BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 160/2 (Giucốp)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hồi Ký, Tuỳ Bút
Georgy Zhukov – Một Nguyên soái kiệt xuất, Một Số phận bi hùng | Tập 1
Việt Nam Thư Quán - Thư viện Online
Hồi Ký, Tuỳ Bút
NHỚ LẠI VÀ SUY NGHĨ
Zhukov
Về tác giả
Georgi Konstantinovich Zhukov(1896-1974)
TRONG
lịch sử chiến tranh thế giới, hiếm có vị tướng nào chưa bao giờ nếm mùi
thất bại, chỉ biết có chiến thắng, hết trận này đến trận khác. Trong
rất nhiều tướng lĩnh nổi danh trong Thế chiến thứ hai, G.K. Zhukov được
xếp đầu bảng về số lượng trận thắng nhiều và quy mô lớn, chiếm bảng vàng
về tài năng chỉ đạo chiến dịch,chiến lược. Những chiến tích sáng chói
của ông trở thành tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hoá nhân
loại. Nó không những có ảnh hưởng lớn về lý luận quân sự của Liên Xô mà
cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của lý luận quân sự thế
giới.
Georgi Konstantinovich Zhukov
(tiếng Nga: Георгий Константинович Жуков) sinh ngày 1-12-1896 trong một
gia đình nghèo tại làng Strenkovka, tỉnh Kluga, con ông Konstantin
Zhukov và bà Uxtina Zhukova. Tuổi nhỏ sống rất cực khổ, nhưng học rất
giỏi. Năm 12 tuổi, lên Moscow làm thợ học việc trong một cửa hàng đồ da.
Năm 1915, ông nhập ngũ, phục vụ trong một đơn vị kỵ binh Sa hoàng, tham
gia Thế chiến thứ nhất, và 2 lần được tặng Huân chương Thánh George vì
lòng dũng cảm. Sau Cách mạng tháng Mười
Nga, Zhukov gia nhập Hồng quân và trở thành một sĩ quan kỵ binh ưu tú.
Ông chỉ huy đơn vị nghiêm minh, quản lý đúng phương pháp, đơn vị ông phụ
trách bao giờ cũng là đơn vị tiên tiến, lập nhiều công tích xuất sắc
trong thời kỳ nội chiến Nga. Năm 27 tuổi, ông giữ chức trung đoàn
trưởng; đến năm 42 tuổi, đã là phó Tư lệnh đại quân khu Bélorusia. Tháng
5-1939, quân Nhật khiêu khích vũ trang tại vùng Khangin Khon (Mông Cổ).
Zhukov được cử giữ chức vụ Tư lệnh chiến trường. Trong chiến dịch này,
Zhukov đã sử dụng lực lượng xe tăng, cơ giới, máy bay và hỏa pháo mạnh
để phản kích quân Nhật một cách kiên quyết; mạnh dạn đánh chia cắt và
bao vây tập đoàn trang bị nặng của Nhật, gây cho tổn thất nặng nề cho
quân Nhật. Qua đó, lần đầu tiên Zhukov thể hiện được tài năng về mặt chỉ
huy và hiệp đồng tác chiến, gây sự chú ý của vị thống soái Stalin. Năm
1940, ông được phong hàm Đại tướng, giữ chức Tư lệnh đại quân khu Kiev.
Đến đầu năm 1941, ông giữ chức Tổng tham mưu trưởng Hồng quân Liên Xô.Có
thể nói Zhukov đã hội đủ mọi tố chất để trở thành một vị tướng tài ba:
Giỏi quan sát và phán đoán địch tình; dự kiến tình huống phát triển một
cách chính xác; biết xử trí linh hoạt, ứng phó hữu hiệu với sự thay đổi
của tình hình; điều chỉnh bố trí binh lực một cách hợp lý, luôn giáng
cho địch những đòn đích đáng. Ông bao giờ cũng chọn đúng điểm đột phá
khẩu, biết sử dụng binh đoàn xe tăng, chia cắt và đánh vu hồi, nhanh
chóng đập tan tập đoàn địch. Zhukov còn là một nhà chiến thuật tài năng,
hiểu rõ tầm quan trọng của yếu tố địa hình và khí hậu. Trước khi nổ ra
chiến dịch, bao giờ ông cũng tiến hành đo đạc địa hình, tính toán cân
nhắc cẩn thận, so sánh lực lượng giữa hai bên, dựa vào sức mạnh của các
quân binh chủng, nhằm bảo đảm về các mặt hàng không, pháo, công trình và
thông tin. Ông không bao giờ chấp nhận một cuộc giao tranh không nắm
chắc phần thắng.Với nhận xét tinh tường,
Zhukov đã nhận định rằng chiến tranh Xô-Đức là rất không thể tránh
khỏi, nên về mặt xây dựng quân đội, ông đã đề xuất thành lập các đơn vị
xe bọc thép độc lập để đáp ứng nhu cầu của chiến tranh. Tuy nhiên ý kiến
đúng đắn của ông đã không được giới lãnh đạo Liên Xô coi trọng. Điều
này chỉ được chứng thực vào tháng 6-1941, khi chiến tranh Xô-Đức nổ ra,
thực tế chiến trường đã xác minh hầu hết các luận điểm của ông.Nhận
ra được sai lầm của mình, Stalin thận trọng sử dụng Zhukov vào cương vị
Phó Tổng tư lệnh Tối cao, sau đó tin cậy giao trách nhiệm cho Zhukov
trên những mặt trận nóng bỏng nhất. Đến lúc này, tài năng của Zhukov
được bộc lộ qua hàng loạt chiến dịch lớn. Bất cứ chiến trường nào đang
gặp nguy hiểm, khi Zhukov đến chỉ huy, tình thế lập tức thay đổi. Báo
chí phương Tây gọi ông với biệt danh “Fireman” – “lính cứu hỏa thiện
nghệ”, nhân dân Liên Xô gọi ông với cái tên “vị Nguyên soái của Chiến
thắng” (Zhukov được phong hàm Nguyên soái Liên Xô năm 1943, và là vị
Nguyên soái Liên Xô đầu tiên được phong trong Thế chiến thứ hai). Hàng
loạt chiến dịch lớn chấn động địa cầu trên mặt trận phía Đông như
Léningrad, Moscow, Stalingrad, Kursk, Berlin... đều có dấu ấn của
Zhukov. Hàng loạt danh tướng nước Đức như Von Leeb, Von Bock, Von
Paulus, Von Kluge, Von Manstein, Von Keitel... phải chấp nhận thất bại
trước Zhukov. Có thể nói, Zhukov là khắc tinh của quân đội Đức, một đội
quân hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ. Chính Zhukov là thay mặt Hồng
quân Liên Xô tiếp nhận sự đầu hàng của nước Đức.Sau
chiến tranh, uy tín của Zhukov được cả thế giới khẳng định. Chính
Zhukov là người đại điện cho Stalin duyệt binh mừng chiến thắng. Tuy
nhiên, ông là một vị tướng của chiến trường, không phải là một nhà chính
trị. Sau khi Stalin mất, ông được bổ nhiệm là Thứ trưởng Bộ quốc phòng,
phụ trách nghiên cứu tác dụng của vũ khí hạt nhân trong chiến tranh
hiện đại. Từ 1955-1957, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Sau khi bị
thất sủng, ông tập trung viết quyển hồi ký “Nhớ lại và suy nghĩ”
(nguyên tác tiếng Nga: "Воспоминания и размышления", tiếng Anh: "Memories and thoughts") nổi tiếng. Quyển hồi ký này đã được xuất bản vào năm 1969. Ông qua đời năm 1974, thọ 78 tuổi. Các danh hiệu của G.K. Zhukov- 4 lần phong tặng Anh hùng Liên Xô (1939, 1944, 1945, 1956), - 2 Huân chương Chiến thắng, (1944, 1945)- 2 Huân chương Suvorov hạng I- Huân chương Vẻ vang của Hoa Kỳ- Huân chương Barna hạng I của Anh quốc.và nhiều huân huy chương, danh hiệu khác...
Thái Nhi
Mục Lục: NHỚ LẠI VÀ SUY NGHĨ
- Về tác giả
- Thay lời tựa
- Chương 1
- Chương 2
- Chương 3
- Chương 4
- Chương 5
- Chương 6
- Chương 7
- Chương 8
- Chương 9
- Chương 10
- Chương 11
- Chương 12
- Chương 13
- Chương 14
- Chương 15
- Chương 16
- Chương 17
- Chương 18
- Chương 19
- Chương 20
- Chương 21
- Kết luận
- Phụ lục
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tổng chỉ huy quân đội Liên Xô chưa từng nếm mùi thất bại
Thứ Tư, ngày 01/02/2017 15:00 PM (GMT+7)
Sự kiện:
Bí ẩn lịch sử thế giớiNguyên soái đầu tiên trong Thế chiến II của Liên Xô được xem là người bất khả chiến bại, đã xuất quân là chiến thắng.
Nguyên soái Georgi Zhukov, tại một Hội nghị quân sự ở Moscow năm 1942.
Nhờ có kiến thức từ các khóa huấn luyện quân sự, Zhukov nhanh chóng tiến xa trên con đường binh nghiệp. Thế chiến I và cuộc Nội chiến ở Liên Xô giúp ông có thêm nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý giá. Tháng 7.1939, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy Tập đoàn quân số 1 của quân Liên Xô tại Mông Cổ. Giáo sư, tiến sĩ khoa học Yuri Rubstov từ đại học tổng hợp quân sự thuộc Bộ Quốc phòng Nga nhận xét: “Đây là lần đầu tiên Zhukov thể hiện năng lực thống lĩnh quân sự vượt trội của mình”.
Zhukov năm 1916.
Phong cách chỉ huy của Zhukov rất nghiêm minh, khoa học nên đơn vị
ông phụ trách luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời kì Nội chiến
Nga. Năm 42 tuổi ông đã là phó Tư lệnh đại đoàn quân khu Belorusia.Tháng 5.1939, Nhật khiêu khích Liên Xô ở vùng Khangin Gol (Mông Cổ). Ngay lập tức, Zhukov dùng lực lượng xe tăng, cơ giới, máy bay, hỏa pháo tấn công quân Nhật không khoan nhượng. Kết quả, Nhật bị tổn thất nặng nề và Zhukov khiến thống soái Stalin để mắt vì tài năng hợp đồng binh chủng như thần của mình. Năm 1940, ông được phong làm đại tướng và giữ chức Tư lệnh đại quân khu Kiev. Zhukov hội đủ tố chất để trở thành vị tướng tài ba: giỏi quan sát, phán đoán tình hình; dự đoán thế trận chuẩn xác; xử trí nhanh gọn, linh hoạt; luôn tấn công và đáp trả một cách thích đáng. Chiến tranh Xô-Đức
Sau chiến dịch Khalkhin Gol, Zhukov được phong quân hàm Đại tướng.
Ngày 22.6.1941, Đức quốc xã bất ngờ tấn công Liên Xô. Ngay lập tức,
Zhukov có mặt ở phương diện quân Tây Nam theo lệnh của Stalin để nghênh
đón địch. Stalin yêu cầu quân tấn công ngay nhưng Zhukov từ chối do chưa
nắm rõ tình hình quân địch. Sau đó, Stalin vẫn bất chấp, chỉ huy quân
tiến công và thất bại liên tiếp ở các phương diện quân Tây, Tây Bắc, Tây
Nam và Nam. Nguyên nhân được cho là bởi thiếu không quân yểm trợ và hậu
cần tiếp nhiên liệu sơ hở.Trong vai trò là Tổng tư lệnh tối cao phương diện quân Tây Nam, tướng Zhukov cố gắng “gỡ gạc” tình hình bằng cách chỉ đạo tác chiến hiệu quả và thiết lập phòng thủ nhiều lớp nhằm ngăn chặn Cụm Tập đoàn quân Nam của Đức trong hoàn cảnh phương diện quân Tây và Tây Bắc của Nga thất bại thảm hại. Zhukov nhìn lại thế trận và dự đoán rằng quân Đức sẽ tấn công vào phương diện quân trung tâm. Ông đề xuất rút quân khỏi Kiev và tăng cường quân cho phương diện quân trung tâm. Stalin gọi ý kiến này của Zhukov là “hồ đồ”. Đại tướng Zhukov cho rằng Stalin không coi trọng quyết định của người nhiều năm mưu lược nên xin rút xuống làm chỉ huy các đơn vị chiến đấu, từ bỏ chức Tổng tham mưu trưởng. Zhukov rút về làm tư lệnh phương diện quân dự bị, chỉ huy phản kích vào Yelnya và xóa bỏ một bàn đạp quan trọng của Đức ở cửa ngõ Moscow. Đáng chú ý, 50.000 quân Đức bị tiêu diệt, trong đó có cả sư đoàn Đại Đức của đảng Đức quốc xã. Dù không trực tiếp chỉ huy mặt trận khác nhưng Zhukov vẫn nghiên cứu tình hình quân Đức. Ông dự báo quân Đức tấn công phương diện quân Tây Nam nhưng Stalin đưa ra quyết định quá muộn và sự kém cỏi của các tướng lĩnh phụ trách đơn vị này nên quân Liên Xô tiếp tục nếm mùi thất bại đau đớn. Thế trận ở Leningrad
Đại tướng Zhukov khi giữ nhiệm vụ Tư lệnh Phương diện quân Tây.
Ngày 14.9.1941, Zhukov được giao chỉ huy phương diện quân Leningrad
trong tình thế quân Đức vây chặt, cố chiếm lấy thành trì này. Ông củng
cố phòng tuyến, ngăn chặn và đánh bại nhiều đợt tấn công của Đức. Ông ra
lệnh bố trí trận địa pháo dày đặc vào các hướng tấn công chính và rải
mìn ở khu vực nguy cơ cao, đồng thời bố trí hệ thống phòng không đề
phòng Đức nhảy dù. Ông đích thân chỉ huy lực lượng 50.000 quân đánh vào
mũi tấn công vươn xa nhất của Đức ở Leningrad và tiêu diệt được phân nửa
sinh lực địch ở đây.Zhukov nhận định rằng sau khi Hitler giành chiến thắng ở Kiev, chắc chắn phát xít Đức sẽ dồn quân vào Moscow nhằm kết thúc chiến tranh. Ngay lập tức, tập đoàn quân thiết giáp khu vực Leningrad được dồn tới chiến trường Moscow yểm trợ. Mặt trận Moscow
Nguyên soái Zhukov kiểm tra xe tăng Tiger-I của Đức Quốc xã bị bắt giữ trong Chiến dịch Kursk, tháng 8.1943.
Ngày 15.11, Đức tấn công Moscow và tình hình rất nguy cấp khi quân
Đức chỉ còn cách thủ đô 20km. Dưới áp lực nặng nề, Zhukov nhận ra do tập
trung đánh hai cánh nên 6 quân đoàn Đức bố trí ở chính diện không làm
gì. Do đó, ông đề xuất rút bớt quân ở lực lượng trung tâm và tăng cường
cho hai cánh, “để dành” lực lượng dự bị cho đợt phản công tháng 12.Nhờ dự liệu hết các phương án tấn công của quân Đức và cả việc chúng không nhận ra sai lầm trong việc dồn quân vào hai cánh, Liên Xô đã đứng vững trước các cuộc tấn công dồn dập. Đầu tháng 12, Zhukov quyết định cực kỳ táo bạo: đưa 3 phương diện quân phản công ở khu vực Moscow dù lực lượng thua xa quân Đức (1,1 triệu người so với 1,7 triệu). Khả năng dụng binh của Zhukov giúp Liên Xô tiêu diệt 581.000 lính Đức và đánh bật kẻ thù khỏi Moscow. Vì trận này mà kế hoạch Barbarossa của Đức quốc xã phá sản hoàn toàn và được xem là trận đánh lớn đầu tiên quân Đức thua ở Thế chiến II. Trận vòng cung Kursk
Zhukov ký vào biên bản chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của nước Đức Quốc xã ngày 9.5.1945.
Ngày 17.3.1943, Zhukov chỉ đạo tác chiến ở phía nam Kursk để đối phó
kế hoạch phản công màu xuân của Cụm tập đoàn quân sông Đông của Đức do
thống chế tài ba Erich von Manstein chỉ huy. Zhukov nhận định rằng quân
Đức sẽ cố gắng cắt đứt “chỗ lồi Kursk”. Sau khi Zhukov đưa ra dự báo một
tuần, Hitler thực hiện đúng những gì Zhukov dự tính.Nhờ Zhukov dự liệu từ trước tình hình nên quân Liên Xô có nhiều thời gian chuẩn bị thế trận phòng thủ và xây dựng thêm một phương diện quân Thảo Nguyên làm dự bị. Quân Liên Xô đã chặn đứng thành công “Kế hoạch thành trì” của Hitler, đánh bại các binh đoàn xe tăng của các thống chế Günther von Kluge và Erich von Manstein hùng mạnh hơn nhiều so với các binh đoàn xe tăng Đức trong chiến dịch Barbarossa. Chiến dịch Berlin
Thống chế
Bernard Law Montgomery và Nguyên soái G. K. Zhukov cùng các tướng lĩnh
Anh và Liên Xô sau Lễ trao tặng Huân chương Hiệp sĩ Bath của Vương quốc
Anh tại cổng Bradenburg (Đức) ngày 12.7.1945.
Đầu tháng 3.1945, Stalin cho rằng với thế trận tan rã của quân Đức
quốc xã, Liên Xô có thể nhanh chóng giải quyết tình hình. Tuy nhiên,
Nguyên soái Zhukov không nghĩ mọi việc đơn giản tới vậy. Ông nói rằng
chiếm Berlin không khó, nhưng phức tạp ở chỗ đây là thành phố rộng và
phòng thủ kiên cố. Zhukov đề nghị quân củng cố thật chắc trận địa bờ tây
sông Oder (chảy qua Séc và Ba Lan).Đúng như dự đoán, Đức quốc xã tấn công liên tiếp ở nhiều mũi nhưng quân Liên Xô đã có dự tính từ trước nên không bị bất ngờ. Khi quân Liên Xô tràn vào Berlin, Zhukov thấy đường xá quá chật hẹp, không phù hợp với xe tăng nên thành lập các tổ đội bộ binh, pháo binh ở mức trung đội để tấn công nhanh gọn. Quyết định này đã chứng minh hiệu quả khi các trung đội nhanh chóng tiêu diệt sinh lực địch trong mê cung Berlin. Sau một tuần công phá, ba phương diện quân Liên Xô cùng quân Đồng minh Anh, Mỹ gặp nhau ở bờ sông Elbe. 80.000 Hồng quân hy sinh dũng cảm trong trận chiến Berlin đẫm máu nhưng ngày 30.4.1945, lá cờ chiến thắng đã được cắm trên nóc nhà Quốc hội Đức. Hitler và Goebbels tự sát. Ngày 9.5, đại diện Đức và quân đội Đức quốc xã kí biên bản đầu hàng vô điều kiện trước 4 nước đồng minh. Thay mặt Liên Xô, nguyên soái Zhukov kí vào biên bản này. Sau chiến thắng vang dội ở mặt trận Berlin, Zhukov được phong tặng Huân chương Sao vàng – Anh hùng Liên Xô lần thứ 3. Những năm sau chiến tranh
Bốn nhà
lãnh đạo quân sự xuất sắc của Đồng Minh chống phát xít: Bernard
Montgomery (Anh), Dwight D. Eisenhower (Mỹ), Georgi Zhukov (Liên Xô) và
Jean de Lattre de Tassigny (Pháp).
Khi Stalin mất, ông được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ Quốc phòng,
chuyên nghiên cứu tác dụng của vũ khí hạt nhân trong chiến tranh hiện
đại. Từ năm 1955-1957, ông giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng. Tuy nhiên sau
đó, Zhukov bị thất sủng và ông tập trung viết quyển hồi ký “Nhớ lại và
suy ngẫm”. Quyển sách xuất bản năm 1969. Tới năm 1974, nguyên soái lừng
danh Zhukov qua đời ở tuổi 78. |
||||
G.K.Zhukov, tư lệnh của các chiến dịch lớn(Quốc phòng) - (ĐVO) Tuổi ấu thơ nghèo khó và chí tự họcSinh ngày 1/2/1896 trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Strenkovka, tỉnh Kluga. 12 tuổi làm thợ học việc ở một cửa hàng đồ da. 19 tuổi, năm 1915 nhập ngũ, phục vụ trong một đơn vị kỵ binh Sa hoàng, tham gia đại chiến I (1914-1918). Sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917, gia nhập Hồng quân và trở thành một sĩ quan kỵ binh ưu tú. 27 tuổi giữ chức trung đoàn trưởng và năm 42 tuổi là Phó Tư lệnh Quân khu Belorusia. Những dòng ngắn ngủi trên chỉ mong phác họa đôi chút về chân dung vị Nguyên soái lừng danh của Đại chiến II, Georgi Konstantinovich Zhukov. Thực ra trước thềm 1939, ông đã trải qua hơn 40 năm đầy gian khổ. Hồi ức "Nhớ lại và suy nghĩ" của ông phát hành năm 1969, 5 năm trước khi qua đời, cho ta biết rõ hơn quá trình hình thành một bản lĩnh, một nhân cách hiếm có.
“Bảy
tuổi đã cùng người lớn đi cắt cỏ, cố quá sức nên làm tay phồng lên...
xấu hổ không dám nói với ai cả, cố hết sức chịu đựng và đến mùa gặt lúa
mì... hấp tấp đưa liềm vào ngón tay út bên trái... đã bao nhiêu năm qua,
vết sẹo ở đấy vẫn còn nhắc tới...”.Ông được đi học mấy năm ở trường
làng, năm 12 tuổi lên Moscow làm ở cửa hàng đồ da, từ 7h sáng đến 7h
tối, có một tiếng buổi trưa để nghỉ ăn cơm. Vất vả như vậy nhưng ông vẫn
kiên trì học thêm buổi tối về tiếng Nga, toán, địa lý, đọc sách khoa
học phổ thông....Tháng 6/1915, nước Nga tổn thất nhiều trên các mặt
trận, đến đợt tổng động viên, ông lên đường. Một sự kiện quan trọng diễn
ra trong đời binh nghiệp: Ngày 27/2/1917, ông gia nhập hàng ngũ Cách
mạng. >> 'Tượng đài Cách mạng Tháng Mười'Tháng 8/1918, ông phục vụ
trong đoàn kỵ binh 4, sư đoàn kỵ binh Moscow của Hồng quân. Mùa xuân
năm 1923 ông nhận nhiệm vụ chỉ huy trong đoàn, đây là cương vị đã rèn
luyện để ông có nhiều kinh nghiệm về huấn luyện, điều hành sau này.Ông
lần lượt đảm nhiệm các chức vụ sư đoàn trưởng, quân đoàn trưởng trong
những năm sau và đến năm 1938 làm Phó Tư lệnh quân khu Belarusia. Ngày
2/6/1939, ông bay sang Mông Cổ để cùng các đơn vị quân đội nước này đánh
bại quân Nhật ở Khankhin Gôn, chiến dịch kéo dài đến 30/8/1939, ngay
trước khi quân Đức đánh vào Ba Lan mở đầu Đại chiến II.Đầu tháng 5/1940,
ông nhận quân hàm Đại tướng, giữ chức Tư lệnh quân khu đặc biệt Kiev,
khi được I.V.Stalin hỏi về kinh nghiệm ở Khankhin Gôn, ông nói: “...
Cuộc chiến đấu ở Khankhin Gôn là một trường học kinh nghiệm chiến đấu
lớn”.Tư lệnh của các chiến dịch lớnĐầu năm 1941, ông là
Tổng tham mưu trưởng quân đội, ở cương vị này, ông thể hiện tầm nhìn
chiến lược của một thiên tài quân sự.Đêm 21, rạng 22/6/1941, Đức tấn
công toàn tuyến biên giới Liên Xô, 13.000 giờ ngày 22/6 ông được cử tới
Tây nam làm đại diện Tổng hành dinh, 40 phút sau ông ngồi trên máy bay
và sực nhớ ra “chưa ăn gì từ hôm qua”. Từ đó là những ngày đêm liên tục
chỉ huy các chiến dịch lớn và đều chiến thắng. Sau này, khi được hỏi
chiến dịch nào ghi nhớ nhất, ông trả lời không do dự: Chiến dịch Moscow
(30/9/1941-20/4/1942) một chiến dịch Liên Xô ở vào thế rất bất lợi, đã
kiên cường phòng ngự, mưu trí phản công. Quân Đức lúc đầu có lợi thế rất
lớn: chiếm toàn bộ các nước Cộng hòa của Liên Xô: Litva, Latvia,
Extonia và phần lớn Belorusia, Ukraine. Tháng 9/1941, Đức sử dụng cụm
tập đoàn quân trung tâm gồm 3 tập đoàn quân dã chiến và 3 tập đoàn quân
tăng với 1.800.000 quân, 1.700 xe tăng, 14.000 pháo và cối, 1.390 máy
bay mở cuộc tấn công quy mô với mật danh “Giông tố”, theo hai hướng nam,
Bắc hòng tiến vào thủ đô Moscow. Giai đoạn phòng ngự
(30/9/1941-5/12/1941), Quân đội Liên Xô đã đánh trả quyết liệt khiến
quân Đức tổn thất nặng nề, nhưng chúng vẫn chọc thủng được tuyến phòng
ngự để tiến về sông Moscow, còn ở phía Nam thì bị chặn lại. Cuối tháng
11, đầu tháng 12 ý định đột phá vào thủ đô Moscow của Đức thất bại, Hồng
quân đã nắm quyền chủ động, có thêm sự tăng quân, vũ khí. Nhiều trận
đánh có phương diện quân liên tục diễn ra, đẩy quân Đức lùi về phía Tây
100-300 km. Toàn cục Đức thiệt hại 500.000 người, 1.300 xe tăng, 2.500
pháo, trên 15.000 xe và khí tài khác.Người ta nhớ rằng, trong những lúc
gian khó nhất của chiến dịch bảo vệ thủ đô này, ông luôn ở vị trí trung
tâm điều hành các phương diện quân, bên cạnh I.V.Stalin. Ông đến tận đơn
vị cơ sở, nắm chắc vấn đề, khi báo cáo có bản lĩnh, thẳng thắn, không
ngại va chạm với Tổng tư lệnh. Các dự báo chiến lược, chiến dịch của ông
đều đúng. Ngày 1/11/1941, giữa trăm ngàn gia khó, khi về đại bản doanh,
Stalin hỏi tình hình có thể bảo vệ cho Lễ duyệt binh 7/11/1941 được
không, ông khẳng định: Được! Lễ duyệt binh có một không hai đã diễn ra
đúng ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười và từ quảng trường Đỏ, nhiều đơn
vị đã đi thẳng ra chiến trường sát Moscow.>> 70 năm cuộc duyệt
binh lịch sử>> Diễn tập duyệt binh trên Quảng trường ĐỏÔng viết:
“Nếu có ai hỏi tôi điều gì nhớ nhất trong cuộc chiến tranh vừa qua, tôi
luôn luôn trả lời, đó là cuộc chiến đấu ở Moscow. Trong điều kiện khắc
nghiệt, hết sức phức tạp và khó khăn, quân đội ta đã được tôi luyện, can
trường và sau khi có được một số phương tiện vật chất tối thiểu, đã
chuyển từ một lực lượng đang rút lui phòng ngự, thành một lực lượng tiến
công rất mạnh”.Ngày 26/8/1942, ông được cử làm Phó Tổng tư lệnh tối cao
và đến chiến dịch Stalingrad chỉ đạo.Ngày 18/1/1943, ông được phong
Nguyên soái Liên Xô, là người đầu tiên được phong Nguyên soái trong
chiến tranh. Từ lúc tham gia phòng ngự ở Leningrad ngày 9/9/1941, qua
nhiều chiến dịch lớn, ông lại có mặt ở trận nổi tiếng: vòng cung Kursk,
rồi tiêu diệt địch giải phóng Ukraine, Belorusia. >> Chùm ảnh Hồng
quân Liên Xô ở LeningradNgày 29/7/1944, ông nhận danh hiệu Anh hùng
Liên Xô lần 2. Tháng 10/1944, chỉ huy phương diện quân Belorusia 1, đơn
vị nòng cốt tiến vào sào huyệt của Đức quốc xã ở Berlin. Ngày 20/4/1945
trận công phá lịch sử Berlin bắt đầu. 15h ngày 30/4/1945, ông là người
được ủy nhiệm của I.V.Stalin chủ trì Lễ duyệt binh mừng chiến thắng ở
Moscow.
Bình tĩnh, sáng suốt lúc cuối đờiNăm
1957, trên cương vị Ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, Bộ
trưởng Quốc phòng, đang thăm nhiều nước, khi về nhà, bị cách chức, ông
bình tĩnh nhận quyết định nghỉ hưu. Một thời gian dài, ông ngủ và khi
tỉnh dậy, vào rừng, đi câu bên suối nhỏ. Năm 1969, sau nhiều năm nghiền
ngẫm, thai nghén, được sự giúp đỡ của cơ quan lưu trữ và nhiều đồng đội,
ông hoàn thành tác phẩm “Nhớ lại và suy nghĩ”, được xuất bản rộng rãi
trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong lời tựa cuốn sách, ông viết
“Tôi đã miệt mài với cuốn “Nhớ lại và suy nghĩ” này không phải chỉ trong
một năm. Từ những tài liệu của cuộc sống rộng lớn, từ rất nhiều các sự
kiện và những cuộc tiếp xúc, tôi muốn lựa chọn ra cái gì là thực chất và
quan trọng nhất có thể nói lên thật xứng đáng sự vĩ đại của những sự
nghiệp và thành tựu của nhân dân ta”.Ông mất năm 1974, hưởng thọ 79
tuổi.
Nguyên
soái G.K.Zhukov (1896-1974) là danh tướng kiệt xuất, Phó Tổng tư lệnh
các lực lượng vũ trang Liên Xô trong đại chiến II (I.V.Xtalin là Tổng tư
lệnh) 4 lần Anh hùng Liên Xô..., người trực tiếp chỉ huy nhiều mặt trận
Leningrad (1941), Moscow (1941-1942), Stalingrad (1942-1943), Vòng
cung Kursk (1943), Berlin (1945)..., qua bao thăng trầm vẫn sống mãi
trong lòng nhân dân Nga và bạn bè trên thế giới.
Chuyện đời thường của Nguyên soái G.Giu-cốp
Trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ
đại của nhân dân Liên Xô chống phát xít Đức xâm lược, Ghê-ô-ghi Giu-cốp
là một trong số ít các vị nguyên soái tài ba lỗi lạc nhất, đóng góp công
lao to lớn có tính quyết định vào chiến thắng quân thù. Tên ông đã trở
nên nổi tiếng không những với các dân tộc của Liên bang Xô-viết mà còn
vang khắp thế giới. Thế nhưng, trong một khoảng thời gian dài, đời sống
riêng tư của ông thì không được “trơn tru” như ý sau danh hiệu được quân
và dân Xô-viết phong tặng –“Nguyên soái chiến thắng”.
Mới đây, bà Ma-ga-ri-ta-con gái đầu lòng
của ông đã cởi mở kể lại một số tình tiết trong cuộc sống gia đình vào
“những năm tháng xa xưa ấy” với tuần báo Luận chứng và Sự kiện của Liên
bang Nga.
Chuyện bắt đầu từ năm 1919
Năm 1919, Ghê-ô-ghi Côn-xtan-ti-nô-vích
Giu-cốp lúc đó là Trung đoàn trưởng của Hồng quân Công nông Xô-viết, đã
bị thương trong một trận kịch chiến với quân Bạch vệ phản cách mạng của
tướng Côn-trắc, An-tô Ya-nin-người đồng đội của Giu-cốp đã cứu và đưa
ông từ chiến trường rừng rực lửa đạn tới Xi-ri-xưn trên một chiếc xe
ngựa kéo. Lúc đó người vợ chưa cưới của Ya-nin là Pô-li-na đã cùng với
em gái mình là Ma-ri-a Vôn-khô-va (là mẹ của bà Ma-ga-ri-ta sau này) tới
thăm ông. Thấy Giu-cốp nằm “cô đơn” trong quân y viện, họ đề nghị
Ma-ri-a tới chăm sóc vị trung đoàn trưởng đang dưỡng thương này. Về sau,
ông kể lại với con gái-bà Ma-ga-ri-ta: “Khi tỉnh giấc, bố thấy một cô
gái có đôi mắt xanh như lá cây lưu ly”. Từ cái nhìn đầu tiên ấy, ông
tuyên bố với Ya-nin: “Quả là tuyệt! Cậu hãy cưới Pô-li-na, còn tớ thì
lấy Ma-ri-a”.
Tuy nhiên, Giu-cốp đã không kịp cưới
Ma-ri-a. Ông được đi nghỉ dưỡng thương, còn Ma-ri-a thì trở về nhà bố
mẹ. Mối tình đầu bị “tạm hoãn”. Năm 1921, Giu-cốp và Ya-nin trên đường
công tác đã nghỉ đêm tại nhà của một vị mục sư ở tỉnh Vô-rô-ne-giơ. Khi
họ đang ngồi uống trà thì Giu-cốp nghe thấy tiếng sột soạt. Ông nói nhỏ
với Ya-nin: “Phía sau bếp này có ai đó đang cựa quậy”. Rồi đứng dậy và
đi tới bếp lò, ông nói: “Nào, ai đó, hãy ra đây!”. Từ bếp lò, một cô gái
vẻ luống cuống xuất hiện. Giu-cốp nhìn thẳng vào cô ta: “Cô là ai?”. Cô
ta đáp: “Tôi là con gái của cha (linh mục-TG)”.Ghê-ô-ghi cười to với
chiến hữu: “An-tôn, có lúc nào cậu nhìn thấy một cô con gái của cha
không?”. Rồi ông mời cô ta ngồi vào bàn. “Khởi đầu” của câu chuyện đầu
tiên của Giu-cốp và cô gái A-lếch-xan-đra Zui-cốp-va đã diễn ra như vậy.
Rồi tự nhiên họ đã thành “đôi lứa”.
Mấy năm sau, Giu-cốp mới tìm gặp được bà
Ma-ri-a Vôn-khô-va và lại thành “đôi lứa”, (có thể vì bà Zui-cốp-va
không có con). Vậy là người trung đoàn trưởng mưu lược tài năng này phải
“sống giữa hai mặt trận”(!). Năm 1929, bà Ma-ri-a sinh được cho ông
người con gái đầu tiên-bà Ma-ga-ri-ta sau này-thì Giu-cốp muốn “thoát
khỏi” bà Zui-cốp-va. Nhưng bà này đâu có chịu, bà yêu cầu để Ma-ga-ri-ta
cho bà nuôi, nếu không thì bà sẽ bêu xấu ông khắp thế gian. Và sau đó
bà Zui-cốp-va cũng đã viết đơn tố cáo Giu-cốp lên cấp trên khiến ông bị
“cảnh cáo đảng” vì tội “lấy hai vợ”.
Trước việc này, do bà Zui-cốp-va vô sinh,
nên họ đã nhận bé gái E-ra làm con nuôi năm 1928, và tới năm 1937 còn
nhận thêm En-la. Hai cô gái này luôn luôn cho rằng mình là con ruột đích
thực của Giu-cốp và Zui-cốp-va. Bà Ma-ga-ri-ta cũng như nhiều bà con họ
hàng ruột thịt không trách điều đó, vì vào thời ấy việc “nhận con nuôi”
thì sẽ bị “rắc rối to” theo pháp luật. Hơn nữa, vì bà Zui-cốp-va thực
sự bị bệnh “vô sinh” nên việc nhận con nuôi cũng như “nhận thêm” con đẻ
của bà Ma-ri-a là để tạo lập một gia đình đàng hoàng và chủ yếu là để
giữ được Giu-cốp bên mình. Biệt hiệu “người đeo bám” được người thời đó
tặng cho bà A-lếch-xan-đra Zui-cốp-va vì bà đã “có công” níu giữ
Giu-cốp, quyết không cho ông “lòng thòng” với những phụ nữ khác, vì lúc
đó có biết bao nhiêu người đẹp ngưỡng mộ ông.
Giu-cốp và người vợ cuối Ga-li-na Xê-mi-ô-nốp-na cùng con gái út Ma-sa. Ảnh tư liệu
Con đích thực-bố đích thực?
Bà Ma-ri-a Vôn-khô-va có được đứa con gái
với Giu-cốp, rất tự hào điều này, nhưng cũng không chịu đựng nổi với
tình thế lúc đó. Khi chị gái bà là Pô-li-na mất vì bệnh thương hàn,
người chồng Ya-nin phải vừa chiến đấu vừa chịu cảnh “gà trống nuôi con”.
Do vậy, bé Vô-lô-đi-a 3 tuổi được dì Ma-ri-a nuôi dưỡng. Và từ khi
Ya-nin hy sinh trên chiến trường thì bà Ma-ri-a làm mẹ nuôi của các đứa
con người chị gái… Ma-ga-ri-ta lại có thêm em nuôi nhưng vẫn chưa rõ
được bố đẻ mình.
Sau một thời gian dài “nóng ruột tìm hiểu
sự thật” thì Ma-ga-ri-ta được mẹ đẻ vừa cho tờ giấy chứng nhận khai
sinh, ở mục bố đẻ ghi “Bố-Ghê-ô-ghi Côn-xtan-ti-nô-vích Giu-cốp”. Lập
tức con gái Ma-ga-ri-ta viết thư cho bố ngoài chiến trường và được bố
viết thư trả lời ngay. Từ đó bố và con luôn viết thư cho nhau trong suốt
cuộc chiến tranh. Sự liên lạc qua lại giữa hai bố con được thông suốt
là nhờ cô y tá Li-đa Gia-kha-rô-va. Sau mấy lần bị thương, sức khỏe ông
“có vấn đề” nên cấp trên đã biệt phái một nữ y tá 19 tuổi-cô Li-đa-để
trực tiếp chăm sóc ông. Và giữa họ đã xảy ra “chuyện tình cảm” khó tránh
khỏi.
Trong những năm tháng lửa đạn chiến tranh
khốc liệt đó, “bà đầu tiên” A-lếch-xan-đra Giui-cốp-va không để cho vị
nguyên soái này yên. Bà luôn luôn “đánh thức” ông, thậm chí có lúc ra
ngay chiến trường để “kiểm tra và kiềm chế” ông. Ông rất bực dọc, khổ
tâm, có lần nói với cô y tá: “Li-đa, cái người luôn luôn “đeo bám” ấy
lại tới quấy rầy đấy!”. Cũng may, Giu-cốp là vị danh tướng tài ba luôn
luôn say sưa, đam mê suy nghĩ về chiến lược, chiến thuật để giành chiến
thắng trước quân thù nên mọi cái “râu ria”, “nhỏ nhặt” đó ông đã bỏ qua.
Sau chiến tranh, người nữ y tá Li-đa gọi
điện cho con gái Giu-cốp: “Ma-ga-ri-ta Ghê-ô-ghi-ép-na, tôi mời chị tới
chỗ tôi dùng trà”. Ma-ga-ri-ta đến, đi vào nhà bếp thấy một người đàn
ông rất giống mình bèn hỏi nhỏ Li-đa: “Ai đấy?”. Cô y tá cười: “Chính là
bố chị đấy!”. Hai bố con gặp nhau hàn huyên tâm sự ở “nhà một người
khác”. Nhưng rồi vị nguyên soái này cũng buộc phải rời cô y tá Li-đa. Bà
Giui-cốp-va đã viết tới 10 bức thư tố cáo sự việc đó, khiến cấp trên
phải thải hồi cô. Khi Li-đa bị đưa ra khỏi Quân y viện của Bộ Quốc phòng
và trả về Mát-xcơ-va, ông đã giúp đỡ cô tìm được việc làm và một căn hộ
ở khu chung cư. Về sau bà đã kết duyên với một vị trung tá về hưu.
Thực ra, Nguyên soái Giu-cốp đã rất nhiều
năm phải sống với “người mình không yêu”. Còn bà Giui-cốp-va, ngoài
chuyện vô sinh lại là người thích mua sắm các đồ dùng xa xỉ, khoe khoang
của cải, hợm hĩnh… Ông rất khổ tâm nhưng vẫn không dứt ra được. Có lẽ
cũng do vậy mà ông đã “ga lăng” với một vài phụ nữ thấy “ý hợp tâm
đồng”. Ví như chuyện ông với một bác sĩ thạo nghề xoa bóp chữa trị bệnh
viêm rễ thần kinh ở một bệnh viện cao cấp của quân đội. Nữ bác sĩ
Ga-li-na Xê-mi-ô-nốp-na này tận tình xoa bóp chữa trị cho ông, kết quả
nhiều lần hoàn toàn “như ý”. Do hằng ngày “lửa gần rơm” nên họ đã bén
duyên. Kết quả của “cuộc tình lãng mạn” này là cô gái Ma-sa ra đời vào
năm 1957, là con gái út của ông.
Lần này thì bà Giui-cốp-va “mạnh tay” hơn
viết đơn lên Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên
Xô yêu cầu đày kẻ chia uyên rẽ thúy kia tới Xi-bia. Đáp lại, vị nguyên
soái này đã thu gói đồ đạc của mình rời khỏi gia đình đó. Đây là một dịp
để Khơ-ru-sốp (lúc đó là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Liên Xô) lợi dụng để đả kích Giu-cốp. Vốn hiềm khích với vị
nguyên soái được quân và dân Xô-viết yêu kính, ông ta đã đưa “vụ án” về
đạo đức và đứa con gái ngoài giá thú của Giu-cốp ra xem xét ở Đoàn Chủ
tịch (sau này là Bộ Chính trị-TG).
Vậy là, trong cái gia đình “nhiều vợ” của
vị nguyên soái lừng danh này có 4 cô con gái mà ai cũng cho mình là con
đích thực của bố Giu-cốp. Nhưng thực ra chỉ có hai người, Ma-ga-ri-ta
giống bố như đúc. Tuy về sau tất cả họ đều “ăn nên làm ra”, nhưng sự gắn
bó ruột thịt thì “chưa được như ý”.
Để giữ mãi kỷ niệm đầy ý nghĩa về người
cha nổi tiếng của mình, người con gái cả đích thực Ma-ga-ri-ta đã lập ra
Quỹ “Ghê-ô-ghi Giu-cốp”. Bà nói: “Những gian kế mà Khơ-ru-sốp đã bày
trò để mưu hại Giu-cốp chưa thấm vào đâu so với việc ngày nay một vài
nhân vật có tiếng cố tình gièm pha tên tuổi của Ghê-ô-ghi Giu-cốp. Do
vậy, tôi quyết định lập ra quỹ mang tên cha tôi để quảng bá cho di sản
của ông”.
Quỹ này đã được nhiều cá nhân và tổ chức
xã hội của nước Nga nhiệt tình tham gia. Và kết quả đầu tiên rất thành
công là xây dựng được tượng Giu-cốp trên quảng trường Ma-nhét ở
Mát-xcơ-va do nhà điêu khắc Via-trê-xláp Clư-cốp tạc tượng. Ông đã lấy
hình mẫu của người con gái đích thực của vị Nguyên soái Chiến thắng-bà
Ma-ga-ri-ta để tạo mẫu bức tượng bán thân đặc biệt này.
Nguyễn Hữu Dyqdnd.vn |
Hành xử công bằng của Nguyên soái Giucốp
(Petrotimes)
- Ngày 9/5 là ngày kỷ niệm chiến thắng hoàn toàn của các nước đồng minh
chống phát xít. Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh đã giành chiến
thắng trước quân đội Đức Quốc xã, mở ra trang mới cho lịch sử toàn thế
giới. Nhân dịp kỷ niệm 68 năm Ngày Chiến thắng Phát xít, Petrotimes xin
được trích đăng bút ký về tiểu sử Nguyên soái Liên Xô G.C. Giucốp của
Nhà văn Liên Xô K.M.Ximônôp giúp bạn đọc hiểu thêm về sự kiện và con
người nổi tiếng này.
"Trong buổi nói chuyện giữa chúng tôi vào năm 1950, Giucốp hay nói về
vấn đề đồng chí hằng quan tâm là cần phải đánh giá thật khách quan những
lực lượng và khả năng của địch - cả trong lịch sử, cả cho ngày nay và
mai sau. Thật đáng tiếc là tôi không ghi chép câu chuyện ấy nên không
thể dẫn ra đây các chi tiết, không dám liều lĩnh nói cương. Song nhân
đây, tôi có thể dẫn ra những vấn đề Giucốp nói tới trong những lần nói
chuyện về sau. Nội dung các vấn đề ấy, tôi có ghi lại. Một số ghi chép
được như sau: “Rốt cuộc lại sẽ phải nhìn thẳng vào sự thật; không được e
ngại, phải nói những cái có thật đã xảy ra. Phải đánh giá những mặt
mạnh của quân Đức mà chúng ta buộc phải đương đầu từ những ngày đầu
chiến tranh. Không phải chúng ta buộc phải rút lui đến hàng ngàn kilômét
trước những quân ngu ngốc, mà trước một đạo quân mạnh nhất thế giới.
Phải nói rõ, quân Đức lúc bắt đầu chiến tranh giỏi hơn quân đội chúng
ta, được huấn luyện, được trang bị tốt hơn và đã sẵn sàng chiến tranh về
mặt tâm lý hơn chúng ta. Quân Đức có những kinh nghiệm chiến tranh và
thêm nữa lại là những cuộc chiến tranh đã đánh thắng. Những cái đó giữ
một vai trò lớn. Cũng lại phải thừa nhận, Bộ Tổng tham mưu Đức và các cơ
quan tham mưu Đức nói chung hồi đó làm việc tốt hơn Bộ Tổng tham mưu và
các cơ quan tham mưu của chúng ta. Những người tư lệnh quân Đức trong
thời kỳ ấy suy nghĩ sâu hơn và tốt hơn những người tư lệnh chúng ta.
Trong quá trình chiến tranh, chúng ta mới học tập và đã học tập được và
mới đánh được quân Đức. Nhưng đó là một tiến trình dài. Cái tiến trình
này bắt đầu khi bên phía quân Đức chiếm ưu thế hơn ta về mọi mặt”.
Nguyên soái Giucốp
Chúng ta cũng không được ngần ngại khi viết về tình trạng không ổn định
của bộ đội ta trong thời kỳ đầu chiến tranh. Do không ổn định, nên bộ
đội chẳng những rút lui, mà còn bỏ chạy và lâm vào tình trạng hoang
mang. Khuynh hướng không muốn công nhận tình trạng đó, bởi e rằng, nếu
nói như vậy thì ra nhân dân không có lỗi mà chỉ ban lãnh đạo có lỗi. Về
đại thể, thì điều đó đúng. Mà kết quả cũng thực như vậy. Nhưng nếu nói
một cách cụ thể, thì lúc bắt đầu chiến tranh, chúng ta đã chiến đấu tồi
cả ở cấp trên và cả ở bên dưới. Không có gì phải giữ bí mật, rằng các sư
đoàn chúng ta, có sư đoàn đánh tốt, rất kiên cường, song lại có sư đoàn
bỏ chạy khi bị địch tiến công y hệt như thế. Có những người chỉ huy
khác nhau, sư đoàn khác nhau và cả mức độ kiên cường khác nhau.
Chúng ta cần nói và viết về tất cả những cái đó. Tôi có lần nói, ở đây
có cả những mặt sư phạm của vấn đề, bởi các bạn đọc hiện nay, trong đó
có các thanh niên sẽ không được nghĩ rằng, tất cả chỉ phụ thuộc vào Bộ
Chỉ huy. Không. Thắng lợi phụ thuộc vào tất cả, vào từng con người trong
chiến đấu. Chúng ta biết đấy, trong những điều kiện như nhau mà có
người tỏ ra kiên cường, có người lại không. Cho nên vấn đề này không thể
không được nói tới.
- Khi nói về sự thất bại của quân Đức trong chiến tranh, giờ đây chúng
ta hay nhắc đến, cho là không phải chỉ có sai lầm của Hitle, mà sai lầm
của cả Bộ Tổng tham mưu quân Đức. Song, cần phải nói thêm rằng, những
sai lầm của Hitle càng làm cho Bộ Tổng tham mưu của chúng sai lầm thêm,
bởi Hitle thường làm trở ngại cho Bộ Tổng tham mưu quân Đức không thể
thông qua được những quyết định đúng đắn hơn, chín chắn hơn. Năm 1941,
sau khi quân Đức bị đập tan ở gần Mátxcơva, Hitle đã cách chức
Braokhích, Bốc cùng một loạt những viên tư lệnh khác và đảm nhận lấy
quyền chỉ huy các lực lượng bộ binh Đức. Hitle làm như vậy đã giúp ích
nhiều cho chúng ta. Sau đó thì Bộ Tổng tham mưu quân Đức và cả những
viên tư lệnh các cụm tập đoàn quân Đức càng bị trói buộc nhiều hơn
trước. Sự chủ động của họ bị tê liệt. Những quyết định của Hitle bấy giờ
lại là Tổng tư lệnh Lục quân nên trở thành tuyệt đối lớn hơn hết thảy.
Mức độ độc lập giải quyết những vấn đề tác chiến vốn dĩ vẫn dành cho
quân đội Đức trước đây bị giảm thấp cùng với sự thải hồi Braokhích đều
là những việc tất nhiên có lợi cho chúng ta.
- Nếu theo dõi tiến trình lịch sử chiến tranh trong thời kỳ thứ hai,
thứ ba này, thì chúng ta có thể đếm được nhiều tình thế bị lặp lại về
nguyên tắc mà quân Đức trước sau vẫn cứ rơi vào tình thế không xử lý
nổi, vẫn bị hợp vây, hút vào những lòng chảo và mặc dù tình thế đã lặp
đi lặp lại nhiều lần như thế, song chúng vẫn không thể quen với chiến
đấu trong tình huống bị thất bại và rút lui thật lạ lùng đối với chúng.
Hãy đơn cử ra tình huống, chẳng hạn như vào trước cuộc tiến công của
chúng ta ở Bêlaruxia vào mùa hè năm 1944, mà chỉ cần nhìn vào bản đồ
cũng thấy rất rõ chúng ta có thể sẽ mở những đòn đột kích vào chúng trên
ba hướng và có thể tạo nên chiếc lòng chảo Bêlarútxia và kết quả là có
thể đột phá kết thúc chiến dịch trên chiều rộng 300-400 kilômét mà quân
Đức sẽ không thể chống đỡ nổi. Chúng hoàn toàn có thể nhìn thấy trước
những sự kiện đó.
Lôgíc của các sự kiện, sự am hiểu tối thiểu về mặt quân sự nhắc chúng
phải rút quân ra khỏi chiếc lòng chảo tương lai đó, thu hẹp và tăng mật
độ trên chính diện lên, xây dựng những đội dự bị chiến dịch ở phía sau
chính diện đó. Tóm lại, là tất cả những gì đòi hỏi phải làm trong những
trường hợp ấy. Nhưng quân Đức lại không làm thế và hậu quả đã bị tiêu
diệt trong chiến dịch Bêlarútxia.
Nhưng sau này, khi bị lâm vào tình thế rất nặng nề, không sao có thể
chống đỡ nổi cuộc đột phá trên chính diện 400 kilômét, ta cũng phải nói
cho thỏa đáng là chúng đã tìm được một lối thoát táo bạo và đúng. Thay
vì phải kéo quân ra để bịt lấy những cửa mở rộng hoác này, chúng đã tập
trung lập thành từng cụm quân đột kích và đón đánh chúng ta ở giữa
khoảng không gian trống trải ấy. Do đó chúng đã kìm được quân ta, buộc
ta phải giao chiến với chúng. Như vậy chúng đã làm chậm bước tiến của
quân ta. Nhờ cuộc đột kích táo bạo và bất ngờ này đối với chúng ta nên
sau khi bị tiêu diệt trong chiếc lòng chảo Bêlarútxia, chúng đã kịp làm
được việc xây dựng tuyến phòng ngự ở phía sau. Chúng ta phải công nhận
quyết định ấy của bọn chúng là táo bạo và thông minh”.
Những đoạn trích ở đây dẫn trong các cuộc nói chuyện vào năm 1955 mà
tôi còn nhớ là nó rất gần gũi với những chuyện Giucốp nói với tôi trước
đây trong Văn phòng Bộ Quốc phòng. Hồi đó, câu chuyện cũng chỉ xoay
quanh vấn đề: đánh giá cho thật khách quan các hành động của chúng ta,
dù là những hành động thất bại hay thắng lợi.
Vào tháng 5 năm 1956, sau việc tự sát của Phađêép (Ủy viên Trung ương
Đảng Cộng sản Liên Xô, Tổng thư ký Hội Nhà văn Liên Xô), tôi gặp Giucốp
trong phòng tang lễ của Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Đảng, nơi tập
trung tất cả những ai được cử làm hàng rào danh dự đứng bên linh cữu của
Phađêép. Giucốp đến sớm hơn thời gian đã dự định, nên chúng tôi lại có
dịp ngồi với nhau một góc phòng nói chuyện được nửa tiếng đồng hồ.
Câu chuyện thật bất ngờ với tôi và bất ngờ với cả khung cảnh ấy. Giucốp
nói, sau Đại hội Đảng lần thứ 20 được ít lâu có một sự việc khiến đồng
chí ấy xúc động và hào hứng. Đó là vấn đề phục hồi những tiếng tốt cho
người bị bắt làm tù binh, mà chủ yếu vào thời kỳ đầu chiến tranh, ở thời
điểm quân ta rút lui kéo dài và bị hợp vây quy mô lớn.
Tôi hiểu được phần nào vấn đề này khi đưa ra thảo luận trong Chủ tịch
đoàn Ủy ban Trung ương Đảng. Giucốp thời gian ấy là Bộ trưởng Quốc phòng
đã đề nghị đưa vấn đề này ra để Đoàn Chủ tịch có quyết định dứt khoát.
Đồng chí rất phấn khởi khi được sự ủng hộ có tính nguyên tắc và đã nói
thật sốt sắng về sự việc đó hầu như không thấy sự điềm tĩnh và ít lời
như thường lệ. Có lẽ, vấn đề này đụng tới vấn đề gì sâu xa, mạnh nhất
trong thâm tâm đồng chí. Chắc là (ít ra thì tôi cũng thấy như vậy)
Giucốp lâu nay có suy nghĩ tới việc này và nhiều năm trong nội tâm không
yên lòng với cách xử lý không đúng. Và không có căn cứ ấy trước đây về
vấn đề này. Đồng chí nói đến nỗi đắng cay là theo luật pháp nước Anh,
các sĩ quan và binh lính Anh bị bắt làm tù binh thì trong suốt thời gian
bị đối phương bắt giữ vẫn tiếp tục hưởng lương, thậm chí còn tăng thêm
phụ cấp cho những ai gặp hoàn cảnh khó khăn.
Hồng quân Liên Xô cắm lá cờ chiến thắng vào mùa xuân năm 1945 trên Tòa nhà Quốc hội Đức phát xít ở Berlin
“Còn ở chỗ chúng ta - Giucốp nói - ở chỗ chúng ta thì Mekhơlích lại
nghĩ ra được cái định thức: “Những ai bị bắt làm tù binh đều là những kẻ
phản bội Tổ quốc” và còn lập luận cho các định thức ấy, rằng những
người Xôviết trước nguy cơ bị bắt làm tù binh phải tự sát để kết liễu
đời mình. Thực chất ấy là trong tổng số biết bao triệu con người đã hy
sinh trong chiến tranh phải cộng thêm mấy triệu người tự sát nữa. Hơn
một nửa số người bị bắt làm tù binh đã bị bọn Đức hành hạ, tra tấn, đã
chết vì đói khổ và bệnh tật. Nhưng theo như luận chứng của Mekhơlích,
thì ngay cả số người còn sống sót, đã vượt qua được cửa ải địa ngục ấy
trở về và khi về được đến nhà cũng sẽ phải luôn ăn năn, hối hận rằng,
tại sao trong những năm 1941 hoặc 1942 ấy, mình không kết liễu lấy cuộc
đời mình”.
Tôi không còn nhớ chính xác hết những lời của Giucốp, nhưng ý nghĩa của
nó là cái định thức ấy của Mekhơlích thật đê nhục - không tin cậy vào
những chiến sĩ và sĩ quan, đã dựa vào những lập luận không công bằng,
cho rằng mọi người bị bắt làm tù binh đều là những con người hèn nhát.
“Hèn nhát, tất nhiên là có những người hèn nhát, song làm sao mà có thể
suy nghĩ như vậy đối với mấy triệu chiến sĩ và sĩ quan bị bắt làm tù
binh của cái quân đội, mà rốt cuộc, nó đã ngăn chặn và đánh tan được
quân Đức.
Phải chăng, tất cả họ đều là những người khác, không phải là những con
người mà sau này đã đến tận Béclin? Họ là những con người thuộc loại thử
nghiệm khác chăng, tồi tệ hơn, hèn nhát hơn?! Liệu có thể nào lại đem
khinh rẻ một cách xô bồ với tất cả những ai đã bị bắt làm tù binh do
những tai họa bất ngờ ập đến với họ lúc đầu chiến tranh?...”.
Nhắc lại câu chuyện lúc ban đầu, là vấn đề đau thương này sẽ được xem
xét lại và Ủy ban Trung ương Đảng đã nhất trí như thế, Giucốp nói, đồng
chí thấy mình có nghĩa vụ của một quân nhân lúc này là sẽ làm tất cả
những gì để khôi phục thật triệt để sự công bằng đối xử với tất cả những
ai xứng đáng như thế, không được bỏ quên và bỏ qua, mà phải phục hồi
phẩm cách của tất cả những chiến sĩ và sĩ quan đã chiến đấu trung thực,
lâm vào cảnh ngộ đau đớn bị bắt làm tù binh. “Suốt những ngày này tôi
suy nghĩ về công việc ấy và thật bận tâm về nó” - Giucốp nói.
Vào ngày lễ kỷ niệm 20 năm chiến thắng phát xít Đức, lần đầu tiên sau 8
năm nghỉ hưu, Giucốp lại cùng với các nguyên soái khác có mặt tại Chủ
tịch đoàn của phiên họp ngày lễ kỷ niệm long trọng này. Đây là một hành
động công bằng. Những người có mặt trong phòng họp, mà chí ít cũng là
chín phần mười trong số họ đã tham gia chiến tranh cùng lĩnh hội như
thế. Họ còn nhớ rõ, Giucốp đã giữ vai trò như thế nào trong chiến tranh.
Trong phiên họp trọng thể này, trong danh sách những người chỉ huy quân
sự, khi đọc đến tên Giucốp mà nhiều năm qua đã không được nhắc đến trên
một diễn đàn nào, cả gian phòng vang dội tiếng vỗ tay tự phát. Tại diễn
đàn này cũng đã từng có nhiều tràng vỗ tay khi đọc đến tên những người
đáng được ca ngợi trong chiến tranh và trong những hoàn cảnh khác, khi
đọc đến tên Giucốp chắc là cũng không được hưởng ứng thật mãnh liệt đến
thế. Cả gian phòng vỗ tay như sấm dậy, biểu lộ sự nhất trí, rằng cái
ngày, cái giờ này, rốt cuộc đã khôi phục lại được sự công bằng lịch sử
mà trong đáy lòng mọi người, ai cũng luôn luôn khao khát.
Tôi nghĩ rằng, Giucốp trải qua cái giây phút sung sướng ấy đối với đồng
chí thật không dễ dàng, bởi trong đó có phần nào sự đắng cay. Những khi
không nhắc đến tên đồng chí ấy, thì thời gian cứ tiếp trôi, mà con
người lại không thể sống mãi. Ai có thể biết được bên cạnh những ý nghĩ
khác, Giucốp lại mảy may không xao xuyến tới một điều đơn giản trong
hoàn cảnh thật tàn nhẫn đối với mình và nói chung liệu có thể sống tới
cái giây phút này.
Tối hôm ấy cho đến tận đêm khuya, Giucốp đã cùng một số người chỉ huy
quân sự tới Cung Văn học ở chỗ chúng tôi tham dự buổi gặp mặt truyền
thống hằng năm với các nhà văn - những người đã tham gia chiến tranh.
Tính tự chủ và sức mạnh của tính cách đồng chí ấy được biểu lộ ở ngay
đây.
Cũng phải nói rằng, cái đêm hôm ấy những người có mặt đều tập trung chú
ý trước hết tới Giucốp. Trong cuộc sống, nhiều người với tấm lòng quá
nhiệt thành có khi không nhận ra mình trong lúc bộc lộ hết cả tấm lòng
đã rơi vào tình trạng thái quá, sẽ đặt người khác vào một tình thế khó
khăn chính bởi những tình cảm ấy.
Cái đêm hôm ấy đúng là như thế. Một số người có mặt trong buổi tiếp đón
tỏ ra sung sướng trước sự công bằng đã được khôi phục, song đồng thời
cũng lại biểu thị sự không công bằng đối với các vị khách quân sự khác.
Có lúc, hầu như họ đã quên sự có mặt của những vị ấy.
Nhưng tôi cảm thấy chính Giucốp lại không một giây phút nào quên những
vị khách ấy, mà bằng chứng là thái độ xử sự của đồng chí và những cộng
sự ấy đang ngồi cùng bàn với mình và những lời nói ngắn mà lúc đầu
Giucốp không định phát biểu, khiến tôi không thể bỏ qua.
Giucốp không nói một lời về bản thân, về sự tham gia chiến tranh của
mình. Đồng chí chỉ nói đến những công lao lịch sử xứng đáng của nhân
dân, của Đảng và quân đội, tiếng nói của một trong những người tham gia
cuộc chiến tranh lớn lao nói về những người khác trong chiến tranh.
Tôi nghĩ, những lời nói ấy đích thực là bài học cho các nhà văn chúng
tôi, những người đã tỏ ra sung sướng và bộc lộ đến quá mức tình cảm của
mình khi thấy Giucốp có mặt. Bản thân tôi cũng ở trong tình trạng đó và
đúng là mình cũng đầy lòng khâm phục con người ấy, con người qua nhiều
từng trải với những phẩm chất thật cao đẹp…”.
22 giờ ngày 8/5/1945 (0 giờ 43 phút ngày 9/5 theo giờ Mátxcơva),
thay mặt nước Đức Quốc xã, thống chế Wilhelm Keitel ký vào định ước xác
nhận đầu hàng không điều kiện. Sau đó, lần lượt đại diện các đoàn Hoa
Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô đều ký vào văn bản định ước. Phía Liên Xô có
Nguyên soái G. K. Zhukov, Đại tướngV. D. Sokolovsky, Trung tướng K. F.
Teleghin và nhà ngoại giao A. Ya. Vysinsky. Đoàn đại biểu quân đội Hoàng
gia Anh do thống chế Arthur Tedderđứng đầu, đoàn đại biểu quân đội Hoa
Kỳ do tướng Carl A. Spaatz đứng đầu. Đại diện cho quân đội Pháp là thống
chế Jean de Lattre de Tassigny.
Ngay sau lễ ký kết định ước, đoàn đại biểu quân sự Liên Xô đã mở
tiệc chiêu đãi các đoàn đại biểu đồng minh. Tại buổi tiệc, các tướng
lĩnh Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô đều bày tỏ lòng mong muốn củng cố và
giữ vững mãi mãi các mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các nước trong
khối đồng minh chống phát xít.
|
(Trích Bút ký về tiểu sử G.C.Giucốp - K.M.Ximônốp - Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 2004)
Nhận xét
Đăng nhận xét