trung tâm
sang bàn thảo tiếp và liên quan" – tướng Đức nhớ lại.
Trưa
30.4, giờ khắc lịch sử của dân tộc, khi bộ đội ta cắm cờ trên Dinh Dộc
Lập, tướng Đức cũng có mặt bên cạnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong "tổng
hành dinh".
5 vị tướng, tá (Thiếu tướng Cao Văn Khánh, Phó tổng
Tham mưu trưởng; Đại tá Lê Hữu Đức, Cục trưởng Tác chiến; Đại tá Nguyễn
Trọng Yên và Thượng tá Phạm Chí Nhân, Cục trưởng và Cục phó Tuyên huấn)
đều đứng bật dậy hân hoan nhìn Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ gậy vào Dinh
Độc lập trên tấm bản đồ chiến tranh, ăn mừng chiến thắng. "Đó
là những thời khắc không bao giờ quên. Nhưng cuộc đời binh nghiệp của
tôi, như nhiều đồng đội khác, không dừng lại ở đấy. Tôi tiếp tục cùng
đất nước tham gia "trọn gói" vào hai cuộc chiến khốc liệt nữa để bảo vệ
tổ quốc" – tướng Đức bồi hồi.
Những năm tháng cuối đời của
Trung tướng Lê Hữu Đức, tôi có may mắn gặp gỡ ông nhiều lần. Kể cả khi
đã rất yếu, thì chất lính chiến máu lửa, quyết liệt của chàng trai Nghi
Xuân – Hà Tĩnh thủa xưa, vẫn cháy ngùn ngụt qua những cái vung tay, cái
giọng sang sảng và những ý kiến đanh thép trên báo chí.
Hai
lần cuối cùng, chúng tôi tổ chức Giao lưu trực tuyến về Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, về thành tựu huyền thoại của ngành Quân y Việt Nam, tướng
Đức đều nhận lời tham dự.
Nhưng bệnh huyết áp của ông trở chứng,
khiến ông không thể đến tòa soạn tham dự. Ông nằm trên giường ở nhà để
đọc câu trả lời cho phóng viên truyền về tòa soạn.
Sáng nay, tôi
đến thăm ông lần cuối. Tôi đã nhìn rất lâu lần cuối cùng vào khuôn mặt
vị chiến tướng oanh liệt ấy và nghĩ rằng: Những chứng nhân của một trang
lịch sử hào hùng của đất nước, rồi cũng sẽ ra đi, nhưng những thứ họ để
lại, không thể phai nhạt.
Rời đám tang, tôi điện thoại cho vị
chiến tướng lừng danh khác, một đồng đội cũ trên mặt trận Tây Nguyên của
tướng Đức. Ở đầu bên kia, giọng Trung tướng Nguyễn Quốc Thước (đã 92
tuổi) sang sảng: "Tôi vừa đi viếng anh Đức về. Đi theo đoàn cựu binh
cũ của mặt trận Tây Nguyên. Hôm nay, anh ấy sẽ được gặp lại nhiều đồng
đội.".
Vâng, cuối cùng thì ông đã được về với tổ tiên, thủ trưởng Võ Nguyên Giáp và biết bao đồng đội của cả 4 cuộc chiến bi tráng.Vĩnh biệt ông!
theo Trí Thức Trẻ
"Trận đánh" lớn đầu tiên của "Hùm xám đường số 4": Treo cờ trước 120 họng súng
Hoàng Trường Giang lược ghi |
11
Ông Đặng Văn Việt kể chuyện treo cờ cách mạng trên Kỳ đài Huế.
Bảo Đại đã định cho nổ súng nhưng Nam Phương Hoàng hậu ngăn
lại... Bảo Đại nghe lời Hoàng hậu xong lập tức ra lệnh: "Chớ, không được
bắn, các ngươi mà bắn thì trẫm chết trước đó".
Kỳ 1: Chuyện cảm động ghi ở Bệnh viện Hữu nghị: 4 vị tướng cúi đầu bên giường một vị trung tá (Xemtại đây) Kỳ 2: Cờ đỏ sao vàng tung bay trên Kỳ đài Huế Dăm năm trước, có lần ngồi "trà thuốc" với Hùm xám Đặng Văn Việt
ở căn phòng nhỏ của ông trên tầng 4, tôi hỏi: "Nay đã gần trăm tuổi,
thời thanh niên của bác rất sôi nổi thăng trầm nhưng điều gì làm bác nhớ
nhất ?". Người lính già nheo đôi mắt nhìn đời gần thế kỷ
rồi cười đáp: "Cuộc đời tôi có 5 biến cố lớn nhưng sự kiện đầu tiên
chính là cách mạng tháng 8". Phút sinh tử trước họng súng của lính Bảo Đại
Ông
Việt nhớ lại, sau cách mạng tháng 8-1945, ông rời Hà Nội trở về Huế và
nhập học Trường Thanh niên Tiền tuyến do luật sư Phan Anh và Giáo sư Tạ
Quang Bửu lập ra, hiệu trưởng khi đó là ông Phan Tử Lang.
Một mặt
hình thức đây là tổ chức thuộc Bộ Thanh niên của Chính phủ Trần Trọng
Kim nhưng bên trong thực chất lại là hoạt động Việt Minh. Đặng Văn Việt
nằm trong nhóm 4 sinh viên Việt Minh từ Hà Nội trở về hoạt động bí mật
tại trường. Tổ trưởng khi đó là anh Lâm Kèn, anh Phan Hàm, anh Võ Quang
Hồ sau này đều là thiếu tướng quân đội cả.
Người mà Đặng Văn Việt
và Lâm Kèn khi đó thường gặp xin chỉ thị là đồng chí Hoàng Anh (nguyên
Bí thư Tỉnh ủy Thừa – Thiên Huế, sau này là Phó thủ tướng Chính phủ) và
đồng chí Trần Hữu Dực (nguyên Chủ tịch Uỷ ban Hành chính kháng chiến
Trung Bộ, sau này là Phó thủ tướng Chính phủ).
Chàng thanh niên
Đặng Văn Việt cùng bạn học đã được "Việt Minh hóa" với 43 sinh viên trở
thành 43 sĩ quan của Giải phóng quân Thừa Thiên – Huế sau này.
Đúng
thời điểm đó, cách mạng tháng 8 nổ ra, ngày 20-8-1945 Đặng Văn Việt
nhận được tin cử đến một địa điểm bí mật gặp đồng chí Trần Hữu Dực và
được trao nhiệm vụ treo cờ đỏ sao vàng trước Kỳ đài Ngọ Môn vào sáng
21-8.
Chàng thanh niên 25 tuổi hăng hái nhận nhiệm vụ rồi cuộn
tròn lá cờ vào bao tải đem về Trường. Cùng lúc đó, tổ chức huy động thêm
anh Nguyễn Thế Lương (tức Cao Pha, sau này là Thiếu tướng, Cục trưởng
Cục 2) cùng tham gia với Đặng Văn Việt.
Đồng chí Lâm Kèn tổ trưởng
giao cho Việt một khẩu súng lục để thị uy. Đồng thời yêu cầu Việt và
Nguyễn Thế Lương phải ăn mặc đồng phục chỉnh tề của Trường, đi giày da,
đội mũ ca nô sao cho oai phong lẫm liệt nhất.
Đặng Văn Việt trở lại nơi hào hùng mùa thu 1945 khi ông kéo cờ cách mạng trên Kỳ đài Huế.
Khi
đó, Kỳ đài Huế nằm cách Ngọ Môn khoảng 300m, trên khuôn viên 4 héc-ta,
xây 3 tầng cao 17,5m, chính giữa là cột bê tông 30m. Trên đỉnh cột cờ có
ròng rọc, dây kéo cờ to bằng cổ tay, phải 5-6 người mới kéo nổi. Có một
tiểu đội 12 người với súng trường canh gác kỳ đài. Ngoài ra là 120 lính
khố vàng trang bị súng, pháo và cả thần công để bảo vệ nhà vua.
Sáng
sớm 21-8, không khí mùa thu dịu mát, bầu trời cố đô Huế trong xanh cao
vợi, Đặng Văn Việt và Nguyễn Thế Lương cuộn lá cờ buộc chặt lại, gác lên
hai xe đạp rồi còng lưng đẩy xe đến chân Kỳ đài.
Việt dặn Lương
đợi ở xe để anh vào gặp thầy đội chỉ huy rồi nói: Theo lệnh của Ủy ban
Kháng chiến Trung Bộ, chúng tôi có nhiệm vụ treo cờ cách mạng lên thay
cờ quẻ ly. Các anh hãy giúp chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ.
Viên
thầy đội có phần nao núng, liền bảo 2 tên lính đến giúp Việt và Lương
đưa cờ lên. Thầy đội và 6 tên lính đứng dàn hàng ngang, Lương đứng ở đầu
hàng, Việt đứng ngoài rồi ra lệnh hạ cờ quẻ ly, kéo cờ Việt Minh lên…
Khi là cờ đỏ sao vàng vừa tung bay trước gió, đội cảnh vệ của vua Bảo
Đại đã chĩa súng từ xa về phía Đặng Văn Việt và Nguyễn Thế Lương.
Ông
Việt kể, khi ấy Bảo Đại đã định cho nổ súng nhưng Nam Phương hoàng hậu
ngăn lại, bà viện dẫn với nhà vua rằng, trong lịch sử cách mạng Pháp
1789, vua Louis 16 và Marie Antoinette vì cho lính bắn người cách mạng
mà cả hai bị chém đầu… Vua Bảo Đại nghe xong lập tức ra lệnh: "Chớ, không được bắn, các ngươi mà bắn thì trẫm chết trước đó". Bước chân vào binh nghiệp
Thành
công trong "trận đánh" treo cờ cách mạng trước 120 họng súng của nhà
vua đã mở ra một trang mới trong cuộc đời Đặng Văn Việt. Hai ngày sau,
23-8-1945, nhân dân đồng loạt đứng lên giành chính quyền tại Huế, vua
Bảo Đại thoái vị, chấm dứt triều đại phong kiến cuối cùng tại Việt Nam.
Ngày
1-9, đồng chí Trần Hữu Dực giao nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng cho Thanh niên Tiền tuyến Huế, sau 15 ngày, 25 phân đội Giải
phóng quân được thành lập.
Người lính già Đặng Văn Việt giờ bách
niên vẫn bồi hồi khi nhớ lại năm tháng ấy, khi chàng thanh niên 25 tuổi
chưa hề được học về quân sự nhưng có "năng khiếu" chỉ huy nên liên tục
được giao nhiệm vụ quan trọng.
Việt trở thành Trung đội trưởng
Trung đội 1, khi quân Pháp đổ bộ vào cửa Thuận An, Trung đội đã mưu kế
bắt gọn một quan ba và hai tên quan hai Pháp. Đến tháng 12-1945, 4 phân
đội vũ trang được điều sang mặt trận Đường 9 Trung Lào với Đặng Văn Việt
làm Chỉ huy trưởng.
Tại đây, Việt đã chỉ huy đánh địch tại trận
Mường Phìn, Pha Lan, Đồng Hến, ngăn bọn lính Pháp đánh vào miền Trung
nước ta. Sau đó Đặng Văn Việt tiếp tục làm Tham mưu trưởng Mặt trận
đường số 7 Thượng Lào…
Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt cùng cựu chiến binh Trung đoàn 174 trong ngày gặp mặt truyền thống
Mùa hè năm 1946, ông Hoàng Đạo Thúy, Hiệu trưởng Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn đã đưa Đặng Văn Việt về làm giảng viên khóa 1.
Cuối
năm 1947, Đặng Văn Việt về Bộ Tổng Tham mưu rồi được "biệt phái" lên
mặt trận đường số 4. Chàng trai trẻ hừng hực ngọn lửa cách mạng đến với
núi rừng biên giới Việt Bắc càng hun đúc thêm tinh thần giải phóng dân
tộc quật cường.
Một
sớm mùa thu ngày 19-8 tại xã Đức Long, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng,
Trung đoàn 174 Cao Bắc Lạng được thành lập trên cơ sở hợp nhất lực lượng
3 tiểu đoàn mạnh nhất của 3 trung đoàn thuộc 3 tỉnh gồm: Trung đoàn 74
(Cao Bằng), Trung đoàn 72 (Bắc Cạn), Trung đoàn 28 (Lạng Sơn).
Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 174 hầu hết là con em các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan... vùng rừng núi Cao-Bắc-Lạng.
Và
phiên hiệu 174 chính là con số cộng lại của 3 trung đoàn. Trung đoàn
trưởng đầu tiên Đặng Văn Việt, Chính ủy đầu tiên Chu Huy Mân (sau này là
Đại tướng, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước).
Người cựu trung đoàn trưởng đầu tiên ấy nheo đôi mắt đã gần một thế kỷ nhìn cuộc đời và kể rằng: "Tôi
tự hào vì Trung đoàn 174 và Trung đoàn 209 Sông Lô (Trung đoàn trưởng
Lê Trọng Tấn - sau này là Đại tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham
mưu trưởng) là 2 trung đoàn chủ lực, độc lập đầu tiên trực thuộc Bộ
Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam".
Và cũng từ đây, "hùm xám đường số 4" thực sự vẫy vùng.
(HNMO)
- Trong những ngày tháng Tám lịch sử này, may mắn tôi có cơ hội được
gặp một nhân chứng lịch sử - ông Đặng Văn Việt, một lão thành cách mạng,
lão tướng và là người đã tham gia sự kiện “Hạ cờ nhà Vua, giương cao cờ
đỏ sao vàng trên Kỳ đài Kinh đô Huế” (21-8-1945), chỉ 3 ngày trước khi
Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thành công ở Huế (23-8-1945).
Ông Đặng Văn Việt năm 38 tuổi (sau khi được phong quân hàm Trung tá, năm 1958).
Con nhà “danh gia vọng tộc”
Ở tuổi “xưa nay hiếm”, ông Đặng Văn Việt vẫn còn khoẻ mạnh và minh mẫn. Ở
tuổi 98, hàng ngày ông vẫn đi đi về về trên căn hộ tầng 4, khu tập thể
Bộ Xây dựng, phường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng (Hà Nội).
Tiếp tôi trong không gian nhỏ hẹp của căn hộ chỉ trên 16 m2, ông Việt
vẫn giữ phong thái của con nhà “quan”, khách đến nhà là phải rót rượu
mời. Ấn tượng hơn, sau sự kiện treo cờ 72 năm trước, hiện nay ông vẫn
viết sách, dịch tiếng Pháp, học tiếng Anh không cần kính lão.
Ông Việt chia sẻ, cả đời ông đã cống hiến cho sự nghiệp nhà binh, đánh
hàng trăm trận nhưng không phải để màng danh lợi. Ông chỉ mong góp sức
xây dựng đất nước mình ngày càng giàu đẹp. Ông bảo “Nếu cần đi xe hơi,
tôi được đi từ trong bụng mẹ rồi!”.
Ông Đặng Văn Việt sinh tại Nghệ An, trong gia đình nhà nho họ Đặng. Vì
sinh ra trong một gia đình nhà Nho, nên ông được gia đình cho ăn học đến
nơi, đến chốn. Sau khi đậu Tú tài (trung học ở Huế), ông ra Hà Nội học
ngành Y khoa. Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp, Trường Đại học Y khoa
Đông Dương đóng cửa, chàng trai Đặng Văn Việt cùng 42 sinh viên miền
Trung phải quay về quê.
Biết Nhật sẽ đảo chính Pháp nên luật sư Phan Anh (một trong 16 thành
viên nội các của Chính phủ Trần Trọng Kim) và GS Tạ Quang Bửu (cố vấn
đặc vụ ủy viên Bộ Thanh niên) chớp thời cơ thành lập Trường Thanh niên
tiền tuyến Huế thu hút ngay số sinh viên miền Trung này.
GS Tạ Quang Bửu vốn là thầy giáo cũ đã viết thư khuyên Đặng Văn Việt và
bạn học gia nhập trường. Thực chất đây là trường võ bị nhằm “Việt Minh
hóa” 43 trí thức trẻ từ Trường đại học Y khoa Đông Dương thành “sinh
viên Việt Minh” có trình độ quân sự nhất định.
Sáng 20-8-1945, ông Đặng Văn Việt nhận tin mật “mời đến một địa điểm gần
Nam Giao gặp đồng chí Trần Hữu Dực”. Khi gặp, ông Dực giao cho Đặng Văn
Việt một lá cờ Tổ quốc “to gần bằng cả gian nhà”, nói: “Tôi giao cho
đồng chí lá cờ đỏ sao vàng. Đồng chí có nhiệm vụ treo lên cột cờ lớn
trước cửa Ngọ Môn vào sáng 21-8”.
Thời khắc lịch sử
Bằng chất giọng trầm nhưng sắc gọn, ông Đặng Văn Việt kể về sự kiện “Hạ
cờ nhà vua, giương cao cờ đỏ sao vàng trên Kỳ đài Kinh đô Huế”, thực
chất là một trận đánh nhỏ, không kèn, không trống, không một tiếng
súng... nhưng hiệu quả đạt được rất to lớn. Theo lời ông Việt, thì tuy
trận đánh diễn ra trong yên ả như vậy, nhưng cũng không hề dễ dàng.
Diễn
viên đóng vai “sinh viên Việt Minh” Đặng Văn Việt chuẩn bị kéo cờ lên
Kỳ đài Huế (21-8-1945) -cảnh một bộ phim tài liệu của Đài Truyền hình
VN.
Sau khi nhận lá cờ từ đồng chí Trần Hữu Dực, ông hiểu rằng đây là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng. Quay về trường, ông ngẫm nghĩ “mình phải
làm thế nào để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng này”. Ông được anh Lâm
Kèn (tổ trưởng tổ Việt Minh gồm 5 sinh viên nòng cốt) huy động thêm
Nguyễn Thế Lương (sau này là Thiếu tướng Cao Pha, Cục trưởng Cục 2 - Bộ
Quốc phòng) cùng đi treo cờ.
Tổ Việt Minh cho hai người mượn khẩu súng Barillet với 6 viên đạn để tăng uy thế trước phản ứng của lính cận vệ hoàng gia.
Rạng sáng 21-8-1945, Đặng Văn Việt và Cao Pha “đóng” bộ ghệt bóng lộn.
Đầu đội mũ calô, chân đi giày da. Khẩu Barillet đeo sệ bên hông. Lúc đó
lá cờ đã được cuộn dài như “con trăn” gác lên hai xe đạp. Hai người kỳ
cạch đẩy xe đi khoảng 2km thì đến chân cột cờ Huế.
“Anh Cao Pha dừng lại bảo vệ lá cờ, còn tôi băng lên gặp thầy đội chỉ
huy đội bảo vệ cờ của triều đình gồm 12 lính dõng với 12 khẩu Mútcơtông
thông báo: “Theo lệnh của Ủy ban kháng chiến Trung bộ, chúng tôi có
nhiệm vụ treo cờ cách mạng thay cờ quẻ ly. Các ông giúp chúng tôi thực
thi nhiệm vụ”.
Trước áp lực và khí thế cách mạng, thầy đội gọi tôi bằng “ngài” và nói: “Dạ các ngài cứ ra lệnh”” - ông Việt nhớ lại.
“9h ngày hôm đó, 6 lính dõng vạm vỡ giúp hạ cờ quẻ ly để chúng tôi thay
bằng cờ đỏ sao vàng. Thay xong, 6 lính pháo đùng và thầy đội xếp hàng
ngang. Anh Cao Pha đứng hàng trước. Tôi đứng ngoài hô: Kéo cờ... Chào!
Lính pháo đùng bồng súng, còn chúng tôi đưa tay chào kiểu nhà binh. Lá
cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc từ từ được kéo lên cao theo hệ thống dây
thừng ròng rọc to bằng cổ tay. Nhìn theo lá cờ tung bay, lòng tôi rạo
rực, máu trong tim như sôi bừng lên vì phấn khích, tự hào.
Ông Việt còn nhớ như in, lá cờ treo lên Kỳ đài ở Huế rộng 120 m2, nó
được nhanh chóng kéo kên đỉnh Kỳ đài thay thế cho cờ nhà vua. Cột cờ
nặng trên 100 tấn, cao 50m, đứng xa 40 km còn trông thấy chấm đỏ của màu
cờ. Bóng cờ làm rợp cả một góc thành đô, gây một chấn động lớn trong và
ngoài nước. Ông cũng nhớ thời điểm đó, khi ông đang hạ cờ - treo cờ,
bỗng xuất hiện 2 chiếc thuỷ phi cơ của Mỹ từ hạm đội 7 bay vào, lượn vài
vòng rồi quay ra biển. Ông cho rằng, chính vì vậy mà tin Việt Minh đã
làm chủ Kinh đô Huế đã được Lầu năm góc biết rất nhanh. Ngay lập tức,
ngày 22-8-1945, Tổng thống Mỹ Truman đang họp bàn cùng Tổng thống Pháp
Đờ - Gôn đã hạ bút ký ngay một Hiệp định: “Mỹ và Pháp bắt đầu cuộc hợp
tác tương trợ trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương”. Sau đó, Vua Bảo Đại
hốt hoảng triệu tập toàn thể Hoàng gia và các quan Đại thần để họp bàn,
định ra kế sách: “Với Việt Minh, hoà hay chiến? Tiến hay lùi? – Trước
khí thế và lực lượng Việt Minh đang tràn ngập đất nước?”. Các lực lượng
chống đối liền ngấm ngầm chuẩn bị những đòn phản kích: 500 tù nhân người
Pháp đang bị quân Nhật giam giữ ở trường Providence Huế chuận bị phá
hàng rào, chỉ cần một đêm là chúng có thể trở lại chiếm các nhiệm sở của
chế độ thực dân ở Kinh thành Huế.
Chính phủ Đờ - Gôn cho thả dù một tổ biệt kích (gồm 6 người do Quan tư
Castella chỉ huy) nhảy dù xuống Hiền Sỹ, phía Bắc cách Huế 25 km, giả
danh là phái bộ của Đồng minh, để liên lạc với Bảo Đại, Phạm Quỳnh, Ngô
Đình Khôi và các lực lượng chống đối khác, nhằm ngăn chặn chủ trương
thoái vị của nhà vua và phục hồi sự thống trị của Pháp ở miền Trung,
nhưng họ chưa kịp hành động đã bị lực lượng Thanh niên Tiền tuyến Huế
tiêu diệt, bắt gọn. Còn nhân dân Kinh đô Huế và các vùng lân cận thì vô
cùng phấn khởi, họ truyền tai nhau tin: “Cờ đỏ sao vàng! Cách mạng đã
về! Độc lập – Tự do đã đến với nhân dân ta!”.
Tiếp theo, 3 ngày sau đó (23-8-1945), Cách mạng Tháng Tám nổ ra ở Kinh
đô Huế. Hàng chục vạn người dân đổ về, mít tinh rầm rộ như những dòng
thác lũ. Chính quyền đã về tay nhân dân!
Rồi ông kể tiếp: “Ngày 23-8-1945, sau ba ngày treo cờ, khi tôi đang đứng
trên cửa Ngọ Môn dự lễ vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trao ấn tín,
kiếm báu cho chính quyền cách mạng thì một thầy đội nói thầm vừa đủ tôi
nghe: Hôm hai ông chở cờ đến, tôi được lệnh triển khai một đại đội cảnh
vệ hoàng gia nằm dọc theo thành của cửa Ngọ Môn.
120 mũi súng đã chĩa thẳng vào hai ông. Tôi xin phép nhà vua cho bóp cò,
nhưng cả nhà vua và hoàng hậu Nam Phương đều không đồng ý. Chính vì vậy
mà tôi còn sống đến ngày hôm nay”.
Thắng lợi của trận đánh này có vai trò lịch sử rất quan trọng, góp phần
giúp cho cuộc Cách mạng của Việt Minh thắng lợi. Đó là việc buộc nhà Vua
Bảo Đại phải rời bỏ ngai vàng, tạo tiền đề cho một chế độ chính trị
mới, tiến bộ hơn được xác lập ngay tại Kinh đô Huế. Sự kiện này là một
điểm sáng chói trong Cách mạng Tháng Tám – cuộc cách mạng đã làm cho
triều đình phong kiến nhà Nguyễn tồn tại 13 đời Vua, 143 năm trị vì đất
nước bỗng chốc sụp đổ. Nó cũng chính là mốc son chấm dứt chế độ phong
kiến đã tồn tại hơn 1.000 năm ở Việt Nam.
Trận đánh nhỏ chiếm Kỳ đài còn có ý nghĩa là trận đánh thắng đầu tiên mở
màn cho trận đánh lớn trường kỳ 30 năm của cuộc kháng chiến giải phóng
dân tộc.
Minh Quyên
Chuyện cảm động ghi ở Bệnh viện Hữu nghị: 4 vị tướng cúi đầu bên giường một vị trung tá
Hoàng Trường Giang lược ghi |
96
Các tướng lĩnh quân đội đến thăm Thủ trưởng Đặng Văn Việt. Ảnh: Trường Giang.
Vị trung tướng già chậm rãi đi tới, đôi tay trận mạc gân guốc
sẫm đồi mồi khẽ nắm lấy tay vị trung tá trên giường bệnh: "Anh Việt ơi,
em là lính của anh đến thăm anh đây".
Kỳ 1: Chuyện ghi ở bệnh viện Hà Nội một
ngày tháng 11 tiết trời trở lạnh, khu điều trị tích cực Bệnh viện Hữu
nghị Việt – Xô nằm trên tầng 8 im ắng đến đáng sợ. Từ cửa thang máy đi
ra bốn vị tướng quân đội, dẫn đầu là một người đàn ông rất lớn tuổi
trong bộ quân phục bạc màu, đôi cầu vai đeo quân hàm trung tướng. Thủ trưởng của trung tướng
Vừa bước đi, vị trung tướng già dẫn đoàn vừa hỏi cô y tá:
- Cháu cho hỏi ông Việt lão thành cách mạng nằm ở phòng nào ? - Dạ ông ấy nằm ở phòng 810 ạ, ông là thế nào với ông ấy ạ ? - Ông là cấp dưới của ông ấy!
Tác giả bài viết cùng người sĩ quan được mệnh danh là "Hùm xám đường số 4".
Người
đàn ông lớn tuổi trả lời nhanh gọn dứt khoát. Cô y tá tròn mắt, ngỡ
ngàng ngước lên nhìn thật kỹ vị tướng đã chạm 94 tuổi đang thoăn thoắt
đi lại phía cửa phòng 810.
... Bên chiếc giường phủ tấm ra trắng toát, một ông lão gầy guộc đang nằm lim dim ngủ.
Vị
trung tướng già chậm rãi đi tới, đôi tay trận mạc to bè gân guốc sẫm
đồi mồi khẽ đưa ra nắm lấy tay người đang nằm rồi cất giọng gọi: - Anh Việt ơi, em là lính của anh đến thăm anh đây.
Ông lão suýt soát 100 tuổi đang nằm trên giường bệnh khẽ trở mình, mở đôi mắt già nua mờ đục ra nhìn hồi lâu rồi nói: - Ai đấy ? Ai đấy ?
Một vị trung tướng khác trẻ hơn đứng bên cạnh trung tướng già vội cắt lời: -
Cháu Nguyễn Mạnh Đẩu ở Lục quân đây ạ. Đây là Trung tướng Nguyễn Quốc
Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu 4. Bên này là Thiếu tướng Tạ Quang Chính -
con trai Bộ trưởng Tạ Quang Bửu; Bên này nữa là Thiếu tướng Hồ Thủy -
con gái anh Hồ Sỹ Ngận.
Trên giường bệnh, ông lão vừa dứt
cơn ho, đưa tay ra nắm chặt tay vị trung tướng rồi khẽ mỉm cười. Ông
không nói thành lời nhưng đôi môi run run, những tiếng thở cứ dồn dập
thành đợt...
Vị trung tướng già tiếp tục nói: - Anh
Đặng Văn Việt ơi, hổ xám đường số 4 ơi, em Quốc Thước, lính của anh đây.
Ngày nào anh làm trung đoàn trưởng, em mới còn là trung đội trưởng, thế
mà giờ đã trăm tuổi cả rồi anh ơi...
Nói đoạn, ông đưa gói
quà nhỏ đã chuẩn bị kỹ từ nhà cho người đang nằm trên giường bệnh. Căn
phòng đầy chật nghĩa tình, những bệnh nhân già khác đang nằm đều ngẩng
lên dõi theo câu chuyện, mấy cô y tá và anh bác sĩ trẻ ngơ ngẩn nghe...
Bốn vị tướng và một đứng vây quanh giường bệnh. Ông lão nằm
trên giường dứt tiếng thở khò khè định nói gì đó mà không được. Ánh mắt
ông tươi vui hơn hẳn ngày thường...
Vị trung tướng già cười rạng rỡ, nắm chặt tay người thủ trưởng rồi nói: -
Anh mau khỏe, hôm nào anh về bọn em qua thăm, uống rượu, kể chuyện
Đường số 4, chuyện kéo cờ ở Kỳ đài Huế... Rồi anh còn đi đánh tenis, đi
xe máy, khiêu vũ nữa chứ...
Ông lão nằm trên giường bệnh gật đầu nhẹ, khẽ mỉm cười.
Cô y tá trẻ quay sang hỏi tôi: - Anh ơi, ông cụ chắc phải là thượng tướng, đại tướng đấy nhỉ?
Tôi nhìn cô một lát rồi trả lời: - Không em ạ. Ông ấy cả đời chỉ đeo quân hàm trung tá. Nhưng ông ấy là một huyền thoại!
Cô y tá ngơ ngác hồi lâu rồi bất chợt đưa tay lên lau vội giọt nước mắt vừa lăn xuống má... “Hổ xám” giữa đời thường
Mùa
hè 7 năm trước, một người hàng xóm gần nhà tôi là Đại tá Nguyễn Ngọc
Diễn 85 tuổi, thành viên Ban Liên lạc của Trung đoàn 174 Cao Bắc Lạng
(thuộc Sư đoàn 316,Quân khu 2) đã mời tôi đến dự cuộc gặp mặt truyền
thống của đơn vị.
Ông Diễn nói: “Cháu cứ đến đi, cháu sẽ gặp nhiều
cựu chiến binh lừng lẫy, nhiều tướng lĩnh oai hùng và cháu sẽ gặp một
người rất đặc biệt”.
… Sáng hôm ấy trời mưa rả rích, tại hội
trường Nhà văn hóa quận Cầu Giấy, tôi khá bất ngờ khi thấy rất nhiều cựu
chiến binh đại tá và cả cấp tướng chủ động len qua các hàng ghế để tiến
đến chào, bắt tay hỏi han một trung tá…
Đến phần trao kỷ niệm
chương, mừng thọ các cựu chiến binh của Trung đoàn, tôi lại thấy “trung
tá già” lên gắn hoa cho các cựu chiến binh cấp bậc cao hơn rất nhiều.
Người
đầu tiên tôi nhận ra trong buổi gặp mặt đó là Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân La Văn Cầu, có lẽ vì ông quá nổi tiếng qua sách vở, báo
đài. Nhưng khi nói chuyện, Anh hùng La Văn Cầu lại kể cho tôi nghe về
“trung tá già” – Trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn 174, người
được thực dân Pháp khiếp sợ gọi tên “Hùm xám đường số 4”.
Một trong những Trung đoàn trưởng bộ binh chủ lực đầu tiên - Đặng Văn Việt.
Đặng
Văn Việt sinh tháng 3-1920, là con của quan Tham tri Đặng Văn Hướng
dưới triều đình Bảo Đại, Tổng đốc Nghệ An trong Chính phủ Trần Trọng
Kim và Bộ trưởng Không Bộ phụ trách Thanh – Nghệ - Tĩnh trong Chính phủ
Liên hiệp Hồ Chí Minh.
Thuở thanh niên, Đặng Văn Việt là sinh
viên ngành Đại học Y Đông Dương danh giá, một tay chơi tenis, đua xe
đạp, đá bóng có tiếng từ những năm 1940… Đẹp trai, tài hoa và con nhà
quyền thế nhưng ông quyết định bỏ lại tất cả để đi theo cách mạng.
Ngày
21-8-1945, ở tuổi 25, chàng thanh niên Đặng Văn Việt cùng với người bạn
Nguyễn Thế Lương (sau này là Thiếu tướng Cao Pha) nhận nhiệm vụ treo cờ
cách mạng trên Kỳ đài Ngọ Môn Huế trước 120 họng súng của triều đình
nhà Nguyễn.
Năm 1947, ở tuổi 27 tuổi, Đặng Văn Việt là một
trong 2 trung đoàn trưởng bộ binh chủ lực đầu tiên của quân đội nhân dân
Việt Nam – Trung đoàn 174 Cao Bắc Lạng (1947) cùng với Lê Trọng Tấn,
Trung đoàn trưởng 209 Sông Lô - người sau này lên Đại tướng.
Ông
là người chỉ huy lừng lẫy tham gia các trận đánh Bông Lau – Lũng Phầy
(1949), trận Đông Khê - Biên giới 1950, trận Bình Liêu, trận Mộc Châu
1952...
Trung đoàn trưởng đi qua trăm trận đánh, bắt sống nhiều
chỉ huy Pháp, mang trên mình 5 vết thương và oai hùng đến nỗi thực dân
Pháp gọi ông là Hùm xám đường số 4…
Trung tá Đặng Văn Việt cũng cựu chiến binh Trung đoàn 174 đến chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Mùa
đông năm 1952, ở 33 tuổi ông chỉ huy Trung đoàn 174 công đồn Châu Mộc,
mở đường vào Tây Bắc… Trước đó, từ năm 1946, ông Hoàng Đạo Thúy Hiệu
trưởng Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn đã đưa Đặng Văn Việt về làm giảng
viên khóa 1.
Năm 1960, ông chuyển ngành, rồi làm Phó cục trưởng, Cục trưởng Cục Xây dựng cơ bản, Cục trưởng Cục Thủy sản…
Nhiều
năm cuối đời, ông ở trong 1 căn phòng tập thể chưa đầy 32m2 được ngăn
thành 2 nửa cho vợ chồng người con trai ở một bên.
Sau buổi gặp
hôm ấy, tôi thường đến căn phòng tập thể 401 cũ kỹ, ẩm thấp ở Ngõ 7 Hòa
Bình, phố Minh Khai, quận Hai Bà Trưng để thăm và “chơi” với ông Việt.
Người “bạn vong niên” U100 đã kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện lịch sử
hào hùng và cả những trang đời rất đẹp.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét