CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 7I/b (Sài Gòn)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Lăng Cha Cả Trước 1975

Sài Gòn – Gia Định một thời để nhớ – Kỳ 3: Bí ẩn Lăng Cha Cả

Ngày trước đi xe, lơ hay hỏi khách: “Ai có đi Lăng Cha Cả không?” để thu tiền vé. Sở dĩ có cái tên Lăng Cha Cả vì nằm ở cuối đường Eyriaud des Vergnes (sau đổi là Trương Minh Ký) nay là vòng xoay Lê Văn Sỹ – Hoàng Văn Thụ (Q.Tân Bình, TP.HCM).

5283786907_3443622470_b
Ngày trước đi xe, lơ hay hỏi khách: “Ai có đi Lăng Cha Cả không?” để thu tiền vé. Sở dĩ có cái tên vì nằm ở cuối đường Eyriaud des Vergnes (sau đổi là Trương Minh Ký) nay là vòng xoay Lê Văn Sỹ – Hoàng Văn Thụ (Q.Tân Bình, TP.HCM).
Nguồn gốc tên gọi…
Trước 1975, tại ngã tư Lê Văn Sỹ – Hoàng Văn Thụ có một khu đất rộng khoảng hai ngàn thước, ở đó có mộ phần giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) là một người Pháp đã sang giúp Nguyễn Phúc Ánh chống lại quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ. Năm 1980, vì địa phương cần chỉnh trang đường lộ thành phố nên toàn phần mộ được dời đi nơi khác. Những người khai mộ lúc đó cho biết khi khai quật, người ta còn thấy đầy đủ cả thánh giá bằng vàng tây lớn với chiếc gậy vàng của giám mục cùng những mề đay của nhà nước Pháp – Nam khi trước đã trao tặng Đức cha Bá Đa Lộc.
Theo tư liệu xưa, Bá Đa Lộc chỉ là tên Việt được phiên âm từ tên Pigneau de Béhaine. Tuy nhiên, có tác giả còn cho rằng: Bá Đa Lộc tức Đức cha Adran. Vậy Adran là tên thật hay chỉ là danh hiệu?
Tài liệu lưu trữ của Hội Thừa sai truyền giáo Paris (Pháp) ghi: Pigneau sinh ngày 2/11/1741 tại làng Origny, tỉnh Aisne (miền bắc nước Pháp). Pigneau còn nhỏ chỉ được theo học tại một chủng viện tại tỉnh nhà Aisne. Học hết tiểu chủng viện, rồi lên Đại chủng viện Paris.
Năm 1765 Pigneau tình nguyện xin đi Viễn Đông để làm nhiệm vụ truyền giáo, và được bổ nhiệm tới VN. Tới nơi, Pigneau làm giáo sư chủng viện tại Hòn Đất thuộc tỉnh Hà Tiên nhưng năm 1770, tình hình đất Hà Tiên bất ổn, vì lúc đó quân Tây Sơn đang hành quân đánh quân Nguyễn Vương (tức Gia Long).



Khung cảnh khu vực Lăng Cha Cả năm 1970. Ảnh: Frederick P Fellers
Khung cảnh khu vực Lăng Cha Cả năm 1970. Ảnh: Frederick P Fellers
Pigneau phải lánh nạn sang Ấn Độ. Pigneau là một linh mục trẻ tuổi, thông minh (đã soạn cuốn Tự điển Việt Nam – La tinh – 1772) nên năm 1771 được Tòa thánh La Mã chọn làm Giám mục phó Tổng tòa địa phận Đàng Trong tại VN. Tới ngày 24/2/1774, Pigneau de Béhaine được nhận lễ tấn phong giám mục, và từ đây Pigneau lấy hiệu tòa là Adran.
Theo thông lệ, khi một linh mục được phong chức giám mục thì phải chọn một tên hiệu gọi là hiệu tòa, nên khi viết về Đức cha Bá Đa Lộc trong sách, báo Pháp viết là L’Eveque d’Adran, hoặc Monseigneur Adran. Tiếng Việt gọi là đức cha hay giám mục. Như vậy, dịch nguyên chữ L’Eveque d’Adran và Đức cha Adran hay giám mục Adran cũng vậy.
Vì vị tu sĩ đứng đầu trong địa phận nên dân gian gọi cha cả. Còn chữ Bá Đa Lộc là phiên âm từ tiếng Trung Quốc sang, lấy từ chữ Pedro (hoặc “Vê rô”) và nếu phiên âm VN là chữ Pedro (Phê rô) mà ngày nay người ta thường dùng.
“Bí ẩn” bia mộ
Mọi người đều cho rằng Lăng Cha Cả là mộ phần nơi chôn xác của Bá Đa Lộc (mất năm 1799) từ đó đến nay. Trong tác phẩm Công giáo Đàng Trong của TS sử học, linh mục Trương Bá Cần, viết: “Giám mục Pigneau được an táng trong một khu vườn lúc sinh thời đã có nhà nghỉ mát của người, hiện nay nằm ở đầu đường Lê Văn Sỹ nơi quen gọi là “Lăng Cha Cả”. Nhà Vua đã cho xây lăng trên ngôi mộ, gồm một nhà lợp ngói, cột và vách bằng gỗ ván quý, có tường bao quanh ở phía trước là một tấm bia đá lớn ghi tiểu sử và công đức của vị giám mục”.



ttung-langchaca-1-1445525846
Lăng Cha Cả ngày nay
Báo Nam Phong tạp chí của Phạm Quỳnh số phát hành tháng 2/1925, trong bài Bá Đa Lộc: “Mộ ông hiện nay ở đâu?“, tác giả Vương Gia Bật bật mí:
Làng Ngọc Hội cách thành phố Nha Trang 3 km ở phía trước mộ có một cái miếu nhỏ hai bên khắc Khắc cốt báo thâm ân. Ở giữa đề chữ “Bá Đa Lộc chi mộ”, cũng bằng chữ Hán, phía sau cái miếu này có khắc cây thánh giá.
Ngày 13/3/1925 quan công sứ và linh mục nhà thờ Bình Can (Nha Trang) đã ra lệnh đào để khám xét, đào mất một buổi mai và nửa buổi chiều mới thấy bên trong, đào lên thời xương mục, lượm lặt được một sàng vung gạo xương đã mục và một cái hàm còn dính 3 cái răng nhưng không phải liền nhau, 2 cái khít một chỗ còn cái kia thì cách khoảng, ngoài ra còn hai, ba cái rơi ra ngoài nữa“.
Như vậy, mộ Đức cha Bá Đa Lộc chôn ở Nha Trang, còn mộ Lăng Cha Cả ở Tân Bình, có lẽ vì thời đó nhà Nguyễn phải lo đối phó nhà Tây Sơn nên việc chôn cất xác Bá Đa Lộc giấu kín không cho ai biết bằng cách làm đám tang thật lớn để che mắt, lại cho dựng lăng ở Gia Định để đánh lạc hướng.
Đến năm 1925, người Pháp mới cho cải táng mả thực của Đức cha Bá Đa Lộc ở Nha Trang, rồi mang cốt về chôn ở Gia Định chỗ nghĩa trang các vị thừa sai Pháp mà trước đó đặt là Lăng Cha Cả.
Lý Nhân Phan Thứ Lang
L.C.Sơn (lược trích)

LỊCH SỬ LĂNG CHA CẢ

Logo nhan vat 1

9 Lang Cha Ca 1LỊCH SỬ LĂNG CHA CẢ

VÀ ĐỨC CHA BÁ ĐA LỘC

Đây là một địa danh vùng Sài Gòn – Gia Định nay không còn nữa thay vào đó là một vòng xoay lớn; đã biến đổi khung cảnh nếu một người nào đó đã từng biết nơi đây và quay trở lại sẽ không còn nhận ra nữa.
Tôi viết bài này để nói về những di tích ngày nay đã còn trong ký ức của người dân Sài Gòn – Gia Định. Hồi còn nhỏ khi nói tới Lăng Cha Cả tôi mường tượng ông là người Việt và tại sao lăng của ông không kết cấu theo đạo Thiên chúa mà lại giống một ngôi đình. Đến khi học sử và tìm hiểu thêm tôi mới rõ về thân thế của ông.
Lăng Cha Cả thời đó nằm ở rìa của phi trường Tân Sơn Nhất; vào những năm đầu của thập niên 60 khi tình hình an ninh cho sân bay chưa có gì vẫn là không gian thoáng nhưng đến năm 1965 thì an ninh không còn bảo đảm toàn bộ khu này chạy dài tới cổng chính sân bay và những rìa khác đều được cách ly bằng những điểm gác và dây kẽm gai được canh phòng cẩn mật.
Sau đây là phần nói về thân thế của Linh mục Pierre Joseph Georges Pigneau mà tôi sưu tầm trên mạng trong trang historicvietnam.com do Tim Doling viết:
1/. Tiểu sử: Pierre Joseph Georges Pigneau của Behaine (tiếng Việt gọi là Bá Đa Lộc), sinh tại Origny Thiérache ở Aisne (Pháp) 9 Lang Cha Ca 2ngày 02 tháng 11 năm 1741 và chết ở Việt Nam ngày 09 tháng 10 năm 1799, là một linh mục truyền giáo người Pháp thuộc hội truyền giáo nước ngoài Paris. Ông là đức Giám mục ở Nam kỳ, ông cũng là nhà ngoại giao Pháp. Ông đã đóng góp rất lớn cho sự tham gia của  Pháp ở Nam Kỳ.
Ông là anh cả của một gia đình có mười chín con, ông theo học tại Laon, sau đó ở Paris tại chủng viện Trente Trois. Ông vào Đại Chủng viện của hội truyền giáo nước ngoài Paris năm 1765.
Ông lên tàu đi làm nhiệm vụ ở châu Á vào ngày 09 Tháng chín 1765. Trước đó ông giảng dạy tại trường của hội truyền giáo nước ngoài lập ra tạm thời tại Hòn Đất năm 1767.
Hai năm sau đó ông trở thành cha cả của trường. Nhưng những năm này vùng Hà Tiên Cam bốt hay bị loạn lạc giặc giã nên các học sinh chủng viện khoảng 40 người được di tản qua Pondichéry Ấn Độ năm 1770 và lập thành chủng viện mới ở đó.
Cũng chính ở Pondichéry năm 1772, mới 31 tuổi, Pierre Pigneaux được phong làm Giám mục d’Adran bởi Giáo hoàng Clement XIV, ông trở thành vị Đại Diện Tông Tòa Nam Kỳ sau cái chết của Đức Giám mục Piguel ngày 21 tháng sáu năm 1771. Piguel được phong thánh ở Madras, 24 tháng 2 năm 1774., kế nghiệp giám mục phụ trách giáo phận Đàng Trong. Pierre Pigneaux gặp Nguyễn Ánh khoảng 1775, phò Nguyễn Ánh trong 24 năm trời.
9 Lang Cha Ca 3Ông chuyển đến Hà Tiên cùng ba linh mục khác vào năm 1775 trong một vùng ở đồng bằng sông Cửu Long có bốn ngàn Kitô hữu. Tại đây ông gặp hai linh mục của hội truyền giáo nước ngoài. Vùng này đang trong cuộc nội chiến gây ra bởi quân Tây Sơn từ 1775 sau đó là Nguyễn Ánh tương lai là Vua Gia Long, đang tập hợp bao gồm chủ yếu là lính người Hoa đến từ Hà Tiên, để lấy lại ngai vàng của mình. Trong năm 1778, cướp biển Cam Bốt tấn công đội truyền giáo, đốt nhà thờ và giết chết nhiều người Kitô hữu. Pigneau nương náu với Bắc chủng viện Sài Gòn, Còn Nguyễn Ánh thì nương náu tại Biên Hòa. Ông trở thành một người bạn thân bảo trợ ngai vàng của đế quốc An Nam.
Nhưng vào năm 1782 quân Tây Sơn chiếm Sài Gòn, giết chết hàng ngàn người. Pigneau phải trốn sang Cam Bốt và sau đó tới đảo Pulo Way Phú Quốc) trong vài tháng. Sau đó, ông đã tìm thấy Nguyễn Anh trong tình trạng tán loạn, thiếu tất cả mọi thứ, thậm chí thực phẩm cho quân đội của mình. Do đó các giám mục chia sẻ thức ăn cuối cùng của mình với họ, và đã cứu sống họ.
Trong lúc đó chớp thời cơ quân Anh cũng như quân Hà Lan ở Batavia chuẩn bị thương lượng việc giúp đỡ cho Nguyễn Ánh, giám mục Pigneau Behaine liền đề nghị một sự hỗ trợ từ phía Pháp. Ông cũng nhận ra rằng Tây Sơn là kẻ thù không đội trời chung của Kitô giáo. Phụ tá của ông Labartette đã viết : 9 Lang Cha Ca 4“Thiên chúa giáo đối với quân Tây Sơn là không thể tồn tại. Nếu triều đại của họ kéo dài, chúng tôi gặp khó khăn lớn trong việc thoát khỏi bàn tay của họ. Họ đã thực sự đã ban hành sắc lệnh đàn áp ở miền đông Nam Kỳ”.
Nguyễn Anh liên minh với vua Xiêm La và bị bại trận. Ông liền gởi chiếc ấn và con trai của mình là hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh lúc đó mới năm tuổi rưỡi cho Pigneau. Pigneau tới Lorient qua ngả Pondicherry vào tháng Hai năm 1787.Các bộ trưởng của cung điện Versaille chưa thật dự nhất trí với đề nghị này chỉ có mình Đức Tổng Giám mục Dillon đầy quyền lực thì nhất trí. Louis XVI cuối cùng đã tiếp kiến giám mục Adran vào đầu tháng 5 năm 1787 và đưa ra một thỏa thuận về nguyên tắc.
Ngày 28 tháng 11 năm 1787, một hiệp ước được ký kết giữa Pháp và đế quốc An Nam tại Versailles bởi bá tước de Vergennes và bá tước de Montmorin đại diện cho vua Louis XVI, và một bên là Nguyễn Phúc Cảnh con tra icủa Gia Long do Giám mục Pigneau Behaine đại diện bảo trợ. Nước Pháp cam kết giúp đỡ Nguyễn Ánh lên ngôi, thay vào đó Pháp nhận được cảng Tourane, đảo Pulo Condor và đặc biệt là thương mại độc quyền với Pháp. Pigneau trở về ngày 27 Tháng 12 năm 1787 với hoàng tử trẻ tuổi và tám nhà truyền giáo.
Tuy nhiên Nguyễn Ánh không nhận được sự trợ giúp về người vì hiệp ước không được thi hành. 9 Lang Cha Ca 5Vì vậy Giám mục Pigneau Behaine đã tự quyên góp tiền từ các thương gia có ý định đặt cơ sở buôn bán ở Đại Việt cùng với số tiền 15.000 franc Pháp của gia đình mình cho, đem mua súng đạn và tàu chiến và tuyển ba trăm năm mươ ithủy thủ và hai mươi tình nguyện viên sĩ quan hải quân, trong đó bao gồm Olivierde Puymanel, Jean – Baptiste Chaigneau, Philippe Vannier và Jean – Marie Dayot. Những người hợp thành quân đội của Nguyễn Ánh và xây dựng thành lũy ở Vauban một trong những thành lũy lớn nhất ở Sài Gòn.
Tháng 7 năm 1789, Pigneau Behaine cùng Nguyễn Phúc Cảnh về đến Gia Định. Trớ trêu thay, cũng trong tháng đó, nhân dân Pháp đã làm cuộc cách mạng lật đổ triều đại phong kiến Louis. Giám mục Pigneau Behaine chết ngày 09 Tháng 10 năm 1799 trong cuộc bao vây và ngay trước khi cuộc chinh phục của pháo đài Quy Nhơn thành trì cuối cùng của quân Tây Sơn. được đưa về Gia Định vào ngày 16 tháng 10, thi hài của Pigneau đã được đặt trong Dinh Tân Xá và đã nằm trong trạng thái như 9 Lang Cha Ca 6vậy trong một tháng.
Một kiến trúc sư người Pháp tên là Barthélemy được giao nhiệm vụ xây dựng theo phong cách triều Nguyễn lăng mộ ở làng Tân Sơn, trong khi Thái tử Cảnh đã được giao phó sắp xếp chi tiết cho lễ tang. Mặc dù các chiến dịch đang diễn ra tại Quy Nhơn, chúa Nguyễn Phúc Ánh tự thực hiện một chuyến để xuôi nam đến Gia Định để tham dự tang lễ của Pigneau vào ngày 16 Tháng Mười Hai 1799.
Petrus Ký mô tả cách thức rước từ Dinh Tân Xá đến lăng mới xây dựng vào khoảng hai giờ sáng ngày 16 tháng 12 năm 1799.
“Một thánh giá lớn, làm từ những chiếc đèn lồng khéo léo sắp xếp ở đầu đám rước, theo sau là một kiệu điêu khắc công phu màu đỏ và vàng,  9 Lang Cha Ca 7trên cao là một bục trang trí công phu và có bốn người khiêng.”Đầu tiên đặt một tấm bia mang các nhân vật 皇 天 主 宰  (Huang tiān zhǔ zǎi hoặc Hoàng thiên chúa tể, có nghĩa là “Sovereig Lord of Heaven”) bằng những chữ vàng. Thứ hai chứa một hình ảnh của St Paul và một hình ảnh thứ ba của St Peter, người bảo trợ của các giám mục Adran. Thứ tư chứa đựng hình ảnh của các thiên thần hộ mệnh và thứ năm là một hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria.
Sau đó hình mẫu  đo khoảng 15 feet chiều dài và được làm từ vải gấm hoa,trên đó có thêu chữ vàng các danh hiệu của giám mục Adran do vua nước Pháp và Chúa của Đàng Trong [Nguyễn Phúc Ánh], cũng như những người của văn phòng giám mục của Ngài tặng. Sau đến các phù hiệu của các vị giám mục, thập giá được đặt ở phía trước của chiếc xe tang. Ở hai bên của kiệu là những người Kitô giáo và giáo sĩ từmọi nhà thờ ở Nam Kỳ.
Xe tang chở thi thể  giám mục là dài khoảng 20 feet chiều dài, chở 80 người đàn ông tuyển chọn, và được bao phủ bởi một mái vòm vàng thêu.” Trên đó đặt “quan tàitráng lệ … .. phủ bằng vải gấm hoa đẹp và được bao quanh bởi 25 ngọn nến thắp sáng lớn. ” 
9 Lang Cha Ca 8

2/. Cuốn tự điển Việt – Latinh của Pierre Pigneaux : Ngoài công việc là nhà truyền giáo, phò vua Gia Long, ông còn có một công trình đóng góp cho tiếng Việt quan trọng là đã có công soạn cuốn tự điển tiếng Việt mang tên Dictionarium Anamitico Latinum vào năm 1773 và được Jean-Louis Taberd xuất bản năm 1838, chú bằng chữ Latin, chữ Quốc Ngữ, chữ Nôm và chữ Nho. Cuốn tự điển này nguyên bản nay còn giữ ở Thư khố Hội Truyền giáo Ngoại quốc tại Paris. Cuốn từ điển Việt-LaTinh làm trong thời gian Pigneaux ở Pondichéry, nghĩa là chỉ 5 năm sau khi Pigneaux tiếp xúc với Việt Nam.
Như vậy Pigneaux phải có một sức làm việc, một óc tổ chức và một khiếu về ngôn ngữ có tầm cỡ. Pigneaux lại được một nhóm người phụ trợ đắc lực, như nhà nho Trần Văn Học (Việt Nam), Mạn Hoè (người Pháp, tên Manuel), Nguyễn Văn Chấn (người Pháp, tên Dayot), Nguyễn Văn Thắng (người Pháp, tên Vannier), Gia Đô Bi 9 Lang Cha Ca 10(gốc Tây Ban Nha), Ma Nộ Y (người Tây Ban Nha)…
Hài cốt của Giám mục Pigneau Behaine được thờ ở Lăng Cha Cả cho đến hết thời nhà Nguyễn sang chính thể Việt Nam Cộng hòa. Năm 1983 chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cải táng mộ phần, san bằng khu lăng cổ và trao di cốt lại cho lãnh sự Pháp đem hồi hương. Di cốt khi về lại Pháp được đem chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris.
 (nguồn: ThaoLQĐ)

Sài Gòn - Gia Định một thời để nhớ - Kỳ 4: Chuyện chợ xưa

0 Thanh Niên

Người dân Nam bộ có câu vè: “Chợ không đàn bà là chợ Cầu Ông Lãnh”. Tréo ngoe là ngôi chợ này mang tên người đàn ông nhưng người họp chợ lại đa số là đàn bà.

Người dân Nam bộ có câu vè: “Chợ không đàn bà là chợ Cầu Ông Lãnh”. Tréo ngoe là ngôi chợ này mang tên người đàn ông nhưng người họp chợ lại đa số là đàn bà.




Chợ Thái Bình ngày nay xây dựng trên khu đất chợ trời đầu tiên ở Sài Gòn - Ảnh: Quỳnh Trân
Chợ Thái Bình ngày nay xây dựng trên khu đất chợ trời đầu tiên ở Sài Gòn - Ảnh: Quỳnh Trân
Chợ mang tên đàn ông
Chợ Cầu Ông Lãnh vốn nằm trên đường Nguyễn Thái Học, Q.1, TP.HCM, được xây cất năm 1929. Chợ chuyên bán những loại trái cây tươi như cam, bưởi, quýt, dừa, dưa hấu, ổi, xoài và các thứ rau sống. Hàng được các ghe thuyền từ lục tỉnh chở lên đổ cho các chủ vựa ở chợ.
Chủ vựa bán sỉ hàng lại cho dân buôn bán ở các chợ nhỏ trong phố về bán lại. Chợ họp suốt ngày đêm nhưng từ nửa đêm tới sáng là đông và nhộn nhịp nhất. Cạnh chợ Cầu Ông Lãnh còn có một ngôi chợ nhỏ gọi là chợ Cầu Muối, chuyên bán cá tươi, tôm, cua… cũng do các ghe chài mang lên. Tuy nhiên, người ta vẫn hay gọi chung khu này là chợ Cầu Ông Lãnh, vì hai ngôi chợ sát nhau, cùng gần một nơi có cây cầu mang tên Ông Lãnh.
Lý do có cái tên này vì nơi đây có con rạch (nói là rạch chứ khi trước ghe thuyền đi lại ra cửa sông lớn rất rộng). Từ cuối đường Nguyễn Thái Học khi muốn qua bến Vân Đồn, khu Khánh Hội, Q.4, người ta phải dùng ghe mới sang được. Lúc đó có một ông Lãnh hảo ý đã bỏ tiền ra làm một cây cầu gỗ để dân chúng đi lại cho thuận tiện. Sau này, đến năm 1929, người Pháp cho xây dựng lại cây cầu bằng xi măng dài 120 m, do một hãng làm cầu của Pháp thiết kế. Đến nay, cây cầu đã gần một thế kỷ nên bị hư hỏng và đã được xây dựng lại.
Nhiều người thắc mắc: Ông lãnh ở đây là ông lãnh binh hay lãnh sự? Vì ở gần rạch này phía Chợ Lớn cũng có dinh của một viên lãnh sự VN là ông Nguyễn Thành Ý ở. Phải chăng cây cầu được dựng lên do một nhân vật tên tuổi tại địa phương nên người ta gọi là Cầu Ông Lãnh? Hay ông lãnh sự Thành Ý lúc đó cũng có hảo tâm đã góp tiền dựng nên cầu này cho dân chúng đi?
Cuối cùng, giả thuyết thứ hai nói tiền xây dựng cây cầu này là do một lãnh binh bỏ tiền ra nên người địa phương nhớ công ơn đặt cho tên cầu là cầu “Ông Lãnh” là thuyết phục hơn cả. Nhưng tên thật của “Cầu Ông Lãnh” này là gì thì không có sách báo nào từ xưa tới nay ghi lại. Người viết bài này phải tìm tới đình Nhơn Hòa, Q.1 thăm hỏi thì vị trụ trì cao niên ở đây cho biết: “Đình Nhơn Hòa đã được xây dựng hơn 150 năm, vào khoảng thế kỷ 19 và đã được sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5 (1852). Đình được xây dựng theo lối kiến trúc xưa, có chính diện, võ ca, nhà túc mang sắc thái của một ngôi đình làng cổ đang thờ ba vị thần: Thành hoàng bổn cảnh (thần làng), thần Trần Triều hiển thánh, tức Linh vị đức Trần Hưng Đạo và thờ lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (một vị tướng của triều Nguyễn, trấn giữ đồn Thủ Thiêm - Cây Mai, chống lại quân Pháp khi chúng tấn công thành Gia Định)... Năm 1885, học giả Trương Vĩnh Ký có viết: “Chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh gần đó cho bắc qua, chắc là ông lãnh Binh Thăng này chứ không phải ai khác”.
Vậy, ông lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng có lẽ chính là nhân vật đã được người dân đặt tên cho cây cầu cùng ngôi chợ cũ nổi tiếng và được thờ trang trọng ở đình Nhơn Hòa để ghi ơn. Hiện nay tên ông Lãnh Binh Thăng còn được đặt cho một con đường ở Q.11, TP.HCM.
Ngôi chợ trời đầu tiên tại Sài Gòn
Người Việt ta vốn dễ dãi khi đặt tên, từ tên nhân vật thành tên địa phương như một ngã ba ở khu Chí Hòa, có một ông tên là Tạ. Ông này làm nghề bốc thuốc, hiệu thuốc của ông đặt ở ngã ba nên mấy chục năm qua, tên ngã ba Ông Tạ được nhiều người biết đến dù trong giấy tờ hành chính không ghi. Địa danh Gò Vấp cũng vậy. Từ gần một thế kỷ qua, ở khu vực này có một cái gò nhiều cây vắp lớn, một loại danh mộc nên người địa phương kêu là Gò Vắp, đọc trại lâu ngày trở thành Gò Vấp. Cứ như thế, nhiều địa danh Sài Gòn xưa được dân gian hóa, như tên các ngôi chợ trời dưới đây.
Nếu miền Bắc có chợ trời đầu tiên ở núi Sài Sơn, tỉnh Sơn Tây, thì miền Nam cũng có chợ đầu tiên ở đất Bến Nghé. Ngôi chợ này người dân quen gọi là chợ Chồm hổm hay chợ Lộ thiên, nằm trên một bãi đất trống gần dinh thành Ô-ma của Pháp. Ngày xưa chợ này họp vào buổi sáng, người cắp bửng, thúng, rau, thịt, hoa quả tới bán và không dựng quán, tủ, sập. Người mua kẻ bán cũng chỉ là những người dân địa phương và có tên gọi rất lạ: chợ “Cây da thằng mọi”. Trong tập Cổ Gia Định vịnh có ghi rõ: “Cây da thằng mọi, coi bán đủ thuốc xiêm cau mứt. Cái cầu Cao Miên thấy làm nguyên cột vắp ván chai”.
Xin đừng vội suy đoán nơi đây có người mọi làm nên ngôi chợ hay một người mọi coi chợ. Mọi là danh từ người Tây phương gọi những dân tộc ít người ở miền núi. Nguyên do là chỗ chợ có một cây đa to lớn, tán lá sum suê, và ở chợ này có bán một thứ đồ dùng trong nhà mà ở chợ khác không có là một loại đèn thắp bằng dầu đậu phộng hoặc dầu dừa, làm bằng đất nung. Kiểu đèn nắn hình một người hai chân quỳ và hai tay chắp lại, trên đỉnh đầu thì đội thếp dầu (lúc đó người ta cứ gọi chung là người mọi).
Ngôi chợ trời đầu tiên “Cây da thằng mọi” sau này được xây dựng lại và có tên mới, rất ý nghĩa là chợ Thái Bình (nằm góc Nguyễn Trãi - Cống Quỳnh, Q.1, TP.HCM).

