Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TT&HĐ IV - 36/c
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
NGHỊCH LÝ TOÁN HỌC 1 = 0.999 ... ? - [NGHỊCH LÝ CHANNEL]
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi, lỡ đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc , chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..." NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
“Người
biết suy nghĩ tự thích ứng với thế giới; người không biết suy nghĩ cứ
khăng khăng làm cho thế giới thích ứng với mình. Vì vậy, mọi tiến bộ đều
tùy thuộc vào người không biết suy nghĩ”.
"Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy lôgic” Albert Einstein
"Nếu
tôi cảm thấy không hạnh phúc, tôi làm toán để cảm thấy hạnh phúc. Nếu
tôi cảm thấy hạnh phúc, tôi làm toán để luôn được hạnh phúc" Turán Pál "Trong
quá trình mưu sinh của con người, toán học tất nhiên xuất hiện. Khi đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong thực tiễn ứng dụng, khi đã
"đủ lông đủ cánh" và do "nhiễm" tính tò mò cố hữu của tư duy trừu tượng,
nó tiếp tục bay bổng lung tung, dần rời xa thực tại, lạc vào cõi hoang
đường, ngổn ngang nghịch lý. Rồi đây, vật lý học sẽ phải đính chính rất
nhiều, nếu còn muốn sử dụng nó làm ngôn ngữ giải thích Vũ Trụ" Ba Đá
(Tiếp theo)
Cách
nay trên dưới 250 năm, nhà toán học Gônbách, viện sĩ Viện hàn lâm
Pêtecbua (thủ đô của nước Nga Sa hoàng) đã nghiên cứu vấn đề đó. Ông đã
làm thí nghiệm với rất nhiều số, cố phân tích chúng thành tổng của các
số nguyên tố và kết quả là sự gợi ý một khẳng định: bao giờ cũng có thể
phân tích một số ra tổng của không quá 3 số nguyên tố.
Gônbách
không chứng minh được mệnh đề trên, thậm chí cũng không tìm được phương
pháp chứng minh nó. Ông bèn viết thư trình bày sự việc đó cho bạn ông
là nhà toán học lừng danh Ơle. Hai ông đã trao đổi thư từ cho nhau trong
suốt 15 năm trời. Trong bức thư ngày 7-6-1742, Gônbách báo cho Ơle biết
rằng, ông đã mạo hiểm phát biểu mệnh đề: “Một số bất kỳ lớn hơn 5 là
tổng của ba số nguyên tố”. Ơle trả lời rằng, theo ông thì mỗi một số
chẵn đều là tổng của hai số nguyên tố, điều suy đoán đó có thể là một
định lý hoàn toàn chính xác, và mệnh đề của Gônbách là một hệ quả đơn
giản của điều suy đoán đó. Thế nhưng, ngay cả Ơle cũng không chứng minh
được.
Từ
đó một bài toán dưới cái tên: “Bài toán của Gônbách” lừng danh trong
thế giới toán học xuất hiện với nội dung: “Chứng minh một số tự nhiên
bất kỳ lớn hơn đơn vị là tổng của không quá 3 số nguyên tố”.
Cả
Gônbách, Ơle và các nhà toán học thế kỷ XIX đều không đi đến kết quả
nào trong việc giải bài toán ấy. Nhà toán học siêu quần Canto, người lập
nên lý thuyết tập hợp đã kiên nhẫn thí nghiệm tất cả các số chẵn từ 2
đến 1000, rồi đến lượt nhà toán học Ôbri đã thí nghiệm tất cả các số
chẵn từ 1000 đến 2000, cả hai người đều cả quyết rằng trong giới hạn đó,
một số chẵn bất kỳ đều là tổng của hai số nguyên tố.
Đến
đầu thế kỷ XX đã xuất hiện rất nhiều công trình nhằm mở đường giải bài
toán ấy hoặc liên hệ nó với các vấn đề khác của toán học. Tuy nhiên,
việc chứng minh chặt chẽ bài toán đó thì không đạt kết quả gì hết. Năm
1912, nhà lý thuyết số, nhà vật lý lý thuyết trứ danh Landao, trong hội
nghị các nhà toán học quốc tế, đã nêu ý kiến rằng, bài toán đó không thể
giải quyết được bằng các phương tiện toán học hiện đại…
Năm
1930, xuất hiện một bước ngoặt trong việc giải bài toán Gônbách. Nhà
toán học ưu tú Xô viết là L. G. Snhirenman (1905 - 1938) đã “giảm nhẹ”
yêu cầu của bài toán Gônbách bằng một bài toán khác. Bài toán này về
hình thức có vẻ phức tạp nhưng có thể giải quyết được. Ông đặt vấn đề
liệu có thể có một số nguyên dương nhất định gọi là c, và một số tự
nhiên bất kỳ có thể được biểu thị dưới dạng tổng của không vượt quá c số
nguyên tố? Hay viết dưới dạng biểu thức toán học:
Nếu tồn tại biểu thức đó và chứng minh được c = 3 thì bài toán Gônbách được giải quyết.
Snhirenman
đã giải quyết hoàn toàn thành công bài toán Gônbách đã được “giảm nhẹ”
đó. Số c được gọi là “hằng số Snhirenman”. Lúc đầu, số c được xác định
là rất lớn. Sự nỗ lực của các nhà toán học đã làm giảm nó xuống còn 67
và cuối thì đạt được giá trị là 18. Tuy nhiên so với yêu cầu của bài
toán Gônbách (c = 3) thì kể ra cũng còn hơi bị xa.
Dù
sao đi nữa thì toán học cũng đạt được điều quan trọng là đã chứng minh
được bất kỳ số tự nhiên nào, dù lớn bao nhiêu chăng nữa, cũng đều có thể
phân tích thành tổng các số nguyên tố với số lượng không quá 67 con số
(thậm chí là không quá 18 con số!).
Năm
1939, nhà toán học nổi tiếng người Xô Viết, viện sĩ Vinôgradốp đã đạt
được kết quả: đối với tất cả các số lẻ đủ lớn, hằng số Snhirenman không
vượt quá 3. Kết quả này dù chưa giải quyết trọn vẹn bài toán Gônbách
nhưng cũng đã làm cho công cuộc giải bài toán ấy tiến thêm được một bước
rất dài.
***
Sự
phân bố phi quy luật trong dãy số đếm của các số nguyên tố và do đó đã
kéo theo sự không thể dự báo được “khoảng cách” hay mức độ tăng trưởng
của một số nguyên tố thành số nguyên tố kế tiếp sau nó trong dãy số
nguyên tố, có lẽ là một trong vài ấn tượng mạnhnhất, gây sững sờ cũng như “khó chịu” nhất đối với nhiều thế hệ các nhà toán học.
Cũng
như đối với hiện tượng một khối chân lý sáng ngời lại phải hàm chứa
những nghịch lý, nhận thức của loài người đã từng có một thời không sao
chấp nhận nổi một cơ thể toán học chặt chẽ về lôgíc, chắc nịch về qui
luật lại để cho các số nguyên tố “tự tung tự tác”, lúc ẩn lúc hiện một
cách tùy tiện như ma trơi. Sự “trêu ngươi” của số nguyên tố đã thúc giục
các nhà toán học tiến hành một cuộc “thập tự chinh” để khuất phục nó.
Cuộc “thập tự chinh” đó được phát động ngay từ buổi bình minh của toán
học và trở thành một cuộc trường chinh đằng đẵng cho tới tận ngày nay mà
vẫn chưa tới hồi kết thúc. Loài người đã phải dành ra biết bao nhiêu
tâm trí và sức lực, đã phải “hiến tế” biết bao nhiêu nhà toán học cho
cuộc trường chinh ấy, và dù cũng đã đạt được biết bao nhiêu chiến tích
thì cái mục đích cuối cùng là tìm ra được một công thức tổng quát xác
định được một cách chắc chắn tính nguyên tố của một số lẻ bất kỳ (cũng
có nghĩa là khám phá ra tính qui luật của sự phân bố biểu hiện phi qui
luật của các số nguyên tố trong dãy số đếm), vẫn mịt mù bóng chim tăm
cá.
Tuy
nhiên, cần phải khẳng định một điều rằng thành quả đạt được trong cuộc
nghiên cứu về số nguyên tố thật là lớn lao. Nó đã cho phép nhận diện
được tương đối chính xác tính nguyên tố của nhiều số lẻ ở những “khu
vực” cực kỳ xa vời trong thế giới số nguyên. Hơn thế nữa, thành quả đó
đã có một ý nghĩa rất sâu sắc đối với nhận thức của loài người, bởi vì
nhờ nó mà các nhà toán học hiểu được rằng sự hiện diện phi qui luật của
các số nguyên tố không hẳn là đã phi qui luật. Tính phân nhóm của các số
nguyên tố và số nguyên tố thuộc nhóm nào cũng phải tuân thủ qui luật
đặc thù của nhóm ấy là điều chắc chắn, không thể chối cãi được. Đó là
một gợi ý hết sức quan trọng về sự tồn tại của công thức tổng quát.
Về
mặt triết học, chúng ta cho rằng mọi sự vật - hiện tượng của Thực tại
khách quan, dù thực hay ảo đều phải tuân theo nguyên lý chung nhất, duy
nhất của Tự Nhiên Tồn Tại. Từ đó suy ra, mọi phần tử trong một tập hợp,
một thực thể hay một hệ thống mà nó góp phần tạo lập nên đều phải tuân
theo một nguyên lý chung nhất, có tính đặc thù của tập hợp, thực thể hay
hệ thống đó. Vậy thì tập hợp các số nguyên tố trước hết là phải tuân
theo những nguyên lý chung nhất của Vũ trụ số, kế đến là của Thế giới số
tự nhiên và vì số nguyên tố thuộc dãy số đếm nên nó cũng phải tuân theo
nguyên lý chung nhất của dãy đó. Phải chăng sự phân bố số nguyên tố vì
phải tuân theo luật chung nhất nào đó của số đếm nên có thể là hệ quả
suy ra từ đó và như vậy là nó phải mang tính qui luật?
Bản
chất ngông cuồng của sự hoang tưởng đã buộc chúng ta phải nghĩ rằng có
thể ngay từ đầu toán học đã lạc hướng để rồi phải đi trên con đường ngày
một khúc khuỷu, gập ghềnh nhưng cuối cùng thì sau khi đã giải quyết
xong những bài toán phức tạp và hóc búa nhất, nó cũng đến được nơi trú
ngụ của cái công thức tổng quát về số nguyên tố. Tuy nhiên, vì chân lý
vốn dĩ là dung dị cho nên không nhất thiết phải đi trên một con đường
khác thong dong hơn, vẫn có thể chiêm ngưỡng được cái công thức hằng ước
đó. Có thể nào nói như thế cũng là nói về một chân lý?
Bây
giờ, chúng ta quay lại, tiếp tục vui thú một phen nữa với các số nguyên
tố, nhưng theo cách riêng tư và vì sự “tung hứng” có phần vụng về nên
có thể gọi là “cách của những gã nhà quê”.
Chắc
rằng trong quá trình vận động, chuyển hóa, tương tác lẫn nhau không
ngừng nghỉ của vạn vật - hiện tượng, luôn tồn tại những phản ứng tạm gọi
là những cảm ứng vô thức hàm chứa mầm mống về sự nhận biết số lượng, về
sự đếm, định lượng. Có lẽ nhờ đặc tính đó mà chẳng hạn như các nguyên
tử, phân tử… mới có thể “tìm thấy” những nguyên tử, phân tử phù hợp với
chúng trong những điều kiện nhất định của môi trường để kết hợp, tạo nên
một thế giới vật chất mà chúng ta đang thấy, vừa phong phú đa dạng vừa
khuôn khổ trật tự. Nhưng sự đếm thực sự và sự hình thành nên hệ thống số
đếm chỉ có thể là kết quả của tư duy và vì thế nên cũng chỉ là một tồn
tại có tính ảo.
Nhờ
tư duy mà có dãy số đếm, nhờ tư duy mang tính tự do mà những số đếm trở
nên bất tận. Dãy số đếm xuất hiện cùng với bản chất “cộng” của nó là
tiền đề cho một Vũ Trụ số hình thành và vì dãy số đếm là bất tận nên Vũ
Trụ số cũng vô hạn. Có thể nói dãy số đếm là hệ cơ sở, là nền tảng của
Vũ Trụ mọi thế giới số. Vì lẽ đó mà chúng ta cho rằng muốn nghiên cứu
cặn kẽ Vũ Trụ số thì việc đầu tiên phải làm là xem xét dãy số đếm cùng
với sự biến ảo của nó.
Chúng ta viết ra dãy số đếm hệ cơ số 10:
1, 2, 3, 4, 5, … (đến vô hạn).
và đưa ra vài nhận xét:
-
Dãy số đếm chứa chấp tất cả các ký số có thể có của số tự nhiên (trừ số
0 nếu qui ước số 0 không phải là số đếm). Do đó mà nó cũng chứa chấp
tất cả các loại số chẵn, lẻ, nguyên tố, lũy thừa…
- Dãy số đếm cũng hàm chứa 3 phép toán thuận: cộng, nhân, lũy thừa và kéo theo 3 phép toán nghịch: trừ, chia, khai căn.
-
Việc cho phép 3 phép toán nghịch được thực hiện tự do trên các số đếm
đã làm cho dãy số đếm tiềm ẩn đủ các loại số có thể có của Vũ Trụ số.
-
Dãy số đếm là dãy số: số sau luôn lớn hơn số trước kề nó chính xác là 1
đơn vị và nếu gọi số chia hết cho 2 là số chẵn và số không chia hết cho
2 là lẻ thì sự sắp xếp của dãy số đếm là xen kẽ chẵn lẻ (nghĩa là giữa
hai số chẵn là một số lẻ và giữa hai số lẻ là một số chẵn).
-
Thế giới số tự nhiên, dãy số đếm là dãy số bao hàm tất cả các dãy số tự
nhiên có thể có và cũng có thể bằng cách nào đấy “trích xuất” ra từ nó
một dãy số nào đó tùy ý.
- Số lượng dãy số đếm trong Vũ Trụ số vô hạn chiều là vô hạn (mà Thế giới số tự nhiên cũng vô hạn).
Có thể nêu ra rất nhiều nhận xét khác nữa, nhưng thôi chúng ta thiết thực hơn là nêu vài thí dụ cho nhận xét vừa rồi.
Muốn
có một dãy số chẵn mà số sau hơn số trước kề nó 2 đơn vị thì chúng ta
nhân dãy số đếm lên 2 lần, hoặc chúng ta dùng cách cộng 2 dãy số đếm:
Tương tự, nếu muốn có một dãy số mà số sau lớn hơn số trước kề nó n đơn vị thì chúng ta nhân số đếm với n (lần).
Chúng
ta thấy rằng việc nhân dãy số đếm với n cho ra kết quả là một dãy số rõ
ràng là lớn hơn dãy số đếm gấp n lần. Thế nhưng theo nhận xét ở phía
trên thì nó chỉ là bộ phận thuộc dãy số đếm nên đồng thời lại phải nhỏ
hơn số đếm về mặt lực lượng. Đó là một nghịch lý hiển nhiên đành phải
chấp nhận! Nếu cố tình không muốn chấp nhận nghịch lý đó thì chỉ còn
cách phải cho rằng việc nhân lên n lần không làm cho dãy số đếm tăng lên
chút nào về mặt lực lượng mà chỉ làm nó biến hóa thành một dạng khác.
Vậy thì có thể nhận định trong dãy số chẵn có hàm chứa số lẻ và ngược
lại trong dãy số lẻ có hàm chứa số chẵn, hay nói một cách triết lế:
trong dương có âm mà trong âm có dương. Ở đây nữa, sự xuất hiện nghịch
lý đã minh chứng cho sự tồn tại của một biểu hiện theo nguyên lý nước
đôi: không một vô hạn nào là không bao hàm cái hữu hạn và ngược lại,
không một hữu hạn nào lại không bao hàm cái vô hạn.
Một
cách hoàn toàn hiển nhiên, nếu chúng ta muốn có một dãy các số đếm có
lũy thừa bậc n bất kỳ, thì coi như chúng ta đã nâng dãy số đếm lên lũy
thừa bậc n và viết:
1n, 2n, 3n, 4n, 5n, …
Để làm xuất hiện dãy số lẻ từ dãy số đếm, chúng ta làm như sau:
Dãy
số lẻ này là bao gồm toàn bộ các số lẻ có thể có trong dãy số đếm,
nghĩa là cũng bao gồm toàn bộ các số nguyên tố lẻ có thể có trong đó.
Nếu
nhân dãy số lẻ đó với bất cứ một số lẻ nào (khác 1) thì chúng ta đều
nhận được một dãy số lẻ không chứa đựng bất cứ số nguyên tố lẻ nào (hoặc
chỉ có 1 số nguyên tố).
Chúng
ta có thể gọi dãy số chẵn mà số sau lớn hơn số trước kề nó 2 đơn vị là
“dãy số chẵn cơ bản”, và như thế, cũng gọi dãy số lẻ mà số sau lớn hơn
số trước kề nó 2 đơn vị là “dãy số lẻ cơ bản”
Nếu chúng ta nhân dãy số lẻ cơ bản với 3 (số lẻ nhỏ nhất khác 1) thì được:
Chúng
ta cho rằng những dãy số do dãy số đếm biến dạng ra qua phép cộng và
phép nhân đều mang tính tự nhiên và những dãy số biến dạng từ dãy số
biến dạng tự nhiên qua phép cộng và phép nhân cũng mang tính tự nhiên
(nói thế không có nghĩa là chúng không mang tính “nhân tạo”). Với quan
niệm như vậy thì dãy số (1) là kề sát nhất dãy số lẻ cơ bản (nghĩa là
giữa chúng không thể tồn tại một dãy số lẻ tự nhiên nào khác nữa). Vì
khoảng cách giữa các số hạng liên tiếp trong dãy số (1) là 6 đơn vị và
là khoảng cách nhỏ nhất so với khoảng cách của các dãy số lẻ tự nhiên
“chiết xuất” ra từ dãy số lẻ cơ bản, cho nên có thể nói rằng dãy số (1)
chứa đựng nhiều hợp số lẻ nhất, hay nói cách khác là khi nó loại bỏ tất
cả các số nguyên tố (trừ số 3) thì đồng thời nó cũng loại bỏ một số
lượng nhất định nhưng là số lượng ít nhất các hợp số lẻ.
Vì
khoảng cách giữa hai số liên tiếp trong dãy (1) là 6 đơn vị, nên đã có
một cặp số lẻ giữa chúng bị loại ra. Các cặp số lẻ bị loại ra đó được
gom lại thành một tổng số lượng và trong tổng số lượng đó là toàn bộ các
số nguyên tố lẻ (trừ số 1 và số 3) có thể có của dãy số đếm.
Chúng
ta biết rằng những số có tận cùng là 5 đều chia hết cho 5 nên không bao
giờ là số nguyên tố (trừ số 5). Những số lẻ chia hết cho 3 (trừ số 3)
cũng không thể là số nguyên tố. Dấu hiệu để một số lẻ chia hết cho 3 là
tổng cuối cùng các ký số của nó là một trong ba số 3, 6, 9. Chẳng hạn
các số lẻ 4071, tổng cuối cùng của các ký số là:
4 + 7 + 1 = 12 = 1 + 2 = 3
Vậy số đó chia hết cho 3.
Như
thế, đối với các cặp số lẻ bị loại ra khỏi (1), ngoài những số có tận
cùng là 5, những số còn lại đều có khả năng là số nguyên tố:
Đó
là một phát hiện của chúng ta trong việc nhận biết một số lẻ bất kỳ có
phải là số nguyên tố hay không. Nó có mới không? Cũ mèm! Nó có hay
không? Dở òm! Có lẽ chúng ta đang ở đâu đó trong buổi bình minh của số
học!
Thôi, chúng ta xoay hướng khác:
Giả sử có 2 dãy số đếm và chúng ta cộng chúng theo cách này.
Các
số hạng của dãy (2) và (3) là trùng nhau vì thực ra đó là 2 dãy số đếm.
Dãy (4) là bộ phận của dãy (2) hoặc (3) vì chúng có mặt xen kẽ trong
đó.
Có thể suy ra dễ dàng một số chẵn bất kỳ là tổng của 2 số lẻ. Thí dụ:
Với
4 thí dụ đó chúng ta thấy rằng một số chẵn không những có thể phân tích
thành tổng 2 số lẻ mà còn có thể thành tổng của 2 số nguyên tố.
Vậy
thì điều mà Ơle phỏng đoán, rằng một số chẵn tự nhiên bất kỳ lớn hơn 2
chắc chắn phân tích được thành tổng của 2 số nguyên tố, có đúng không?
Và nếu đúng thì có thể chứng minh theo phương hướng này không?
Giả sử chúng ta có số tự nhiên bất kỳ là 52. Theo như cách sắp đặt các dãy số (2), (3), (4) ở trên thì chúng ta có ngay:
52 = 27 + 25
Đó
là tổng 2 số lẻ nhưng không phải nguyên tố. Tuy nhiên, chúng ta có thể
có những tổng của các cặp số lẻ khác mà tổng của chúng cũng bằng 52,
bằng cách coi (2) và (3) là những “thước dò” để “kéo” thước (2) sang
trái (hoặc phải) theo từng “nấc” 2 đơn vị một và đồng thời cũng kéo
thước (3) sang phải hoặc trái theo từng “nấc” 2 đơn vị một. Có thể mô tả
cách làm đó như sau:
52 = (27 – 2) + (25 + 2) = 25 + 27
Vì kết quả biến đổi chẳng nên cơm cháo gì nên chúng ta… biến đổi tiếp:
52 = (25 – 2) + (27 + 2) = 23 + 29
Thành công mĩ mãn vì đó chính là tổng của hai số nguyên tố.
Thêm một thí dụ nữa:
56 = 29 + 27
Đó là tổng của một số nguyên tố và một hợp số lẻ nên cần phải biến đổi:
Đó chính là tổng với 2 số nguyên tố của số chẵn tự nhiên 56.
Có
thể là ở miền số nhỏ, vấn đề một số chẵn có thể phân tích thành tổng
của 2 số nguyên tố luôn được nghiệm đúng nhưng ở vùng các số lớn, điều
đó còn đúng nữa không? Hay nói một cách tổng quát: có một số chẵn bất kỳ
là thì luôn lựa chọn được một số chẵn là để viết được:
a = (m + b) + (n – b)
với m, n là những số lẻ, và
(m + b), (n – b) là những số nguyên tố
Nếu mệnh đề trên được chứng minh thì đó chính là qui luật và ý kiến của Ơle là chính xác.
Bằng
thao tác kéo thước (2) và (3), có thể làm xuất hiện tất cả các cặp số
lẻ có thể có và do đó có thể chọn ra làm một tổng 2 số lẻ cho một số
chẵn bất kỳ. Nếu có một số chẵn n bất kỳ, có thể đưa thước (2) và (3)
vào vị trí cặp số lẻ là 1 và (n – 1) để có tổng.
n = 1 + (n – 1)
Tiếp tục kéo thước, sẽ có thể tạo được các cặp số lẻ khác chẳng hạn: 3, n – 3, hay 5, n – 5…
Khi
n càng lớn thì tổng số cặp số lẻ để tạo thành tổng của n càng nhiều và
như thế thì càng có khả năng tìm được tổng của n là 2 số nguyên tố.
Điều
suy đoán đó nghe rất có lý nhưng không phải là một chứng minh. Còn có
thể chứng minh được hay không thì chúng ta mù tịt vì… dốt quá xá!
Không suy nghĩ thêm về chuyện đó nữa, chúng ta trở về viết lại cách cộng 2 dãy số đếm cho ra dãy số lẻ cơ bản:
Quá
trình cộng cho chúng ta thấy tất cả các số hạng từ 3 trở đi ở dãy số lẻ
cơ bản đều là kết quả của tổng một số chẵn và một số lẻ. Chẳng hạn:
3 = 2 + 1
5 = 3 + 2
13 = 7 +6
Ở
đây, nếu chúng ta qui ước rằng 1 cũng là số lẻ (và hơn nữa là số nguyên
tố) thì vì một số chẵn có thể phân tích thành tổng 2 số lẻ nên có thể
cho rằng bất kỳ số lẻ tự nhiên n ≥ 3 nào cũng đều phân tích được thành
tổng của 3 số lẻ. Thí dụ:
3 = 2 + 1 = 1 + 1 + 1 (tổng 3 số lẻ trùng nhau)
5 = 3 + 2 = 3 + 1 + 1
7 = 4 + 3 = 1 + 3 + 3
13 = 7 + 6 = 7 + 5 + 1
Và hơn nữa có thể cho rằng bất cứ một số lẻ tự nhiên n ≥ 3 nào cũng đều có thể phân tích thành tổng của 3 số nguyên tố.
Đối
với một số lẻ bất kỳ nào thì bằng cách kéo thước (2) và (3) ngược chiều
nhau theo từng nấc 1 đơn vị, bao giờ cũng chọn được một tổng gồm một số
chẵn và một số nguyên tố. Nếu mệnh đề “một số chẵn tự nhiên luôn phân
tích được thành tổng của 2 số nguyên tố” được chứng minh, thì mệnh đề
“một số lẻ bất kỳ lớn hơn hoặc bằng 3 luôn có thể phân tích thành tổng
của 3 số nguyên tố” sẽ trở thành hiển nhiên.
Vậy, muốn quyết định được triệt để bài toán Gônbách thì phải chứng minh được mệnh đề Ơle.
Chúng ta khẳng định như thế và lại nói sang chuyện… cũ.
Có
một câu hỏi đặt ra là bằng những con đường (mà chúng ta gọi là) biến
đổi tự nhiên như trên có thể nào làm xuất hiện một dãy số chứa chấp toàn
bộ số nguyên tố lẻ và không chứa bất cứ hợp số lẻ nào không?
Chúng
ta thấy ngay rằng nếu thực hiện được điều đó thì sự phân bố của số
nguyên tố phải có qui luật và qui luật đó là có tính chặt chẽ. Tuy
nhiên, có thể không bao giờ làm được điều đó.
Dù sao thì chúng ta cũng cố thử một phen cho thỏa lòng mát dạ.
Trước
hết chúng ta viết ra dãy số lẻ cơ bản, kế tiếp bên dưới viết ra dãy số
được “chiết xuất” từ nó khi nhân nó với 3 rồi làm một phép trừ, như sau:
Như
đã nói, kết quả là một dãy số chứa toàn bộ số nguyên tố lẻ từ số 5 và
“một ít” hợp số lẻ. Quan sát trực giác cũng thấy ngay rằng các số hạng
trong dãy số này phân bố có qui luật.
Nếu dãy số đó, ở đây chúng ta gọi là dãy số (5), chỉ chứa toàn số nguyên tố thôi thì cuộc đời dễ chịu biết bao nhiêu!
Có
cách nào “sàng” bỏ “một ít” hợp số lẻ đi không? Nhìn những số hạng đầu
tiên của dãy số, chúng ta khấp khởi nghĩ rằng: việc sàng bỏ cái “số ít”
ấy chắc rằng cũng không mấy khó nhọc. Nhưng than ôi, dãy (5) chỉ không
chứa những số lẻ chia hết cho 3 thôi chứ nó vẫn chứa gần như đầy đủ các
số lẻ có thể chia hết cho những số lẻ khác 3 và khác bản thân nó. Vì vậy
mà cái “một ít” ấy cũng hằng hà sa số như sao trên trời vậy. Hơn nữa,
chúng ta không tìm thấy một qui tắc nhất quán nào trong việc lược bỏ các
số không nguyên tố ra khỏi (5) cả cho nên nếu có thiết lập được dãy số
nguyên tố thì sư biến đổi các khoảng cách (giữa hai số hạng liên tiếp)
là không lường trước được.
Vậy
thì tại sao sự phân bố ngay trong nội tại của dãy nguyên tố lại không
theo một qui tắc nào ngoài qui tắc trị số của các số hạng tăng dần đến
vô hạn? Bởi vì dãy số nguyên tố không phải là dãy số biến dạng tự nhiên
từ dãy số đếm, dù trực tiếp hay gián tiếp. Mặt khác, các số nguyên tố là
một bộ phận của dãy số đếm bị ràng buộc bởi dãy số đếm cho nên sự biểu
hiện “ngỗ nghịch” của chúng không phải vì chúng muốn “ngỗ nghịch” mà vì
nhiệm vụ thiêng liêng này: vừa bảo vệ bản chất phát triển nhất quán, có
tính chu kỳ nhưng không lặp lại của dãy số đếm, vừa đảm bảo cho nguyên
lý nước đôi của Tự Nhiên Tồn Tại không bị xâm phạm.
Hãy
bằng lòng với Tự Nhiên dù chúng ta quan niệm rằng Tự Nhiên không hoàn
hảo. Bởi vì nếu không biết bằng lòng như thế thì rồi chúng ta sẽ phải
đến một kết luận rằng chính bản thân tư duy của chúng ta không hoàn hảo.
Thế nhưng thói đời làm cho con người ta, mấy ai, chấp nhận là mình suy
nghĩ không hoàn hảo? Cho nên, người nào hiểu rằng mình không bao giờ
hoàn hảo, thì người đó là kẻ hiểu được sự đời!
***
Trong lịch sử toán học có một câu chuyện rất hay, gọi là “Vấn đề (3a+1)”.
Thập
niên 1950, giới toán học thế giới trở nên sôi nổi trước một hiện tượng
kỳ lạ: a là một số tự nhiên bất kỳ, nếu a là số chẵn thì chia đôi ; nếu a là số lẻ thì nhân nó với 3 rồi cộng với 1; cứ thực hiện như vậy thì cuối cùng bao giờ kết quả cũng là số 1.
Thí
dụ: có a = 26, chia đôi bằng 13, lấy 13 nhân với 3 thì được 39, cộng số
đó với 1 được 40, chia 40 cho 2 được 20, chia 20 cho 2 được 10, chia 10
cho 2 được 5, nhân 5 với 3 được 15, cộng 1 được 16, chia 16 cho 2 được
8, chia 8 cho 2 được 4, chia 4 cho 2 được 2, chia 2 cho 2 được kết quả
cuối cùng là 1.
Hiện
tượng đó đã từng gây nên biết bao nhiêu cảm hứng cho những người yêu
mến toán học đương thời. Một nhà toán học Mỹ nói: “Có một thời, trong
các trường đại học Mỹ, hiện tượng này trở nên hấp dẫn nhất. Sinh viên
khoa toán và khoa máy tính hầu như ai cũng nghiên cứu nó”
Các
nhà toán học đã phải ngạc nhiên rằng dù phải thực hiện bao nhiêu phép
tính chăng nữa thì rốt cuộc vẫn làm cho số a trở về 1. Giáo viên và sinh
viên ở trường đại học Tôkyô (Nhật Bản) đã kiểm tra từng số đến số tự
nhiên 240 vẫn thấy không có một ngoại lệ nào, bao giờ cũng thu được kết quả cuối cùng là .
Người
ta chỉ gọi: hiện tượng “3a+1”, vì không biết ai là người đầu tiên đề
xướng ra. Có người cho đó là ý tưởng của L. Collatz, đưa ra tại Hội nghị
toán học thế giới năm 1950. Nhưng cũng có người lại nói rằng do B.
Thwaiter (Anh), R.V. Andree (Nga), Hans (Mỹ), Neolamu (Mỹ)… đưa ra. Nói
chung thì đến nay vẫn chưa biết chắc chắn ai là tác giả.
Nhiều
người đã cố tìm hiểu để giải thích hiện tượng này nhưng ngay cả các nhà
toán học nổi tiếng cũng chưa giải quyết được. Học giả R.K. Guy gọi đó
là “Đề toán khó của thế giới” và khuyên mọi người không nên toan tính
giải quyết nó. Đã có nhiều giải thưởng với số tiền thưởng ngày càng cao
đã được đưa ra nhưng người lãnh giải thì cứ vẫn “trốn chui trốn nhủi”
đâu đó. Nhà toán học nổi tiếng thế giới là P. Erdôs nhắn nhủ rằng: “Toán
học còn chưa đủ chín để giải quyết vấn đề đó"
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét