Thứ Năm, 8 tháng 7, 2021

TT&HĐ IV - 34/d

 
4 đồ hình thần bí của Á Đông lưu truyền ngàn năm đến nay nhân loại vẫn chưa hiểu thấu

PHẦN IV:     BÁU VẬT 
 
"Dọc đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt lên, đánh bóng..."
NTT 
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.” 
 
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng niềm hạnh phúc này.
D. Henziut
 
Những người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự trong lòng khoan khoái.
Ngạn ngữ Trung Quốc 
 

Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua. 

Rene Descartes

Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người. 
 Voltaire 
 
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách. 
 Plato 

“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.” 
 
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
 Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
  
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi

CHƯƠNG II: Ngọc Bích

“Bằng cách ở mỗi hiện tượng tự nhiên của cái riêng lẻ, cái qui ước, và ngẫu nhiên, chúng ta hướng mắt tới cái phổ quát, cái khách quan và tất yếu, thì chúng ta tìm cái độc lập đằng sau cái lệ thuộc, cái tuyệt đối đằng sau cái tương đối, cái vĩnh cửu đằng sau cái vô thường. Và như tôi nhìn thấy, cái khuynh hướng này biểu lộ không những trong vật lý học, mà còn trong mỗi ngành khoa học, vâng không chỉ trên lĩnh vực khoa học, mà còn trên lĩnh vực của cái thiện và cái mỹ”.
Max Planck

"Mọi phát kiến của nhân loại đều có bàn tay hướng dẫn của Toán học, bởi vì chúng ta không thể có một người chỉ đường nào khác".
Charles Darwin

"Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy lôgic”
Albert Einstein 

"Thậm chí ngay cả trong trò chơi của con trẻ cũng có những điều khiến nhà toán học vĩ đại nhất phải quan tâm".
Gottfried Wilhelm Leibniz

"Toán học là kết quả của lao động sáng tạo, được phát sinh từ cố gắng nhận thức tự nhiên vì cuộc sống. Nó được xây dựng nên từ sự khám phá những biểu hiện có tính qui luật của sự vận động và biến hóa của vật chất. Nhưng con người đã không ngờ rằng họ đồng thời cũng xây dựng nên một khối hoa cương toán học mà ở dạng thuần túy, nghĩa là vô vật chất hóa, nó còn nói về sự chuyển hóa không gian, tức là nói về vận động của Tự Nhiên Tồn Tại." 

NTT


 

 

(Tiếp theo)


Trong nhận thức về thế giới của người Ấn Độ xưa, Cái Ấy hay Cái Một là yếu tố nhỏ nhất làm nên vạn vật và cũng là Vũ Trụ. Trong nhận thức của người Trung Hoa cổ xưa, Cái Một được thay bằng "Thái Cực", cái vừa nhỏ nhất vừa lớn nhất làm nên hình tượng thế giới vạn vật. Tuy nhiên quan niệm Trung Hoa xưa còn đưa ra một ý niệm nữa là Vô Cực. Vô Cực làm ra Thái Cực, có Thái Cực mới xuất hiện Lưỡng Nghi, Vạn Vật và Hiện Tượng. Kế thừa xuất sắc những tư tưởng có cốt lõi đúng đắn đó (mà nhiều khả năng được rút ra từ những ý niệm về một thế giới lưỡng phân lưỡng hợp của người Việt phương Nam cổ xưa) và cùng với những chiêm nghiệm, suy tư trác tuyệt của mình, Lão Tử (cũng có thể là người Bách Việt) đã xây dựng được một học thuyết triết học soi rọi rất đúng về thực tại. Trên nền tảng học thuyết đó, ông cũng đã giảng giải có phần súc tích nhưng rất hay, rất tài, một cách chung nhất mà lại gần chân lý nhất về các hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội, hơn nữa còn có những lời khuyên chí lý, chí tình về lối sống cũng như cách đối nhân xử thế hồn nhiên, bình dị và lành mạnh của một con người có đạo đức trong xã hội.
Vô Cực là gì? Không ai biết đích xác! Người ta chỉ nói về nó một cách mơ hồ. Họ cho rằng nó là một cái gì đó mông lung, vô định hình, mang đượm màu sắc tinh hoa hun đúc nên Thái Cực.
Theo chúng ta mường tượng, biểu diễn quan hệ giữa Thái Cực và Vô Cực tương tự như 1và O. Nếu Thái Cực là 1 thì Vô Cực là O. O là không có gì nhưng không phải Hư Vô. Từ O mà có 1, mà làm nên 1. Mối quan hệ 1 - O là mối quan hệ cơ bản làm nên Vũ Trụ! Ví dụ thái cực của nước là phần tử nước. Không có phần tử nước sẽ không có nước. Nhưng cái làm nên phần tử nước là cái gì? Rõ ràng đó không là cái gì cả, hay có thể nói là từ cái tinh hoa, là từ vô cực. Ngày nay chúng ta biết nước được tạo thành từ Hyđrô và Oxy.

       Yin yang.svg                                
                     Một đồ hình phổ biến của "thái cực"
Thái Cực chẳng những là căn nguyên Kinh Dịch, mà còn là căn nguyên vũ trụ, Vạn Hữu.
Dịch Kinh viết về vũ trụ khởi nguyên bằng những lời lẽ hết sức vắn tắt như sau:
Dịch hữu Thái Cực, thị sinh Lưỡng nghi: Lưỡng nghi sinh Tứ tượng: Tứ tượng sinh Bát quái v.v...
Nói nôm na là: Thái Cực sinh tinh thần, vật chất, vũ trụ, vạn vật  Chu Liêm Khê (1017 - 1073) là vị Tống Nho có công làm sống động lại quan niệm Thái Cực của Dịch Kinh. Liêm Khê tin rằng: trong vũ trụ có một rất huyền diệu, uyên thâm, bất trắc, biến hóa vô phương, tuy vô hình, vô trạng, vô xú, vô thanh, nhưng chính là căn bản của vạn vật: Đó là Thái Cực.
Thái Cực hay Lý là khu hữu, là trục cốt vạn vật, Vạn Hữu. Chu Liêm Khê gọi: Thái Cực là Vô Cực ; ngụ ý rằng Thái Cực vô hình thể, là một hoạt lực, một huyền năng vượt tầm tri giác của ngũ quan.
Chu Liêm Khê viết thiên Thái Cực đồ thuyết luận về Thái Cực và sự khởi nguyên của Vạn Hữu. Thiên này bắt đầu bằng một câu bất hủ: Vô Cực nhi Thái Cực.
Thiệu khang Tiết (1011 - 1077) gọi căn nguyên vũ trụ là Nhất. Nhất ấy chính là Thái Cực. Đối với Thiệu tử, Thái Cực cũng là Đạo, là Hoàng Cực, là Tâm. Tất cả những danh từ đó đều là nhân tạo, để chỉ định Nguyên Thể vũ trụ.
Ông còn cho rằng Thái Cực chẳng ở đâu xa, Thái Cực ở ngay trong tâm hồn con người, là Tâm con người. Ông viết: Tâm là Thái Cực, Đạo là Thái Cực. Thái Cực khi chưa sinh vạn vật thì gọi là Tiên Thiên. Khi Thái Cực đã bắt đầu hoạt động, phân hóa để tạo dựng quần sinh thì gọi là Hậu Thiên.
Thiệu khang Tiết còn lập ra Tiên Thiên đồ, lấy các con số để vẽ lại sự sinh hóa của vũ trụ. Ông dùng số 1 tượng trưng cho Thái Cực. Tiên Thiên đồ của Thiệu Tử tựu trung cũng giống như Thái Cực đồ bản của Chu Liêm Khê, tuy một bên thời dùng số, một bên thời dùng tượng, để mô tả Thái Cực và công cuộc sinh hóa quần sinh Vạn Hữu.
Đối với Trình Di (1033 - 1107) thì Thái cực, hay Đạo, hay Lý, hay Khí Chân Nguyên cũng là một.
Chu Hi (1130 - 1200) đàm luận rất nhiều về Thái Cực. Đại khái, Chu Hi gọi Thái Cực là Lý có trước trời đất, đã sinh ra trời đất vạn vật, và hằng lồng trong trời đất vạn vật.  Chu Hi cho rằng Vô Cực hay Thái Cực vẫn chỉ là một thực thể vô thanh, vô xú, làm khu hữu cho trời đất, muôn loài.
Phát huy cái khái niệm Thái Cực - Vô Cực đó, NTT đã xây dựng nên một quan niệm cho rằng vạn vật đều được hình thành nên từ những thành tố gọi là Đơn Vị, mà Đơn Vị lại được hun đúc nên từ Không Gian, mà Không Gian là Thái Cực lớn nhất. Không thể tưởng tượng được một cục sắt lại không được tạo lập từ đơn vị sắt. Nhưng đơn vị sắt hình thành nên nhờ cái gì, nghĩa là không thể hình dung được vật chất lại được sinh ra từ Hư Vô. Vậy chỉ còn một khả năng, đơn vị sắt được xây dựng nên từ nguyên tử. Rốt cuộc, đơn vị sắt phải được xây dựng nên từ không gian, cái Vô Cực. Quan niệm như thế, thoạt nghe thấy quá phi lý, nhưng ngẫm kỹ thì thấy tột cùng chí lý!
Đơn vị là phần tử nhỏ nhất làm nên vật thể và khi còn mang những đặc tính cơ bản nhất của vật thể theo một qui ước nào đó. Nhìn ở góc độ khác hoặc qui mô khác, phần tử đó lại là vật thể được xây dựng nên từ loại đơn vị nào đó nhỏ hơn. Cứ thế, đi sâu mãi xuống tận cùng vi mô thì đơn vị làm nên vật thể càng nhỏ và giới hạn tột cùng của sự nhỏ chính là hạt KG, hay để tỏ rõ sự nhỏ hơn, chúng ta có thể gọi là điểm KG (không gian). Tất cả những Đơn Vị to, nhỏ đó, khi chưa đạt được giá trị tuyệt đối đều được gọi là Ngũ Hành, hay Thái Cực tương đối. Trong một khung cảnh qui ước nhất định nào đó có thể phân biệt theo qui ước thành Thái Cực và Ngũ Hành.
Thái Cực nhỏ nhất là điểm KG, Thái Cực lớn nhất là Vũ Trụ, nhưng theo quan niệm của NTT thì ở góc độ khác, hai Thái Cực đó là như nhau nên không hề là to, nhỏ so với nhau (không phân biệt được!). Có thể hình dung chúng là nhau và là duy nhất mà cũng… không phải thế: khi Vũ Trụ là vô vàn thì nó là những điểm KG và khi điểm KG là Cái Một vĩ đại thì nó là Vũ Trụ. Tự nhiên Tồn tại “đỏng đảnh” đến cỡ đó đấy! Lão Tử bối rối là phải khi ông nói: “Ta không biết tên nó là gì, tạm gọi là Đạo vậy, miễn cưỡng cho nó là lớn vậy”
Trước quan sát, thu nhỏ cái vô cùng lớn tương tự như đưa nó đi vô cùng xa, phóng đại cái vô cùng nhỏ tương tự như đưa nó đến vô cùng gần. Vậy có thể mường tượng, cái Một mà chúng ta đang quan sát thấy là Vũ Trụ nhìn ở khoảng cách vô cùng gần và điểm hình học là Vũ Trụ đượ "nhìn thấy ở khoảng cách vô cùng xa. Tuy nhiên, năng lực quan sát của con người là hạn chế dù được hỗ trợ bằng những thiết bị (được chế tác từ loại vật chất tầng nấc làm nên con người) phóng đại siêu hạng đến mấy chăng nữa. Năng lực quan sát đó vì thế là bị chặn, có giới hạn và con người vĩnh viễn không bao giờ thấy được tận cùng của cái vô cùng lớn cũng như tận cùng của cái vô cùng nhỏ. Tuy nhiên dù rằng không thể thấy chúng trong thực tại, nhưng vì con người may mắn (hay xui xẻo?) được Trời - Đất ban cho tư duy trừu tượng cho nên trước sau gì cũng sẽ "phải" thấy được chúng trong nhận thức, trong tư tưởng, mà nói theo Thiền thì là Ngộ (ngộ nhận!) được chúng!
Vậy có thể coi Đơn Vị là các thành tố cấu thành nên vạn vật. Có hai loại Đơn vị là Đơn vị tuyệt đối và Đơn vị tương đối. Đơn vị tương đối là những phần tử làm nên các loại vật chất cụ thể. Ví dụ như phần tử muối, phần tử sắt phần tử thịt bò...Đơn vị tuyệt đối chính là các hạt KG. Hạt KG là phần tử làm nên không gian và cũng là yếu tố làm nên các loại Đơn vị tương đối khác. 
Đơn Vị được qui ước là những thứ mà con người có thể thấy được trong thực tại. Nghĩa là Thái Cực được qui ước là thấy được, còn Vô Cực là không thấy được trong thực tại. Ngày nay, con người đã quan sát được đến tầng hiện hữu các nguyên tử, điện tử, prôtôn… và các hạt cơ bản khác. Chúng ta coi đó là những Đơn Vị và chúng thấy được, làm nên thế giới vạn vật - hiện tượng “của con người” và chúng ta gọi chúng là những Thái Cực nhỏ nhất của thế giới ấy. Vì không thể quan sát thấy nên điểm KG và không gian đều là những Vô Cực. Cũng theo quan điểm này thì có thể coi Vũ Trụ là một thể gồm 2 bộ phận tương phản đối ứng, lưỡng phân mà lưỡng hợp gọi là Hiện Hữu và Vô Hữu(có thể trống rỗng, nhưng không phải Hư Vô!), hay Vạn Vật và Không Gian. Không có Không Gian thì không có Vạn Vật và không có Vạn Vật thì vẫn có thể "cảm nhận" được nhưng không “thấy được” Không Gian.
Về mặt nhận thức thì nếu không có vạn vật - hiện tượng, sẽ không có số học, không có không gian thì không có hình học, không có số học và hình học thì không có toán học, không có toán học thì không có vật lý học nói riêng và toàn bộ khoa học tự nhiên nói chung. Điều lạ lùng là dù triết học vẫn cứ khăng khăng rằng Vũ Trụ là vô tận ở cả hai chiều vô cùng lớn và vô cùng nhỏ, và cả toán học lẫn vật lý học hầu như đều tin như vậy thì bản thân chúng lại chỉ có thể hình thành nên từ một đơn vị mà chúng cho là nhỏ nhất, và hàng loạt kết quả mà chúng dẫn dắt ra dù có vẻ là vô tận ở vô cùng lớn (vô cùng xa) nhưng nhiều chỉ thị lại ám chỉ về tính hữu hạn. Về điều này chúng ta có thể nêu ví dụ. Đối với số học thì đơn vị nhỏ nhất là số 1. Nếu không có số 1 thì không biết số học sẽ hình thành nên như thế nào! Chúng ta có tỷ số:


(Số 3 nhiều vô kể!)
Kết quả của tỷ số này có vẻ “nói” về sự vô tận. Thế nhưng nếu chúng ta coi những con số của kết quả là những bước chân của 1 người đi đến vô tận thì đó là những bước chân ngắn dần:
1 > 0,3 > 0,03 > 0,003 > ………,
Nghĩa là tỷ số giữa chặng hành trình sau với chặng hành trình kế trước đó sẽ càng gần tới 1 khi càng gần tới vô tận:
Điều đó ám chỉ rằng sẽ có lúc tổng chặng hành trình sau bằng tổng chặng hành trình trước (vì tỷ số giữa chúng bằng 1), nghĩa là cuộc hành trình phải kết thúc, không thể “tiến lên” được nữa. Thế thì phải quan niệm như thế nào về sự kết thúc trong vô tận?
Đối với hình học thì đơn vị nhỏ nhất của nó được gọi là “điểm”. Không có điểm làm tiền đề thì cũng không thể “vẽ” được hình học. Giả sử có 2 đường thẳng song song a và b. Rõ ràng là chúng không bao giờ gặp nhau dù là ở vô tận. Thế nhưng nếu tại điểm A trên đường thẳng a, vẽ một đường thẳng c lập với a một góc a, thì đường thẳng c cắt đường thẳng b tại điểm B (hình 1). Nếu cho góc a nhỏ dần đi mãi thì điểm B sẽ phải “hành trình” đến vô tận. 
Hình 1: “Vấn nạn” đường song song.
Thế nhưng a có thể nhỏ đến mức nào, có thể là nhỏ đến vô tận không khi mà khoảng mặt phẳng giới hạn bởi hai đường a và b là hữu hạn? Ở đây sự nhỏ vô tận đã rất mâu thuẫn với trực giác. Chúng ta thấy rằng sự cắt nhau của 2 đường (có thể là bất kỳ) có hai trường hợp đặc biệt gọi là giới hạn. Trường hợp thứ nhất là chúng chỉ cắt nhau tại một điểm duy nhất và trường hợp thứ hai, cắt nhau trên toàn bộ các điểm tạo nên chúng (sự trùng nhau). Vậy thì sự vận động của đường thẳng c sẽ có lúc đạt đến giới hạn là trùng với đường thẳng a và như vậy a phải bằng 0. Điều này cho phép chúng ta quan niệm rằng a giảm dần đến một trị số nào đó gọi là đơn vị nhỏ nhất làm nên góc a, vượt qua trị số giới hạn này, nó sẽ bị loại khỏi mặt phẳng giới hạn giữa 2 đường song song đó. Lúc này sẽ có 2 khả năng xảy ra ở vô tận: hoặc là đường thẳng c vẫn cắt đường thẳng b (nghĩa là a và b cắt nhau tại B ở vô tận) hoặc c không còn cắt b nữa. Vì a và b là song song nên theo quan niệm Ơcơlít, điểm B không tồn tại ở vô tận là “gần với hiện thực” hơn. Như vậy, ở vô tận sẽ xảy ra một biến cố có tính đột ngột, “nhảy vọt” từ “cắt” đến “không cắt”, từ sự đang “tồn tại yên ả” bỗng nhiên biến mất tăm của B. Hình dung sự kiện đó như thế nào đây? Từ Tồn Tại biến thành không Tồn Tại, trái với quan niệm của triết học duy tồn. Thật là khó khăn! Hơn nữa nến a đạt trị tới hạn thì b (xem hình 1) cũng đạt trị tới hạn và khi vượt qua giá trị đó thì c cũng phải trùng với đường b, nghĩa là 3 đường a, b, c trùng nhau. Ba đường a, b, c lúc đầu rõ ràng là không trùng nhau, đồng thời lại phải trùng nhau chỉ vì sự tồn tại của điểm B là một nghịch lý gây “chán nản” vô cùng. Để tạm loại bỏ cái nghịch lý này, thì phải cho rằng điểm B luôn tồn tại một khi c không trùng với a và khi a đạt đến giới hạn của sự nhỏ vô cùng (bằng đơn vị của nó) thì B cũng là điểm giới hạn của vô cùng xa. Khi a vượt qua giá trị tới hạn theo hướng vô cùng nhỏ, (thì đáng lẽ nó trở về vô cùng lớn - trường hợp đường c trùng với a và như vậy cũng coi như không thể xác định được giá trị của a, tuy nhiên chúng ta đã ra điều kiện loại bỏ trường hợp này để cho B tồn tại, cho nên) nó sẽ đạt đến giá trị được coi là lớn nhất của nó hay là giá trị tương phản với giá trị đơn vị theo cách phân định qui ước (-a). Lúc này, điểm B cũng sẽ là điểm “tận cùng thế giới” nhưng ở “phía bên kia”, gọi là phía tương phản. Trong trường hợp khác, hai điểm B giới hạn ấy có thể là ảo - thực của nhau và thậm chí là 1 điểm.
Đối với vật lý học, nếu không có đơn vị chất điểm (với điều kiện nhỏ nhất để có thể bỏ qua) thì chắc chắn cơ học cổ điển sẽ rất khó khăn trong sự hình thành ra những biểu thức làm nền tảng cho nó; không có đơn vị lượng tử năng lượng thì không thể giải quyết được vấn đề của vật đen tuyệt đối, và cũng sẽ không thể có được cơ học lượng tử. Chúng ta thấy các tác dụng xa đến vô tận của chúng, nhưng sự yếu dần đi của chúng theo hướng vô tận lại ám chỉ rằng sẽ đến một khoảng cách, giới hạn nào đó mà khi vượt qua đó tương tác của chúng sẽ mất tác dụng, sẽ không còn tồn tại nữa (bằng 0).
Ngày nay trong khoa học tự nhiên, còn đầy rẫy những mâu thuẫn, nghịch lý nảy sinh từ nhận thức về tính vô tận cũng như từ những nhận thức thuộc loại tính chất khác của Tự Nhiên. Dù thế thì khoa học tự nhiên vẫn “sống chung với lũ”, rầm rộ tiến bước và đạt được biết bao nhiêu thành quả đáng nể. Hình như tình trạng đó chính là sự biểu hiện đồng thời hai mặt trái ngược hay nói cho đúng hơn là tính lập lờ, nước đôi của Tự Nhiên? Có lẽ đã đến lúc phải công nhận cái bản chất ấy cũng chính là thực tại để điều chỉnh lại cho chúng hoàn thiện hơn và tiến nhanh hơn về phía trước tới giới hạn của sự tuyệt mỹ và cũng là chân lý cuối cùng và đích thực về Tự Nhiên Tồn Tại.
Quả thực, Đơn Vị, dưới tên gọi là Thái Cực luôn là những viên ngọc bích của vạn vật mà ngọc bích long lanh nhất, thiêng liêng nhất, vô giá, ngọc bích làm nên mọi ngọc bích, chính là hạt KG…

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét