TT&HĐ IV - 35/g
Tỷ Lệ Vàng Fibonacci - Bí Ẩn Về Sự Hài Hòa Của Vũ Trụ
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này.
D. Henziut
D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái.
Ngạn ngữ Trung Quốc
Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người. Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG III (XXXV): KIM ÂU
“Không
một bài toán nào gây băn khoăn sâu sắc cho loài người bằng bài toán về
sự vô cùng. Không một ý tưởng nào có tác động mạnh mẽ lên ý thức bằng ý
tưởng về sự vô cùng. Và, cũng không có khái niệm nào lại mù mịt như khái
niệm vô cùng”.
D. Gilbert
“Toán học là ngôn ngữ Chúa viết trong vũ trụ”
Galileo Galilei
“Không có toán học chúng ta không thể đi sâu vào triết học. Không có
triết học chúng ta không thể đi sâu vào toán học. Không có cả hai chúng
ta không thể đi sâu vào bất cứ thứ gì”
Gottfried Leibniz
"Đấu
tranh sinh tồn hun đúc nên tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng đẻ ra
triết học. Khi nhận thức triết học được định lượng và định dạng thì toán
học ra đời. Không có toán học trong thực tại, loài người vĩnh viễn mù
lòa, nhưng khi toán học bay lạc ra ngoài thực tại, loài người trở nên
bất định, hoang mang, phạm sai lầm trong nhận thức Vũ Trụ".
NTT
NTT
(Tiếp theo)
Tuy
nhiên, khi các nhà thông thái toán học kinh viện, “mài đũng quần” trong
Thế giới Z, hạ cố bước ra khỏi thế giới ấy, trở về thăm lại Trần thế
sống động một phen thì thấy đầy rẫy những hiện tượng thể hiện bài toán
nan giải ấy và lạ lùng hơn nữa là ngay cả những gã nhà quê khờ khạo
nhất, chưa từng biết đến “một chữ bẻ đôi” (đại loại như gã nông dân “Trời sinh ra
thế”), cũng giải quyết được bài toán “đau đầu” ấy bằng cách rất ổn thỏa
mà cũng có khi vui vẻ đến không ngờ. Chúng ta xin tóm lược vài ba dạng
biểu hiện thực tế của bài toán cũng như cách giải của người trong cuộc.
-
Chồng chung vợ chạ: điển hình là chuyện ông Táo, hai ông “chiếm hữu”
một bà. Hai ông Táo đã “chia hai” bà Táo bằng cách… dùng chung (tức là
bà Táo trở thành công hữu!). Như thế thì đâu có thấy bài toán “chia hai”
được giải quyết? Không, bài toán thực sự đã được giải quyết, chỉ có
điều chúng ta khó thấy: hai ông Táo đã “qui” bà Táo ra thời gian và
“chia đôi” thời gian… sử dụng.
-
Có hai anh em nhà nọ đã ra ở riêng, khi cha mất họ được chia gia tài là
1 con trâu cày. Con trâu là sức cày chủ yếu nên không thể giết nó mà xẻ
thịt. Hai anh em bèn bán nó đi, lấy tiền mua 2 con trâu khác nhỏ hơn và
chia nhau, mỗi người một con.
-
Một người có 1 chiếc đũa tre không làm sao gắp thức ăn được, ông ta bèn
lấy dao chẻ chiếc đũa ra làm hai và được một đôi đũa mới, vừa ăn uống
ngon lành, vừa gật gù đắc chí: “Một nửa thì cũng là 1”.
Quá trình quan sát thực tế đã làm cho các nhà toán học kinh viện sáng mắt ra: bài toán 1 : 2 là thực sự có nghiệm ở Trần thế:
Và phép toán nghịch của nó cũng được thực hiện mỹ mãn:
1 “nửa” x 2 = 1 “nguyên”
Vì
thông thái hơn những gã nhà quê, nên các nhà toán học (đã từng mê muội
Thế giới Z), trên cơ sở đó đã đi xa hơn nhiều trong tư duy trừu tượng.
Họ xác định rằng vì có 2 lần số 1 “nửa” mới bằng số 1 “nguyên” nên rõ
ràng nó nhỏ hơn số 1 “nguyên”. Nhưng vì số 0 (sự trống vắng vĩ đại!)
được cho là chẳng ra gì cả nên nó cũng là số nhỏ nhất tuyệt đối của số
nguyên. Vì số 1 là đơn vị nhỏ nhất của số nguyên và số 0 là cơ sở để số 1
xuất hiện nên khoảng giữa số 0 và số 1 sẽ là nơi lấp đầy của các số
không phải số nguyên, nhỏ hơn 1 và là lực lượng vô hạn hợp thành vô hạn số 1. Tương tự như vậy, giữa số 1 và 2, giữa số 2 và 3,...cũng có vô hạn số nhỏ hơn 1, mà nếu tổng hợp chúng lại thì sẽ bằng 1. Từ đây,
kết luận đầu tiên và đương nhiên của các nhà toán học đó, là: tương tự
như phải chấp nhận sự xuất hiện của số 0, số âm và số dương làm cho Thế
giới N “lớn lên” thành Thế giới Z, cần phải chấp nhận những số tồn tại ở
giữa khoảng số 0 và số 1 là những con số phục vụ tính toán, nếu muốn cho
toán học sát thực, hoàn hảo hơn. Người ta tạm gọi chúng là những số
không nguyên nhỏ hơn 1 và số 1 “nửa” là một loại thuộc về chúng. Nhưng thật là phi lý và trái với trực quan là giữa hai số đếm kế tiếp rõ ràng là hữu hạn lại tồn tại một lực lượng số vô hạn!
Đẳng
thức toán học cho biết rằng số 1 “nguyên” là gấp 2 lần số 1 “nửa” cho
nên có thể nói: 1 “nửa” là một phần hai của số 1 “nguyên” và ký hiệu là ½
(
). Nếu đã có đẳng thức:
1 “nửa” x 2 = 1 “nguyên”,
thì cũng có thể viết được một cách tổng quát hơn:
1 “không nguyên” x z = 1 “nguyên”
(với z là một số nguyên nào đó)
Nghĩa là đã có số không nguyên ½ thì cũng sẽ có vô vàn các số không nguyên khác, như:
…
Và luật đầy đủ cũng cho phép suy tưởng rằng đã có
thì cũng phải có
đến
, chẳng hạn là:
Sự
suy tưởng của con người hầu như là vô hạn độ. (Nhưng không phải vì con
người có quyền năng vô hạn độ mà vì Tự Nhiên Tồn Tại là đầy đủ và vì thế
mà đồng thời Tự Nhiên Tồn Tại cũng vô hạn độ. Suy nghĩ về Tự Nhiên Tồn Tại vô hạn độ là suy nghĩ quá sức của tư duy trừu tượng. Con người có ngông cuồng
đến mấy thì cũng không bao giờ suy tưởng ra được cái mà Tự Nhiên Tồn Tại
không có. Tự Nhiên Tồn Tại có tất cả, kể cả “không có gì”! Nhưng suy tưởng thì cứ suy tưởng. đó là điều khó hiểu nhất của bộ não người). Do vậy, đã
suy tưởng ra số không nguyên nhỏ hơn 10 thì con người cũng đặt vấn đề
về số không nguyên lớn hơn 1 (rồi lớn hơn 2, lớn hơn 3…).
Đã
có số không nguyên trong khoảng giữa 0 và 1 thì cũng có số không nguyên
ở trong khoảng giữa 1 và 2, giữa 2 và 3, giữa 3 và 4… Vì 1 phải thêm 1
nữa mới có 2, cho nên giữa 1 và 2 cũng tồn tại các số không nguyên. Tuy
nhiên chúng luôn lớn hơn 1 và nhỏ hơn 2. Vậy có thể coi số không nguyên
giữa 1 và 2 là một hợp số gồm hai thành phần là số 1 và số không nguyên
nhỏ hơn 1. Giả sử có số không nguyên nhỏ hơn 1 là ½, thì số không nguyên
có thành phần ½ trong khoảng giữa 1 và 2 là:
(Đọc là một và một phần hai và gọi thành phần sau là phân số)
Trong
Thực tại ảo có “bằng chứng” nào xác nhận rằng những con số không nguyên
sinh ra từ sự suy tưởng là thực sự tồn tại không? Không những có mà té
ra lại là một hiện tượng có tính tổng quát. Nếu chúng ta lấy 3 đem chia
cho 2, sẽ có:
Tương tự:
Điều
đó cho thấy nếu lấy 2 số nguyên bất kỳ chia cho nhau, chúng ta đều có
kết quả (hoặc nguyên hoặc không nguyên), đồng nghĩa với việc bài toán
chia nào giữa các số nguyên với nhau cũng đều được thực hiện.
Các
nhà toán học đã gọi chung số nguyên lẫn số không nguyên là số hữu tỷ và
xây dựng nên Thế giới Q với qui ước rằng phép chia trong thế giới ấy
cũng mang tính độc lập.
Khi có một phân số là :
thì
người ta gọi b là “mẫu số” và a là “tử số”. Mẫu số chính là tổng số
phần mà 1 đơn vị (hay một số nguyên nào đó) bị phân chia ra, và tử số là
số (đơn vị) phần được chú ý, quan tâm (được lấy ra, rút ra…) tới. Chẳng
hạn, một ông bạn hảo tâm có một con heo quay đem chia làm 3 phần bằng
nhau (chắc là phải dùng dao thôi, mà có lẽ cũng khó ra phết đấy nhé!) và
tặng cho chúng ta một phần để còn lại hai phần thì về mặt toán học, đó
chính là thực hiện bài giải:
3 phần – 1 phần = 2 phần
Và tổng số 3 phần đó vẫn bằng một con heo quay nên lúc này 1 con heo quay là 3/3, do đó:
Tuy nhiên sau khi chia con heo quay ra làm 3 phần bằng nhau, ông bạn của chúng ta thấy một phần (
) của con heo quay đó nhiều quá, có ý tiếc, bèn tuyên bố: “Thôi, tao chỉ cho chúng mày
con heo quay thôi. Nhưng tao mệt quá rồi! Chúng mày tự chia lấy đi!”.
Con heo quay đã bị phân làm 3 phần rồi, biết tiếp tục phân sao đây để có được
con
heo quay mang về nhậu cho bõ tức mà không làm “bầy nhầy” thịt heo:
Chúng ta đành phải làm toán cho chắc chắn trước khi phân chia lại con
heo quay:
Ngay từ đầu, nếu chia con heo đó ra làm 7 phần và chúng ta lấy 1 phần thì ông bạn sẽ còn lại
con heo, nghĩa là:
Nhưng
làm sao bài toán trừ trên cho ra kết quả đó? Làm sao có thể chia 3 phần
đã lỡ thành 7 phần (tương đối) bằng nhau để khỏi mang tiếng là ăn gian
hoặc dốt nát?
Nói
chia 3 phần bằng nhau ra làm 7 phần bằng nhau đồng nghĩa với việc phân
chia lại 3 phần đó thành những phần bằng nhau nhỏ hơn sao cho có một số
lượng “phần” mới chia “hết” được cho 7. Chúng ta biết có nhiều số chia
hết cho 7 bắt đầu từ 3 trở đi, ví dụ như 7, 14, 21, 28, 35, 42,…
Chia
3 phần thành 7 phần mới là tốt nhất, đỡ “nát” miếng thịt, nhưng làm sao
chia? Tương tự như vậy, làm sao chia cho 14 để rồi lấy 2 phần của 14 đó
đem về
?
Có thể chia 3 phần ra làm 42 phần không, vì nếu được như thế, chúng ta sẽ lấy 6 phần từ 42 phần đó đem về
? Có thể chia được vì:
42 : 3 = 14
(nghĩa là có thể chia mỗi phần của 3 phần thành 14 phần bằng nhau để rồi lấy đi 6 phần).
Có
thể thấy rằng bài toán đã được giải quyết. Chúng ta có thể lấy 1 phần
của 3 phần đã lỡ chia, đem chia thành 14 phần (tương đối đều nhau) rồi
lấy 6 phần trong số đó đem về đánh chén.
Tuy nhiên, nghĩ lại, chúng ta thấy cách giải đó chưa tối ưu vì:
nghĩa
là chỉ cần chia 1 phần của 3 phần cũ thành 7 phần như nhau rồi lấy 3
phần đem về (vừa đỡ tốn nhiều công sức vừa có những miếng thịt “nguyên
lành” hơn).
Chia 1 phần cũ thành 7 phần mới thì một cách toán học, chúng ta đã phân chia con heo quay ra làm:
3 x 7 = 21 phần.
Khi lấy đi 3 phần trong số đó, cũng coi như chúng ta đã lấy đi:
Vậy:
Từ
thực tế đó mà toán học đưa ra qui tắc: Khi cộng (trừ) các phân số, nếu
chúng có cùng mẫu số thì chỉ việc cộng (trừ) các tử số như bình thường,
trong trường hợp chúng không cùng mẫu số thì trước khi thực hiện cộng
(trừ) các tử số, phải thực hiện “qui đồng mẫu số”, nghĩa là tìm một số
chia hết được cho các mẫu số, để làm mẫu số chung rồi điều chỉnh các tử
số sao cho các phân số vẫn không bị thay đổi tỷ số (vẫn mang giá trị ban
đầu). Trong các số có thể làm mẫu số chung có một số nhỏ nhất được gọi
là “mẫu số chung nhỏ nhất”. Thí dụ:
Trong
bài toán trên, mẫu số chung là 48, thế nhưng nó chưa phải là mẫu số
chung nhỏ nhất vì vẫn có số 12 nhỏ hơn nó chia hết cho 2, 4 và 6. Có thể
chọn số 12 làm mẫu số chung và vì nó là số nhỏ nhất chia hết cho 2, 4, 6
nên cũng được gọi là mẫu số chung nhỏ nhất:
Đối với việc nhân một số nguyên với một phân số thì thật dễ dàng, vì chẳng hạn có:
Nhân các phân số với nhau cũng dễ dàng không kém ví chẳng hạn:
Đối
với phép chia thì chúng ta đã qui ước là trong Thế giới Q, nó có thể
tồn tại độc lập, nghĩa là lấy bất cứ hai số hữu tỷ nào chia cho nhau
cũng cho kết quả là số hữu tỷ. Nhưng có cần phải qui ước như vậy không,
hay hỏi khác đi: phải chăng đó chính là một qui luật của Thế giới Q?
Chúng ta thấy thế này:
- Nếu có 2 chia cho 1 bằng 2 lần thì vì 1 bằng 2 lần ½ nên cũng phải có 2 chia cho ½ bằng 4 (lần):
hay tổng quát: 
- Vì có
nên cũng có:
Hay tổng quát là:
…
-
Tóm lại: Một số hữu tỷ nhân với một số hữu tỷ sẽ có kết quả là số hữu
tỷ. Một phép nhân số hữu tỷ nào cũng có phép toán chia tương xứng với
nó. Phép nhân được thực hiện trọn vẹn với bất cứ cặp số hữu tỷ nào nên
phép chia cũng được thực hiện trọn vẹn với bất cứ cặp số hữu tỷ nào.
Chính vì điều đó mà phép chia trong Thế giới Q mang tính độc lập, có thể
xuất hiện và được thực hiện trọn vẹn mà không cần đến một điều kiện cho
trước nào.
Có thể cho rằng cách viết:
là
cách viết tổng quát của số hữu tỷ. Nếu a chia hết cho b (cho ra số
nguyên c) thì đó là số hữu tỷ nguyên, nếu không chia hết thì đó là số
hữu tỷ phân số. Bất cứ số nguyên nào cũng viết được dưới dạng phân số vì
có thể chia nó cho 1 (vẫn bằng chính nó). Cũng từ đây mà thấy rằng số
hữu tỷ cũng bao gồm số nguyên, số dương và số âm, tuy nhiên với qui ước
số nguyên cũng là số dương thì có thể nói số hữu tỷ bao gồm số dương, số
âm và số 0.
Đối
với các nhà toán học đi tiên phong thì cách viết số hữu tỷ như trên vẫn
làm cho họ “ấm ức” vì sự thể hiện không dứt khoát, vẫn rất “ỡm ờ” của
nó. Về mặt suy luận, đã phải thừa nhận nó là một “con số”, nhưng trực
quan thì vẫn thấy nó là một phép chia chưa được thực hiện (đến cùng), mà
đã là phép chia thỏa mãn Thế giới Z thì cũng có nghĩa phải “chia hết”
để cho ra một kết quả thực sự được gọi là “số” (hữu tỷ). Sự trăn trở đó
của các nhà toán học đã thai nghén và cho ra đời một dạng số mới làm cho
Thực tại hạng hai, dù là… hạng hai, về mặt nào đó, kỳ ảo hơn cả thực
tại “hạng nhất” - Vũ Trụ. Loại số không nguyên được thực hiện khi phân
số được chia hết đó, được gọi là số “thập phân” (số có thành phần nhỏ
hơn 1 trong hệ cơ số 10).
Họ đã làm như thế nào để có số thập phân?
Chúng ta hãy nêu ví dụ:
Chẳng hạn có phân số 5/4. Đó cũng là bài toán chia và người ta có kết quả:
Một
phân số muốn chia hết thì điều kiện tiên quyết là tỷ số phải lớn hơn
mẫu số và điều kiện thứ hai là có kết quả thỏa mãn Thế giới Z (số
nguyên). Để thỏa mãn 2 điều kiện đó, chúng ta có thể nhân kết quả trên
cho 4 rồi chia cho 4:
và về chốn cũ, quê xưa. Đúng là suy nghĩ thì khôn ngoan nhưng hành động thì “gà què ăn quẩn cối xay”.
Các nhà toán học giỏi hơn, họ không nhân và chia cho 4 mà cho 10:
Nhìn kết quả có phần rườm rà và “xấu xí” hơn cả dạng ban đầu làm chúng ta
phì cười, có ý chê bai. Nhưng các nhà toán học, vì đã biết chắc được
tương lai tươi sáng nên họ bình tĩnh, tiếp tục nhân và chia kết quả đó
cho 10 nữa, và được:
Được
kết quả đó, các nhà toán học suy ra, chính là họ đã vô tình qui ước 1
là 100. Muốn vừa thể hiện sự qui ước đó, vừa báo rằng 100 đó thực ra chỉ
là 1, các nhà toán học đã nghĩ ra dấu “phẩy” (ký hiệu “,”) ngăn cách
giữa số 1 và hai số 0:
1,00
và thỏa thuận rằng những số sau dấu phẩy là nhỏ hơn 1, lớn hơn hoặc bằng 0, nghĩa là nếu có số a đứng sau dấu phẩy thì:
0 ≤ 0,a < 1
(Người Anh không dùng dấu phẩy mà là dấu chấm (“.”). Dám chơi ôtô tay lái ngược thì chuyện đó đối với họ chả có gì phải ầm ĩ!)
Đến đây bài toán chia được các nhà toán học giải như sau:
Sự
xuất hiện số thập phân là một tất yếu khách quan trong quá trình nhận
thức Thế giới ảo. Nó làm cho Thế giới Q, tưởng hoàn toàn chắc nịch hóa
ra không chắc nịch; làm cho tính rời rạc đến minh bạch của thế giới ấy
không còn có thể “dấu diếm” nổi cái “mặt trái” của nó là tính liền lạc
và liên tục. Khi chúng ta chia 3 cho 2, sẽ có kết quả hữu hạn là 1,5 và
gọi quá trình đó là sự chia hết một cách triệt để. Nhưng khi chúng ta
chia 2 cho 3 thì theo qui ước cho thế giới Q, đó cũng phải là một sự
chia hết để cho ra số hữu tỷ. Thế mà chúng ta lại nhận được một kết quả
lạ lùng là:
Theo
định nghĩa thì đó là một số hữu tỷ, chỉ có điều phần thập phân của nó
lặp lại vô hạn vì chia hoài không bao giờ hết. Nếu loại những số có phần
thập phân kiểu như trên ra (người ta gọi là phần thập phân vô hạn tuần
hoàn) khỏi Thế giới Q (với qui ước rằng chúng không phải số hữu tỷ) thì
phép chia của Thế giới ấy là không hoàn toàn độc lập và vì vậy, sẽ trái
với sự thỏa thuận ban đầu.
Để hòa giải sự
xung đột, nhằm bảo vệ Thế giới Q cùng với tính nhất quán của nó, chúng
ta phải làm một điều khôn ngoan duy nhất là công nhận những số thập phân
loại đó là số hữu tỷ, và chúng cũng là kết quả của sự chia hết (dù
không triệt để). Những số thập phân vô hạn tuần hoàn cũng nhiều vô kể
như các số hữu tỷ khác. Chúng ta ngay lập tức và dễ dàng viết ra đây vài
số:
Hiện
tượng hai số lượng rời rạc (nên cũng hữu hạn) chia cho nhau, tạo ra một
số liên tục, vô hạn nhưng luôn nhỏ hơn một số hữu tỷ khác 0 nào đó được
gọi là giới hạn không thể đạt tới của nó, là một sự kiện gây ra sự nghi
ngờ ghê gớm. Thật khó mà hình dung nổi một Vũ Trụ giới hạn vì không
biết cái gì tồn tại sau giới hạn đó. Đành phải nghĩ đến một Vũ Trụ vô
hạn. Nhưng nếu coi Vũ Trụ là vô hạn thì cũng không hình dung nổi thế nào
là nhỏ vô hạn. Phải chăng nhỏ vô hạn là nhỏ đến không còn gì cả? Nếu
vậy thì dù sao nhỏ vô hạn vẫn có giới hạn là nhỏ không còn gì cả. Còn
nếu không phải vậy thì như thế nào gọi là nhỏ hơn cái nhỏ không còn gì
cả? Hay Vũ Trụ là hữu hạn ở vô cùng nhỏ và vô hạn ở vô cùng lớn? Quan
niệm như thế sẽ thấy một điều kỳ quặc hơn nữa: đó là một Vũ Trụ rời rạc
và lớn đến không có bên ngoài, được tạo thành từ vô số những cái nhỏ
không có gì cả! Không có gì cả thì làm sao mà có chúng ta… ở
đây? Rốt cục thì tư duy phải đi đến sự nhận thức cuối cùng rằng: nhìn ở
góc độ này thì Vũ Trụ hữu hạn, ở góc độ kia thì Vũ Trụ vô hạn, đồng
thời là cả hai mà có lúc không phải cả hai.
Thực
tại ảo là hình ảnh của Thực Tại khách quan được nhận thức “chung” lại
(một cách không hoàn hảo bằng “công cụ” có đặc tính máy móc, siêu hình
không khắc phục nổi là hệ thống các khái niệm và qui ước), nên sớm muộn
gì nó cũng phải phản ánh ra đặc tính nước đôi của Tự Nhiên Tồn Tại. Thế
giới số học là thuộc về Thực tại ảo, cho nên dù lúc đầu nó được nhận
thức xây dựng trên cơ sở của sự rời rạc và hữu hạn thì rồi sớm muộn nó
cũng phải bộc lộ ra tính liên tục và vô hạn.
Biết
trước là phải như thế rồi, tuy nhiên lúc này đây, chúng ta vẫn hoàn
toàn bị bất ngờ trước sự “xử sự” giữa các số hữu tỷ với nhau. Thật khó
lòng mà hiểu nổi từ sự “tương tác” của hai số hữu tỷ hữu hạn (hoàn toàn
được xác định về số lượng) lại sinh ra một số hữu tỷ vô hạn (không thể
xác định chính xác số lượng), và ngược lại, hai số hữu tỷ vô hạn “tương
tác” nhau lại cho ra một số hữu tỷ hữu hạn. Kỳ quặc quá phải không?
Nhưng biết làm sao được khi những hiện tượng đó chính là sự phản ánh của
tồn tại (dù là ảo) và chúng ta không còn cách nào khác là phải cố mà
“nuốt trôi” chúng?
Chúng
ta quan niệm rằng Thực tại ảo cũng là một hình thức tồn tại và đồng
thời là bộ phận của Tồn Tại. Do đó nó cũng là bộ phận Không Gian vận
động, chuyển hóa một cách đặc thù dưới dạng tạm gọi là Nhận Thức (đã trở
thành) khách quan, biểu hiện ra trước nhận thức chủ quan, và được hình
thành tương tự như cách thức hình thành của Thời Gian. (Cầu mong Thầy
Cãi đừng có lảng vảng ở đâu đây để rồi lại sinh chuyện lôi thôi!).
Nghĩ
như thế để chúng ta đừng hốt hoảng nữa và tin đây là một niềm an ủi lớn
lao cho mình: Vì thuộc về Thực tại ảo nên thế giới Q chỉ tồn tại trong
Thực tại ấy và không thể tồn tại ở Thực tại khác (nhưng không phải hóa
thành Hư Vô đâu đấy nhé!). Con voi mà để “trần truồng” quăng ra khỏi Thế
giới Trái Đất (lên Mặt Trăng chẳng hạn) thì nó phải chấm dứt tồn tại,
có thể trở thành hư vô của loài voi (và của chính con người quan sát)
nhưng vẫn là tồn tại của Tự Nhiên, trong Tồn Tại.
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------
|
Nhận xét
Đăng nhận xét