Khám phá đường cống 150 năm tuổi, cổ nhất Sài Gòn

0 Thanh Niên Online
Tại TP.HCM và Hà Nội có khoảng 200 km cống vòm dưới lòng đất có độ tuổi hơn 100 năm, được xây dựng từ thời Pháp thuộc. Trong đó, hệ thống cống vòm tại TP.HCM được xem là cổ nhất, gần 150 năm tuổi, có chiều dài khoảng 100 km, được người Pháp xây vào năm 1870.

(TNO) Tại TP.HCM và Hà Nội có khoảng 200 km cống vòm dưới lòng đất có độ tuổi hơn 100 năm, được xây dựng từ thời Pháp thuộc. Trong đó, hệ thống cống vòm tại TP.HCM được xem là cổ nhất, gần 150 năm tuổi, có chiều dài khoảng 100 km, được người Pháp xây vào năm 1870




Khám phá đường cống 150 năm tuổi, cổ nhất Sài Gòn - ảnh 1

10 giờ sáng ngày 10.6, chúng tôi khám phá hệ thống cống vòm cổ nhất Sài Gòn, nằm dưới lòng đường Đồng Khởi và Nguyễn Du (Q.1).

 


Khám phá đường cống 150 năm tuổi, cổ nhất Sài Gòn - ảnh 2

Khi vừa đặt chân xuống miệng cống vòm tại góc ngã tư Nguyễn Du – Đồng Khởi, khí metan nồng nặc sộc vào mũi. Theo lời của các công nhân thuộc Trung tâm Điều hành chương trình chống ngập nước TP.HCM, người có sức khỏe yếu nếu hít phải loại khí này có thể ngất xỉu, thậm chí là tử vong.



Khám phá đường cống 150 năm tuổi, cổ nhất Sài Gòn - ảnh 3

Tại TP.HCM có khoảng 932 km cống cũ, trong đó có gần 100 km cống vòm, tập trung nhiều nhất tại Q.1, 3, 5 và Q.6. Đường cống vòm đoạn lớn nhất có đường kính gần 2 mét rưỡi, cao gần 2 m; nhỏ nhất có đường kính và chiều cao vào khoảng 0,5 m.



Khám phá đường cống 150 năm tuổi, cổ nhất Sài Gòn - ảnh 4

Riêng đường cống vòm dưới lòng đường Đồng Khởi, Nguyễn Du... có đường kính khoảng 1 m, cao khoảng 1,5 m. Mực nước dưới cống khoảng từ 5-10 cm, nơi sâu nhất khoảng 20cm.



Khám phá đường cống 150 năm tuổi, cổ nhất Sài Gòn - ảnh 5

Đường cống từ nhà thờ Đức Bà, dọc đường Đồng Khởi đến ngã tư Lê Thánh Tôn – Đồng Khởi có chiều dài khoảng 100m. Sát 2 mép đáy cống loang lổ, có chỗ bị nước khoét sâu vào hai bên. Bề mặt phía trong đường cống được gia cố bằng một lớp xi- măng.



Khám phá đường cống 150 năm tuổi, cổ nhất Sài Gòn - ảnh 6
Có những chỗ gạch đã bị bong tróc. Đặc biệt, có nhiều thanh sắt đã gỉ sét, nhọn bén lú ra, nhấp nhô xung quanh đường cống này.


Bên trong hệ thống cống vòm này có 2 loại sinh vật phổ biến, là: dán và cá. Nếu dán bám trụ ở bề mặt đường cống, các hóc thì dưới nước có khá nhiều cá trê.



Khám phá đường cống 150 năm tuổi, cổ nhất Sài Gòn - ảnh 7

Hệ thống cống vòm này cách mặt đường khoảng 3m, nếu áp tai vào thành cống có thể nghe tiếng động của xe cộ đang lưu thông. Hệ thống cống này đang là con đường thoát nước chính của khu vực.

Chuyện Ông Lãnh và 5 bà vợ nức tiếng Sài Gòn

Chợ Bà Chiểu, Bà Hạt, Bà Điểm, Bà Quẹo, Bà Hom thân thuộc với người Sài Gòn được cho là tên của 5 người vợ vị tướng Lãnh Binh Thăng.



Chợ cầu Ông Lãnh (quận 1), Bà Hạt (quận 10), Bà Quẹo (quận Tân Bình), Bà Chiểu (Bình Thạnh), Bà Hom (Bình Tân) và Bà Điểm (huyện Hóc Môn)... là những địa danh nổi tiếng, có lịch sử hàng trăm năm gắn với nhiều thế hệ người Sài Gòn. Tuy ở những vị trí khác nhau, nhiều chợ đã đổi tên nhưng người bản địa ngày nay ai cũng rành rọt các địa danh này.
5-zpsad6dc58c.jpg
Chợ cầu ông Lãnh xưa. Ảnh: Panoramio.
Học giả Trương Vĩnh Ký, một trong 18 nhà bác học thế giới thế kỷ 19 cho rằng, Ông Lãnh là vị lãnh binh tên Nguyễn Ngọc Thăng (1798-1866), võ tướng nhà Nguyễn thời vua Tự Đức. Ông thuộc thế hệ tham gia chiến đấu chống Pháp đầu tiên của Nam Kỳ. Còn 5 người phụ nữ được đặt tên chợ ở Sài Gòn vốn là các bà vợ của ông. Những vị quan đa thê thời xưa thường áp dụng phương pháp kinh tế tự túc nên vị lãnh binh đã lập 5 chợ ở khu vực khác nhau, giao cho mỗi bà cai quản một cái. Việc này tránh các bà đụng mặt nhau, đồng thời chuyên tâm làm kinh tế.
Lãnh binh Thăng quê ở Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, từng tham gia các trận đánh ở đồn Cây Mai, đồn Thủ Thiêm và vùng phụ cận khi quân Pháp chiếm thành Gia Định. Ông nổi tiếng với chiến dịch Mù U gây tổn thất nặng cho địch. Về sau ông phối hợp với nghĩa quân Trương Định ở Gò Công tiếp tục chống Pháp.
Năm 1866, tướng Thăng tử trận ở Gò Công, được đưa về an táng tại quê nhà. Hiện, ông được thờ với vị Thành Hoàng và đức Trần Hưng Đạo ở đình Nhơn Hòa, đường Cô Giang (quận 1). Ngôi đình gần cây cầu và chợ mang tên ông. Ngoài ra, tên Lãnh Binh Thăng cũng được đặt cho một con đường tại quận 11.
cau-ong-Lanh-ok-9177-1442809816.jpg
Ảnh đầu tiên về cầu Ông Lãnh do Raymond Cauchetier chụp năm 1955. Ảnh bên phải chụp cầu khi kênh Tàu Hủ, Đại lộ Đông Tây chưa được xây dựng. Ảnh dưới là cầu Ông Lãnh hiện nay.
Về cây cầu mang tên Ông Lãnh, nhà bác học Trương Vĩnh Ký khẳng định "chiếc cầu gỗ do ông Lãnh binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh Binh Thăng này, chớ không phải ai khác". Cây cầu này đầu tiên (nối đại lộ Đông Tây ngày nay) bắc qua một con rạch nhỏ. Khi rạch bị lấp, cây cầu mới nối bến Chương Dương (quận 1) và Bến Vân Đồn (quận 4).
Năm 1874, một ngôi chợ được xây ở khu vực này, mang tên chợ Cầu Ông Lãnh. Nơi đây tàu ghe tấp nập từ miền Tây theo sông Sài Gòn vào kênh Tàu Hủ buôn bán. Chợ được chia làm 3 khu vực: bán trái cây, bán cá và bán tạp hóa.
Năm 1971, chợ bị hỏa hoạn lớn thiêu rụi hoàn toàn, sau đó dần phát triển lại. 28 năm sau, chợ lại bị cháy lớn, thiêu rụi hơn 200 căn nhà. Từ đó, tiểu thương chuyển sang buôn bán nơi khác, chợ Cầu Ông Lãnh dần biến mất. Ngày nay, chợ Cầu Ông Lãnh vẫn còn buôn bán nhưng quy mô rất nhỏ nằm trên đường Nguyễn Thái Học (quận 1).
Trong các chợ do vợ của ông Lãnh quản lý, Bà Chiểu là một trong những ngôi chợ lâu đời ở Sài Gòn. Sơ khai là chợ xổm, năm 1942, chợ được xây lên với diện tích gần 8.500 m2, nằm ở trung tâm quận Bình Thạnh. Năm 1987, chợ được nâng cấp, sửa chữa. Đến nay, chợ có khoảng 800 hộ, kinh doanh khoảng 40 mặt hàng.
Cố nhà văn Sơn Nam cho rằng, Bà Chiểu là tên vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự Đức. Chiểu có nghĩa là ao nước thiên nhiên. Bà Chiểu là "nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên".
Chợ nổi tiếng thứ hai đồng thời gắn với nhiều địa danh ở Sài Gòn là Bà Điểm. Chợ thuộc xã Bà Điểm huyện Hóc Môn, nơi có 18 thôn vườn trầu nổi tiếng. Theo Trương Vĩnh Ký, chợ Bà Điểm bán nhiều mặt hàng nhưng nổi tiếng nhất là trầu cau có độ ngon nức tiếng được trồng ngay tại vùng.
Trong năm ngôi chợ, năm 1978, chợ Bà Quẹo được đổi tên thành Võ Thành Trang, nằm trên đường Trường Chinh thuộc phường 14 (quận Tân Bình). Tuy đổi tên nhưng phần lớn người dân vẫn gọi bằng cái tên dân dã "Bà Quẹo". Đây vốn là chợ đầu mối thu mua nông sản từ Củ Chi, Hóc Môn, Long An...
cho-ba-chieu-ok.jpg
Chợ Bà Chiểu năm 1968 và hiện nay. Ảnh: Panoramio.
Tuy nhiên trong cuốn "Sài Gòn năm xưa", học giả Vương Hồng Sển lại cho rằng nên thận trọng khi cho "Ông Lãnh" và "Bà Chiểu", Bà Điểm", "Bà Hom", "Bà Hạt", "Bà Quẹo" là vợ chồng.
Bởi theo ông, Bà Hạt, Bà Điểm, Bà Chiểu có thể là người đầu tiên buôn bán tại các chợ này, sau lấy tên đặt cho chợ. Giống như chợ Bà Hoa ở khu ngã tư Bảy Hiền (quận Tân Bình), do người đàn bà tên Hoa đã hiến đất xây chợ và là người đầu tiên buôn bán nên người ta lấy tên bà đặt cho ngôi chợ.
Lý giải về Bà Hom, có sách chép rằng do Bàu Hom (bàu ngâm hom tre) nói chệch thành. Còn tên Bà Quẹo cũng đọc chệch từ Bờ Quẹo hoặc Bàu Quẹo vì khu này có một khúc quẹo rất rõ. Từ quẹo vốn cũng được đặt cho nhiều địa danh như Cống Quẹo ở xã Phạm Văn Hai (huyện Bình Chánh) hay lộ Quẹo tại huyện Cần Giờ.
Ở Sài Gòn, còn nhiều tên người được gắn cho địa danh như ở quận Bình Thạnh có cầu, chợ và kênh mang tên Thị Nghè. Người này vốn tên Nguyễn Thị Khánh, con gái quan khâm sai Nguyễn Cửu Vân. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí viết rằng, "do có chồng là thư ký mỗ, nên người đương thời gọi là Thị Nghè. Do bà khai hoang đất ở, bắc cầu để tiện việc đi lại, nên dân gọi là kênh, cầu Thị Nghè".
Ngoài ra, thành phố còn nhiều tên gọi mang tên ông, bà khác như Ông Tố, Ông Bổn, Bà Lài, Bà Tàng, Bà Chiêm...
Sơn Hòa

Lăng Cha Cả 45 năm trước

Lăng Cha Cả được nhiếp ảnh gia người Mỹ Frederick P Fellers ghi lại năm 1970.

1.jpg
Toàn cảnh Lăng Cha Cả do nhiếp ảnh gia người Mỹ Frederick P Fellers chụp năm 1970.
2.jpg
Tuy là người Pháp nhưng lăng mộ Bá Đa Lộc mang kiến trúc Việt với mái ngói. Trụ lăng làm bằng gỗ quý.
7.jpg
Tấm bia ghi công trạng của giám mục Bá Đa Lộc đặt trước lăng.
3.jpg
Bàn thờ chính với phù điêu hình huy hiệu giám mục của Bá Đa Lộc.
5.jpg
Trong lăng có người ngày đêm canh giữ, hương khói.
4.jpg
Hành lang khu lăng mộ.
8.jpg
Bên trên mộ của Bá Đa Lộc, di cốt sau khi giải tỏa lăng được đưa về Pháp năm 1983.
Ảnh: Frederick P Fellers

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH