TT&HĐ IV - 35/h
Các hệ đếm trong tin học và cách chuyển đổi
HỌC TOÁN QUA THƠ - CỘNG, TRỪ, NHÂN, CHIA CÁC PHÂN SỐ
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này.
D. Henziut
D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái.
Ngạn ngữ Trung Quốc
Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người. Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG III (XXXV): KIM ÂU
“Không
một bài toán nào gây băn khoăn sâu sắc cho loài người bằng bài toán về
sự vô cùng. Không một ý tưởng nào có tác động mạnh mẽ lên ý thức bằng ý
tưởng về sự vô cùng. Và, cũng không có khái niệm nào lại mù mịt như khái
niệm vô cùng”.
D. Gilbert
“Toán học là ngôn ngữ Chúa viết trong vũ trụ”
Galileo Galilei
“Không có toán học chúng ta không thể đi sâu vào triết học. Không có
triết học chúng ta không thể đi sâu vào toán học. Không có cả hai chúng
ta không thể đi sâu vào bất cứ thứ gì”
Gottfried Leibniz
"Đấu
tranh sinh tồn hun đúc nên tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng đẻ ra
triết học. Khi nhận thức triết học được định lượng và định dạng thì toán
học ra đời. Không có toán học trong thực tại, loài người vĩnh viễn mù
lòa, nhưng khi toán học bay lạc ra ngoài thực tại, loài người trở nên
bất định, hoang mang, phạm sai lầm trong nhận thức Vũ Trụ".
NTT
NTT
(Tiếp theo)
Trong
quá trình đi tìm bằng chứng hiển nhiên cho cái quan niệm “vừa hữu hạn,
vừa vô hạn”, chúng ta đã phát hiện ra một hiện tượng “không chê vào đâu
được” và qua hiện tượng này, sự hoang mang và choáng ngợp trước cái vô
hạn của chúng ta đã được xoa dịu đến hầu như là… thản nhiên. Hiện tượng
đó là như thế này:
Trước hết chúng ta viết lại:
Đó là sự chia hai số nguyên (dương) hữu hạn cho ra kết quả là một số thập phân vô hạn tuần hoàn.
Chúng
ta sẽ chuyển đổi hai số nguyên đó sang cơ số khác, theo ký số thập
phân. Chẳng hạn chúng ta cho số 11 là “chục” (hệ cơ số 11), thì số 13
phải viết là 12. Xong đâu đó, chúng ta thực hiện phép chia (sử dụng trong hệ cơ số 10):
Kết quả là một số hữu hạn!
Nếu đổi vị trí tử số và mẫu số cho nhau thì phép chia lại có kết quả là một số thập phân vô hạn tuần hoàn trong hệ cơ số 11:
Tuy nhiên kết quả này sẽ lại hữu hạn trong cơ số 13 vì:
Lấy thêm một thí dụ khác, có:
Đổi sang hệ cơ số 9 sẽ có:
Vậy:
một số hữu tỷ thể hiện như một số thập phân vô hạn tuần hoàn ở hệ cơ số
này có thể lại là một số hữu hạn ở hệ cơ số khác, và ngược lại. Hóa ra
sự thể hiện ra vô hạn hay hữu hạn là chẳng đáng tin tý nào! Hay có thể
nói vô hạn thì cũng bình thường như… hữu hạn, và cả hai cái đó đều phù
phiếm như nhau.
Sự
ngạc nhiên thú vị làm chúng ta quá phởn chí và bật ra một câu hỏi khác:
trong thế giới Q có số thập phân vô hạn nhưng không tuần hoàn không?
Đó
là một câu hỏi hóc búa và cần đến có thể là nhiều thời gian để tìm câu
trả lời. Chúng ta thì lại quá bận rộn nên… thôi, chắc là phải bỏ qua…
- Nói là dốt mẹ nó đi cho rồi!
Ai
văng tục thế nhỉ? A! Thầy Cãi! Lão này đáo để thật, té ra là từ nãy giờ
vẫn lảng vảng quanh đây! Chúng ta đang mộng mơ ở lưng chừng núi Tu Di
huyền thoại mà lão cũng mò tới quấy rầy được thì kể cũng… đại tài.
- Cứ cho là chúng tôi dốt thì ông trả lời đi! - Chúng ta vặc lại.
Thầy Cãi trợn mắt… cãi:
- Nếu không có ai trả lời trước thì tôi hơi sức đâu phải trả lời? Tôi chỉ thích trả lời trong khi… cãi thôi!
-
Được!... Nếu chỉ là phán đoán thì chúng tôi tin tưởng sắt đá rằng trong
Thế giới Q không thể có số thập phân vô hạn không tuần hoàn…
-
Có nhẽ đâu lại thế được! Khi chúng ta coi Thế giới Q là vô hạn, thì có
thể “nhặt” từ đó ra vô hạn số đếm và sắp xếp chúng một cách vô hạn nhưng
không tuần hoàn để không những làm xuất hiện số thập phân vô hạn không
tuần hoàn mà cả số nguyên vô hạn không tuần hoàn.
Thầy Cãi nói xong hếch mũi của lão lên làm mũi chúng ta nóng rực:
-
Làm sao mà ông thò được cái mũi hếch của ông vào Thế giới ấy để đánh
hơi chứ chưa cần nói là thò tay vào đó mà bốc hốt các con số? Hơn nữa
ông làm sao có đủ thời gian để sắp xếp vô hạn số? Xin nói cho ông biết
thế này: Cứ cho ông là thánh đi và có đủ thời gian sắp xếp, nhưng một
khi ông xác định được số đó là vô hạn thì đồng thời nó cũng trở nên hữu
hạn mất rồi…
-
Ôi dào ơi! Đừng hiểu kiểu… thực dụng và máy móc như thế chứ!... Trí
tưởng tượng có thể thực hiện sự sắp xếp đó một cách hoàn hảo. Một Thế
giới Q vô hạn sẽ tạo ra được một số hữu tỷ vô hạn, hiểu chưa mấy
cha?!...
-
Chúng con hiểu rồi, thưa cha! - chúng ta cười nhạo - Nhưng cha thì chưa
hiểu Thế giới Q, cha ạ! Thế giới Q được xây dựng nên từ Thế giới Z với
qui ước độc lập cho phép chia, và số thập phân vô hạn được sinh ra từ
phép chia ấy chứ không thể từ sự sắp đặt khiên cưỡng được…
-
Ái chà! Ha, ha, ha… - Thầy Cãi cười vang - Cũng lôgíc ghê gớm đấy chứ
nhỉ?... Để thỏa mãn yêu cầu đó của các anh thật chẳng khó khăn gì. Luật
đầy đủ không những cho phép mà còn bắt buộc phải có những số vô hạn
không tuần hoàn, chỉ cần “phẩy” đâu đó trước một số thành phần nào đó
của nó (nghĩa là chia nó cho 10n nào đó) thì sẽ làm xuất hiện ngay một số thập phân vô hạn không tuần hoàn.
Chúng
ta đớ họng và ngượng nghịu thực sự vì dù sao thì Thầy Cãi cũng có lý.
Tuy nhiên, chúng ta cố vớt vát với một nụ cười gượng gạo:
-
Cứ cho rằng có những số nguyên vô hạn không tuần hoàn như thế nhưng đó
chỉ là sự sắp xếp nhân tạo, giả tạo vì Thế giới Q không thể tự sắp xếp
được một cách tự nhiên ra như thế. Vì vậy mà những số thập phân vô hạn
sinh ra từ chúng không được coi là số hữu tỷ… Cũng có thể cho rằng sự
xuất hiện số thập phân vô hạn không tuần hoàn là trường hợp đặc biệt,
vừa có tính chất của số hữu tỷ vừa có tính chất khác số vô tỷ. Để phân
biệt thì phải đặt tên mới cho loại số này và coi như là sự mở rộng Thế
giới Q…
-
Lập luận như thế thì thật là… “lỏng lẻo”. Đuối lý rồi phải không?... Dù
sao thì các anh đã phải thừa nhận sự tồn tại của những số không phải
hữu tỷ, được sinh ra từ hữu tỷ… Thế cũng đã là quá đủ!... Thôi nhé, tôi
về đây. Các anh cứ ở lại mà “leo núi”. Sự “công cốc” vĩ đại đang chờ các
anh ở chót vót ấy đấy…
Thầy Cãi bỏ đi với cái mũi hếch cao hơn bao giờ hết vì nghĩ rằng đã có được một cuộc “thọc gậy bánh xe” thắng lợi.
Sau
khi ông ta đi khỏi, chúng ta bần thần rất lâu mới trấn tĩnh lại được.
Ngẫm nghĩ kĩ lại cuộc “cãi nhau” vừa qua, chúng ta vẫn thấy có một cái
gì đó rất không tự nhiên trong lý lẽ của Thầy Cãi. Ừ nhỉ, có thể rằng
theo nguyên lý về sự đầy đủ, cần phải tồn tại những số hữu tỷ vô hạn
không tuần hoàn, nhưng chúng ta không làm sao xác định được nó một cách
chắc chắn khi sự hiện hữu của nó là không trọn vẹn. Chúng ta không thể
biết được những thành phần số của nó ở những nơi “xa xôi” nào đó mà quan
sát không “với tới” được, chẳng hạn như ở vùng “lân cận” của vô hạn,
gồm những con số gì và được sắp xếp như thế nào. Trái lại đối với các số
hữu tỷ, dù là vô hạn thì nhờ vào tính tuần hoàn của chúng (tính bất
biến) mà chúng ta phán đoán, xác định được điều đó một cách chắc chắn,
và như vậy thì số hữu tỷ coi như có thể hiện hữu một cách hoàn toàn
trước quan sát. Vậy thì số hữu tỷ là có tính xác định. Dù là ở dạng vô
hạn thì nhờ vào tính tuần hoàn mà một số thập phân hữu tỷ đều có thể
viết được dưới dạng một phân số hữu hạn. Còn đối với số gọi là thập phân
vô hạn không tuần hoàn thì trái lại, vì không thể xác định được nên
cũng không thể biểu diễn nó dưới dạng một phân số hữu hạn nào đó được.
Như
vậy, sự khác biệt cơ bản giữa số hữu tỷ và số vô hạn không tuần hoàn là
ở tính xác định được hay không của chúng: Và từ nay, chúng ta gọi những
số không xác định được là số “vô tỷ” (không nên lầm lẫn giữa hai khái
niệm “số không xác định được” và “ẩn số”!). Số vô tỷ cũng có thể tồn tại
dưới dạng nguyên, âm, dương và thập phân.
Có
một điều đặc biệt đối với số vô tỷ là: vì chúng bất định nên không thể
chuyển đổi qua lại giữa các hệ số đếm để làm mất sự biểu hiện về tính vô
hạn của chúng. Điều này được thấy rõ nhất ở số thập phân vô tỷ: vì
chúng không thể được định dạng bằng một phân số hữu hạn nên không thể
dùng cách chuyển đổi hệ cơ số để xuất hiện dưới dạng số hữu hạn (nghĩa
là biến thành số hữu tỷ!?).
Sự
xuất hiện số vô tỷ đã buộc chúng ta mở rộng nội hàm của Thế giới Q, làm
cho thế giới ấy chuyển hóa thành một thế giới khác, rộng mở hơn, gọi là
Thế giới số thực (ký hiệu của số thực là R, và dù có “thực” thì cũng ở
trong Thực tại ảo).
Thực
ra sự hình thành nên Thế giới R là một tất yếu khách quan trong Thực
tại ảo, nghĩa là sự tồn tại số vô tỷ là hiển nhiên, là biểu hiện của
nguyên lý về tính đầy đủ, nguyên lý về tính nước đôi, về tính tương phản
của Tự Nhiên Tồn Tại. Không thể hình dung nổi một thế giới hoàn hảo lại
phiến diện. Đã hoàn hảo thì phải gồm cả không hoàn hảo, đã có âm thì
phải có dương, đã có nguyên thì phải có không nguyên, đã có hữu hạn thì
phải có vô hạn, đã có tuần hoàn thì phải có không tuần hoàn, đã có hữu
tỷ thì phải có vô tỷ… Một khi quan sát còn chưa thấy được một Thế giới
biểu hiện ra như vậy thì sự nhận thức vẫn chưa thể đạt tới “đại ngộ”.
Có
thể nói nguyên nhân sâu xa làm cho sự nhận thức toán học khám phá ra
Thế giới R là sự kiện nó công nhận quyền được tồn tại độc lập đối với
các phép tính khác của phép toán khai căn. Chúng ta biết rằng Thế giới Q
xuất hiện ra được là do bốn phép toán cộng, trừ, nhân, chia trở nên độc
lập tương đối so với nhau. Trong số bốn phép toán đó, phép cộng là phép
toán khởi thủy, cho nên nó có tính độc lập một cách “không thể bàn cãi”
trong tất cả các thế giới số. Phép nhân là trường hợp riêng, là bộ phận
của phép cộng cho nên đương nhiên nó cũng mang đặc tính ấy của phép
cộng. Và phép lũy thừa, vì là trường hợp riêng, là bộ phận của phép
nhân, nên đến lượt nó, cũng mang đặc tính độc lập đương nhiên của phép
cộng. Trong Thế giới số N, phép trừ là được suy ra từ phép cộng cho nên
nó mang tính lệ thuộc. Khi phép trừ “trưởng thành” đòi quyền độc lập
trước phép cộng, và chắc chắn nó sẽ giành được độc lập, thì Thế giới N
sẽ phải chuyển hóa thành Thế giới Z. Tương tự như vậy, khi phép chia
giành được độc lập trước phép nhân thì Thế giới Z chuyển hóa thành Thế
giới Q. Cũng tương tự như vậy nữa, khi phép khai căn giành được độc lập
trước phép lũy thừa thì Thế giới Q sẽ phải chuyển hóa thành Thế giới R.
Trong Thế giới Q, phép khai căn vẫn còn hoàn toàn lệ thuộc vào phép lũy thừa, nghĩa là nếu có 3 số hữu tỷ a; b; c mà:
c = ab
(c được gọi là số chính phương bậc b của a; ab được gọi là số lũy thừa bậc b của a);
thì phép khai căn bậc b đối với c mới được thực hiện một cách có kết quả là một số hữu tỷ. Chúng ta có thể viết:
(Để tỏ rõ phép lũy thừa là trường hợp riêng của phép nhân, chúng ta cũng có thể viết quá trình toán học trên dưới dạng:
Khi c là một số hữu tỷ không phải là chính phương bậc b của bất cứ số hữu tỷ nào, nghĩa là:
thì khai căn bậc b của c là không thực hiện được, hay:
Khi
phép khai căn “giành được quyền sống” độc lập thì bài toán khai căn nêu
trên sẽ có nghiệm. Tuy nhiên nghiệm đó không phải là một số hữu tỷ và
vì vậy, chúng ta gọi nó là số vô tỷ. Lúc này, thế giới Q chuyển hóa
thành Thế giới R (bao gồm số hữu tỷ và vô tỷ).
¯¯¯
Bắt
đầu từ sự đếm, chúng ta đã hình dung ra Thế giới N. Rồi từ Thế giới N,
sự tò mò như một định mệnh không thể cưỡng nổi đã “dắt mũi” chúng ta
hình dung ra hết thế giới này đến thế giới số khác, cuối cùng là Thế
giới R.
Mỗi
lần hình dung ra một thế giới số mới, chúng ta vẫn thường quen miệng
nói: đó là sự mở rộng của thế giới trước, chẳng hạn, chúng ta nói: Thế
giới Q là sự mở rộng của Thế giới Z.
Nói
như vậy, trong một chừng mực nào đó là không sai, nhưng cũng không đúng
hẳn. Chúng ta cho rằng thực tại ảo là thực tại chủ quan của nhận thức
quá khứ phản ánh những biểu hiện của một Thực tại khách quan duy nhất,
vừa vô cùng đa dạng, phong phú, vừa cực cùng biến ảo. Do đó mà về qui
mô, Thực tại ảo với danh nghĩa là bộ phận của Tự Nhiên Tồn Tại thì nó
phải luôn “nhỏ hơn” Thực tại khách quan, nhưng với chức năng phản ánh
hiện thực thì nó không hề “thua kém” Thực tại khách quan. Tuy nhiên, do
năng lực nhận thức quá khứ còn hạn chế mà Thực tại ảo hiện ra một cách
thiếu sót, không đầy đủ và thậm chí là sai lệch nhiều (so với Thực tại
khách quan một cách vừa tất nhiên, vừa ngẫu nhiên), trước nhận thức lại
của thế hệ sau. Hiện tượng đó chỉ nói lên rằng nhận thức quá khứ đã chưa
thể quan sát thấy, chưa “lôi ra được trước ánh sáng ban ngày” biết bao
nhiêu thứ, biết bao nhiêu điều còn lẩn khuất, lặn chìm trong cái nền
tảng mênh mông và được gọi là hư vô của Thực tại ảo, nghĩa là nhận thức
quá khứ đã bó hẹp sự hiện hữu trong Thực tại ảo chứ không phải thu nhỏ
qui mô của Thực tại ảo.
Khi
nhận thức chỉ quan tâm tới số lượng và những vấn đề của số lượng, thì
Thực tại ảo biến tướng thành Thế giới số. Với quan niệm như đã trình bày
ở trên thì có thể thấy Thế giới số cũng có qui mô bằng Thực tại ảo. Lúc
đầu, trước nhận thức còn thấp, nông cạn thì trong Thế giới số chỉ hiện
hữu loại số N. Trình độ nhận thức ngày một cao sâu đã làm xuất đầu lộ
diện những loại số khác để rồi cuối cùng thì tất cả các loại số đều bị
phát hiện và được gọi một cái tên chung là số R.
Như
vậy, chúng ta thấy rằng nếu hiểu một cách chắc chắn sự phát triển từ
Thế giới N đến Thế giới R là một quá trình liên tục mở rộng, thì e rằng
rất dễ dẫn đến những suy nghĩ lầm lạc đáng tiếc. Dù có thể nói là “mở
rộng” thì cũng nên quan niệm rằng qui mô của Thế giới số luôn luôn không
đổi, nó chỉ hiện ra ngày một đầy đủ trước quan sát và nhận thức ngày
một thâm hậu mà thôi.
Vậy
có thể hỏi Thế giới R đã hoàn toàn đầy đủ chưa? Hỏi thế mà cũng hỏi!
Đối với chính nó thì nó còn thiếu cái gì nữa?!... Có lẽ nên hỏi thế này:
R đã hàm chứa được tất cả các loại số mà thế giới số có thể có chưa?
Sự
xuất hiện và hiện hữu một cách rời rạc của vạn vật, hiện tượng trong
thiên nhiên đã gây ấn tượng làm hình thành nên khái niệm “số lượng” ở
con người. Những khái niệm về số lượng ra đời lần đầu tiên vào thời sơ
khai của loài người có thể là “một cái”, “ít”, “nhiều”. Sự đòi hỏi phải
xác định rõ rằng được “ít” hay “nhiều” là “bao nhiêu” “cái một” đã làm
hình thành nên việc đọc tên những số lượng nhiều hơn “một”. Từ đó, sự
đếm giản đơn ra đời và nhờ có 10 ngón tay mà hệ đếm cơ số 10 chiếm
thượng phong, trở nên phổ biến và được duy trì đến ngày nay.
Sự
đếm, cùng với quá trình hoàn thiện đã dẫn đến một cách đếm tối ưu, phù
hợp với khả năng nhớ của trí não con người, qua đó mà cũng phù hợp với
tự nhiên và vì thế mà bản thân sự đếm cũng hàm chứa một cấu trúc phổ
quát của tự nhiên là tính tầng nấc, lớp lang: cũng như, một cách thức
vận động phổ quát của tự nhiên là tính phát triển từ ít đến nhiều, từ
thấp lên cao, có trước có sau, trình tự tăng trưởng theo luật tuần hoàn…
Có
thể nói con người đã sáng tạo ra những con số nhưng là do sự mách bảo,
gợi ý và thúc ép của thiên nhiên. Sự đếm cùng với 10 ký hiệu số đã giúp
con người có một khả năng kỳ diệu là có thể đếm được tất cả các số lượng
có thể có trong tự nhiên (nếu bỏ qua thời gian!) và cũng có thể viết ra
một cách tường minh bất cứ một số lượng nào có thể có của tự nhiên (nếu
thời gian cho phép!).
Điều
không thể chối cãi được là trong Thế giới R, nếu không chú ý đến ký
hiệu âm - dương và dấu phẩy, thì tất cả các loại số, đều được viết ra
bằng cách sử dụng các ký số của 10 ký số đã biết và không có một số
lượng xác định nào lại không thể viết ra được bằng những ký số đó.
Tính
tối ưu của sự đếm theo hệ cơ số (ở đây là cơ số 10), qua những biểu
hiện kỳ diệu nói ở trên thôi cũng là đủ để thấy rằng không cần và cũng
không thể tìm kiếm một cách đếm tối ưu hơn nữa. Đây phải chăng là nguyên
nhân sâu xa dẫn đến việc cho phép chúng ta nhận định rằng: không có một
số nào là không có nguồn gốc từ tự nhiên; là không thể biểu diễn được
với chỉ bằng những con số cơ sở của hệ đếm?
Nhờ
có những biểu hiện rời rạc của Thực Tại Khách Quan mà con người mới có
thể xây dựng được Thế giới N và nhờ biết suy diễn ra từ những biểu hiện
ấy (có thể là bằng con đường gián tiếp, thông qua Thế giới N), từ những
lần vấp váp, bế tắc của quá trình tiếp tục nhận thức không mệt mỏi mà
con người đã xây dựng được một thế giới số có tầm khái quát cao, đó là
Thế giới R. Có một điều rất đáng chú ý là quá trình chuyển hóa từ thế
giới số hạn hẹp hơn thành thế giới số có tầm bao quát hơn chính là vì
các phép toán bị lệ thuộc là trừ, chia, khai căn lần lượt được “giải
thoát”. Nếu phép trừ không có được sự tự do (tự do thì cũng tương tự như
độc lập, ở đây chúng ta qui ước như vậy vì về mặt chính trị - xã hội
chưa hẳn đã như vậy: một con dân độc lập thì chưa hẳn đã có tự do nhưng
một con dân tự do thì trước tiên phải có độc lập, và một đất nước độc
lập đã chắc gì bầu không khí trong nó tỏa ra hương thơm tự
do - dân chủ (?)) thì không thể có Thế giới Z (với sự xuất hiện của số
âm, số dương và đặc biệt là số 0 một cách tất yếu). (Nói thêm: việc
“nhét” số 0 vào Thế giới N để mở rộng thế giới đó ra là một khiên cưỡng…
Nhưng số 0 xuất hiện trong Thế giới Z lại là một sự đương nhiên. Vì khi
phép trừ đã được tự do trong Thế giới Z thì: 1 - 1 phải có nghĩa, và
nghĩa là gì nếu không phải là “0”?).
Tuy
nhiên, đối với Thế giới R, vì 6 phép toán cơ bản đều đã độc lập - tự do
nên, nếu theo cách thức “thông thường” nói trên, nó không còn khả năng
chuyển hóa để thành một thế giới số nào đó bao quát hơn.
Thế
thì còn phương thức nào khác, hay còn phép toán lệ thuộc nào khác mà
chúng ta chưa phát hiện ra có thể tạo điều kiện cho Thế giới R tiếp tục
chuyển hóa không? Đây cũng lại là một câu hỏi hóc búa nhưng rất dễ trả
lời nên chúng ta… không trả lời! (Lạy trời! Thầy Cãi ở đâu thì cứ ở đó,
đừng “phi” tới đây!).
Khó
lòng mà bịa thêm một phép toán nào nữa để có phép toán lệ thuộc mà giải
thoát cho nó đối với thế giới số. Nhưng còn hay không còn một phép toán
như thế, là điều chúng ta mù tịt, không thể quyết định được. Tuy nhiên,
có một con đường đầy tính suy lý hình thức, vừa ngây thơ vừa nực cười,
dẫn dắt chúng ta đến kết luận: Thế giới R chưa phải là thế giới số bao
quát nhất.
Dựa vào nguyên lý đầy đủ và nguyên lý thể hiện tương phản của Tự Nhiên chúng ta nói nôm na thế này:
Lúc
đầu là Thế giới N, nhưng đã có số tự nhiên thì phải có số phi tự nhiên,
do đó mà Thế giới Z xuất hiện. Thế giới Z xuất hiện nghĩa là xuất hiện
số nguyên. Nhưng đã có số nguyên thì phải có số không nguyên, do đó mà
xuất hiện Thế giới Q. Xuất hiện Thế giới Q có nghĩa là có số hữu tỷ.
Nhưng có số hữu tỷ thì phải có số vô tỷ và làm cho Thế giới R xuất hiện.
Thế giới R xuất hiện có nghĩa là có số thực. Nếu đã có số thực thì làm
sao lại không có số không thực, còn gọi là số ảo, được? Khi đã tồn tại
số ảo thì nó sẽ cùng với số thực tác thành nên một thế giới mới được gọi
theo tên mà toán học đã đặt cho từ lâu, đó là Thế giới số “phức hợp”,
ký hiệu là C.
Tiện
đà, chúng ta làm tới: nếu đã có số phức thì đương nhiên phải có số
không phức chứ? Đương nhiên là thế! Nhưng số không phức là gì nếu không
phải là số phức? Trên đời này không còn số nào khác ngoài số thực và thể
tương phản của nó là số ảo. Nếu Tự Nhiên “muốn” tạo ra một loại số
“lạ”, có tính đặc thù một chút thì chỉ có thể là tập hợp hai số thực và
ảo lại mà thôi cho nên số không phức là số thực hoặc số ảo chứ không thể
là một loại số nào khác nữa. Tính “qui căn”, “phản phục” có đi thì phải
có về của Tự Nhiên chỉ có thể phởn chí đến Thế giới C là hết. Thế giới C
thực sự là thế giới số bao quát nhất, hàm chứa tất cả các thế giới số
có thể có trong Thực tại ảo.
Có
thể quan chiêm quá trình hình thành số phức trong toán học. Đó là lựa
chọn của những người khôn ngoan. Vì chúng ta không muốn bị gọi là khờ
khạo nên cũng đã làm điều đó (nhờ thế mà chúng ta mới có được cái tên
“số phức” để đặt cho Thế giới số mà chúng ta mới “tìm ra”!). Tuy nhiên
“sự hoang tưởng không biết dừng lại” vẫn không thỏa mãn và “lôi kéo”
chúng ta “đi bước nữa” trên con đường khác.
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét