Thứ Sáu, 2 tháng 7, 2021

TT&HĐ IV - 34/c

 
NGỌC TỶ TRUYỀN QUỐC Món Báu Vật Chứa Bí Ẩn Khổng Lồ | Tam Quốc | Kiếm Hiệp Hay

PHẦN IV:     BÁU VẬT 
 
"Dọc đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt lên, đánh bóng..."
NTT 
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.” 
 
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng niềm hạnh phúc này.
D. Henziut
 
Những người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự trong lòng khoan khoái.
Ngạn ngữ Trung Quốc 
 

Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua. 

Rene Descartes

Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người. 
 Voltaire 
 
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách. 
 Plato 

“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.” 
 
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
 Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
  
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi

CHƯƠNG II: Ngọc Bích

“Bằng cách ở mỗi hiện tượng tự nhiên của cái riêng lẻ, cái qui ước, và ngẫu nhiên, chúng ta hướng mắt tới cái phổ quát, cái khách quan và tất yếu, thì chúng ta tìm cái độc lập đằng sau cái lệ thuộc, cái tuyệt đối đằng sau cái tương đối, cái vĩnh cửu đằng sau cái vô thường. Và như tôi nhìn thấy, cái khuynh hướng này biểu lộ không những trong vật lý học, mà còn trong mỗi ngành khoa học, vâng không chỉ trên lĩnh vực khoa học, mà còn trên lĩnh vực của cái thiện và cái mỹ”.
Max Planck

"Mọi phát kiến của nhân loại đều có bàn tay hướng dẫn của Toán học, bởi vì chúng ta không thể có một người chỉ đường nào khác".
Charles Darwin

"Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy lôgic”
Albert Einstein 

"Thậm chí ngay cả trong trò chơi của con trẻ cũng có những điều khiến nhà toán học vĩ đại nhất phải quan tâm".
Gottfried Wilhelm Leibniz

"Toán học là kết quả của lao động sáng tạo, được phát sinh từ cố gắng nhận thức tự nhiên vì cuộc sống. Nó được xây dựng nên từ sự khám phá những biểu hiện có tính qui luật của sự vận động và biến hóa của vật chất. Nhưng con người đã không ngờ rằng họ đồng thời cũng xây dựng nên một khối hoa cương toán học mà ở dạng thuần túy, nghĩa là vô vật chất hóa, nó nói về sự chuyển hóa không gian, tức là nói về vận động của Tự Nhiên Tồn Tại." 

NTT
  

 

 

(Tiếp theo)

***
Nhớ lại chuyện người Việt Thường dâng tặng vua Nghiêu con rùa đá trên đó có chữ giống con nòng nọc nói về Trời - Đất mà chúng ta cho rằng đó là bộ sách đá tượng rùa giảng giải về Hà Đồ - Lạc Thư. Rất có thể từ đây mà quan niệm về một thế giới tương phản đối ứng, lưỡng phân lưỡng hợp của người Việt Thường đã chuyển hóa thành âm - dương, lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái, ngũ hành có tính đặc thù của người Hoa Hạ, để rồi sau này quay trở lại (do tính tương tự, gần gũi của chúng) mà cũng trở thành quan niệm (theo cách gọi mới) của người Việt xưa. Và Bát Môn Kim Tỏa cũng từ đó mà ra chăng?
Như đã kể, bộ sách đá “Qui Thư” (Lạc Thư) đó đã được vua Nghiêu nhận làm báu vật vừa vì sự quí giá vật chất của nó (ngọc thạch), vừa vì sự uyên thâm của nó về nhận thức Vũ Trụ cũng như vì công dụng tính toán “hay ho” của nó nữa.
Nếu Qui Thư đã là một báu vật quí giá như thế thì sao không thấy lưu truyền cho đời sau? Trong sử cổ Trung Hoa tuyệt nhiên không thấy nhắc đến nó một lần. Hay Qui Thư chẳng là cái quái gì cả, chẳng quí báu đến độ phải nâng niu, gìn giữ, chỉ là một con rùa sống hẳn hoi và tầm thường? Nếu thế thì người Việt Thường phải cất công lặn lội gặp vua Nghiêu chỉ để tặng một thứ “chả ra gì” để rồi sự kiện đó trở nên đặc biệt đến độ được lưu vào sử xanh? Hay sự kiện đó đơn giản là sự bịa đặt ra cho “oai” chứ không có thực và chúng ta đã như một kẻ ngố, dựa vào đó mà bịa thêm lung tung? Không, chúng ta vẫn bảo thủ, tin sự kiện đó là sự thật và Qui Thư là quí giá, trở thành một báu vật thiêng liêng, dù nhiều người sẽ chửi chúng ta là lũ gàn rở, vơ vào. Chúng ta tin như thế vì có một câu chuyện làm chúng ta suy ngẫm rất nhiều. Đó là câu chuyện “Hòa thị bích”.
Vào thời Xuân Thu, Biện Hòa, người nước Sở đi chặt củi trên núi Kinh (nay thuộc phía tây huyện Nam Chương, tỉnh Hồ Bắc), tình cờ thấy một con chim phượng hoàng đậu trên một hòn đá xanh. Quan niệm người Trung Hoa xưa rất đề cao ngọc bích (ngọc thạch). Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Người ta có thể đánh giá vàng nhưng ngọc bích thì vô giá”. Ngọc bích được xem như sự hòa quyện các tinh túy của Trời - Đất nên nó rất thiêng liêng. Dưới thời nhà Thương, nhà Chu, gươm và giáo bằng ngọc thạch được xem như biểu tượng tối thượng của quyền lực và “Phượng hoàng chỉ đậu xuống nơi có ngọc thạch”. Biện Hòa nghĩ rằng hòn đá xanh này là một bảo bối bèn ôm về, mang vào dâng cho Sở Lệ Vương. Thợ làm ngọc trong cung nói đó chỉ là một hòn đá thường. Lệ Vương nổi giận, ghép Biện Hòa vào tội lừa vua, ra lệnh cho võ sĩ chặt chân trái Biện Hòa.
 
Được tạo nên từ viên ngọc quý Hòa thị bích, ngọc tỷ truyền quốc của Tần Thủy Hoàng là món bảo vật mà các vị vua chúa về sau vô cùng muốn chiếm được.
Ngọc tỷ thực chất là một con dấu, hay ấn chương. Các nhà nghiên cứu văn hóa Trung Hoa cho rằng ấn chương đã xuất hiện từ rất sớm. Thời nhà Ân, người ta đã dùng vật nhọn để khắc hoa văn lên những hòn đá.
Ấn chương được xem là bằng chứng về quyền lực của người sở hữu. Dù là thương nhân hay quan lại, người mang ấn là người có thực quyền trong tay. Không còn ấn là không còn quyền.
Ngọc tỷ là ấn chương của hoàng đế, tượng trưng cho quyền lực tối thượng mà chỉ "thiên tử" mới có. Do đó, trong lịch sử hơn 2.000 năm của các triều đại phong kiến Trung Quốc từ Tần đến Thanh, các vua chúa dù là cướp ngôi hay được nhường ngôi, đều rất coi trọng việc chiếm hữu ngọc tỷ.
Bí ẩn ngọc tỷ truyền quốc của Tần Thủy Hoàng - 1
Chân dung Tần Thủy Hoàng. Tranh: aboluowang.com.
Thời Tiên Tần, bất luận quan ấn hay tư ấn đều gọi là "tỷ", không có sự phân biệt lớn nhỏ và cũng không thống nhất về mặt hình thức. Cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên, ông mới đặt ra quy định về việc chế tạo, danh xưng và sử dụng ấn chương.
Tần Thủy Hoàng quy định rằng "tỷ" là từ dành riêng để gọi ấn triện của hoàng đế và "tỷ" phải được làm bằng ngọc, nên được gọi là "ngọc tỷ". Ấn của quan viên được chế bằng đồng. Sự khác biệt đẳng cấp giữa các quan được quy định bằng màu sắc của dây đeo ấn.
Nói chung, quan ấn của các vương triều phong kiến Trung Quốc đi theo quy định của nhà Tần. Từ đời Hán, giấy được sử dụng một cách rộng rãi, kèm theo sự phát triển của hội họa, thư pháp, nên hình thức tư ấn rất đa dạng.
Sau khi Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc, để chứng tỏ quyền uy tối cao vô thượng của mình, ông ra lệnh cho ngọc công (người am hiểu về đá quý) Tôn Thọ dùng một viên ngọc quý nổi danh đương thời là "Hòa thị bích" để tạo nên "ngọc tỷ".
Về Hòa thị bích, sử cũ còn lưu truyền câu chuyện "Biện Hòa ba lần dâng ngọc". Vào thời Xuân Thu, có người tên Biện Hòa ở nước Sở nhặt được một viên đá ngọc trên núi. Biết đây là vật báu hiếm thấy, Biện Hòa đã dâng lên Sở Lệ Vương. Sở Lệ Vương mời ngọc công đến xem qua.
Biện Hòa dâng ngọc quý lên Sở Lệ Vương nhưng rốt cuộc lại hàm oan và bị chặt cả hai chân. Minh họa: Mocuifang.com.
Biện Hòa dâng ngọc quý lên Sở Lệ Vương nhưng rốt cuộc lại hàm oan và bị chặt cả hai chân. Minh họa: mocuifang.com.

 Sau khi con trai Lệ Vương là Võ Vương lên nối ngôi cha, Biện Hòa lại dâng hòn đá lên cho Võ Vương và bị chặt nốt chân phải. Cuối năm Nhược Can, con Võ Vương là Văn Vương lên kế vị. Biện Hòa vẫn muốn dâng hòn đá lên nhưng chân không còn, đành ôm hòn đá mà ông cho là quí, ngồi dưới núi Kinh khóc suốt 7 ngày 7 đêm, khóc đến cạn nước mắt, chảy ra máu tươi. Có người đem chuyện này bẩm báo với Văn Vương. Văn Vương sai người đi hỏi Biện Hòa:
- Người trong thiên hạ phải chịu hình phạt chặt cả hai chân rất nhiều, tại sao nhà ngươi lại đau buồn ghê gớm đến vậy?
Biện Hòa đáp:
- Tôi đau đớn không phải vì mất đôi chân mà là vì vật quí hiếm này bị người ta coi là hòn đá thường!
Văn Vương liền cho người đón Biện Hòa vào cung và ra lệnh cho thợ ngọc xem xét kỹ rồi thận trọng đẽo, gọt hòn đá ra. Quả nhiên hòn đá là một ngọc bích sáng óng ánh không một vết nứt. Về sau, người đời, để ghi nhớ sự kiện này đã gọi hòn ngọc bích đó là “Hòa thị bích” (ngọc bích họ Hòa).
 Mấy trăm năm sau, tướng quốc Chiêu Dương nước Sở vì lập được công lớn nên được Sở Uy Vương thưởng cho “Hòa thị bích”. Thế rồi “Hòa thị bích” bị mất trộm, không tìm ra thủ phạm. Hơn 50 năm tiếp theo, thái giám Anh Hiền nước Triệu đã bỏ ra 500 lượng vàng mua một viên ngọc bích tuyệt đẹp của một người lạ từ nơi khác đến. Một người thợ ngọc xem xét kỹ thì phát hiện được đó chính là “Hòa thị bích” lừng danh một thời. Nghe được tin này, vua Triệu Huệ Văn lập tức đoạt lấy “Hòa thị bích” từ tay thái giám An Hiền. Từ đó viên ngọc bích do Triệu Huệ Văn chiếm giữ.
Lận Tương Như dọa ném vỡ Hòa thị bích để có thể đưa ngọc quay về nước Triệu. Minh họa: 163.com.
  Lạn Tương Như dọa ném vỡ Hòa thị bích để có thể đưa ngọc quay về nước Triệu. Minh họa: 163.com.
Lúc bấy giờ “Hòa thị bích” đã nổi tiếng khắp nơi là “vật báu vô giá đệ nhất thiên hạ”. Các chư hầu thiên tử đều sùng bái nó, muốn sở hữu nó làm bảo bối, dùng trong những cuộc cầu đảo, tế lễ. Vì thế mà đã có nhiều mưu mô, thủ đoạn để chiếm đoạt nó. Về điều này có câu chuyện lịch sử “Hòa bích qui Triệu” (ngọc bích họ Hòa trở về nước Triệu) được chép trong “Sử ký” của Tư Mã Thiên. Chúng ta lược thuật:
Vào thời Chiến Quốc, lúc nước Tần đã trở nên hùng mạnh, vua nước Tần nghe tin “Hòa thị bích” đang ở nước Triệu, bèn sai người sang đưa thư cho vua Triệu xin đem 15 thành trì để đổi lấy viên ngọc bích có một không hai. Vua Triệu cùng đại tướng quân Liêm Pha và các vị đại thần bàn: Nếu cho Tần ngọc bích thì sợ Tần lừa dối, không trao lại thành, nhưng nếu không cho thì lo Tần có cớ kéo binh tới đánh. Đang phân vân, dùng giằng chưa biết làm sao thì viên hoạn quan Mục Hiền nói:
- Môn hạ của thần là Lạn Tương Như có thể sang Tần thương thuyết được.
Vua liền cho vời Lạn Tương Như đến, hỏi:
- Vua Tần đem 15 thành đổi lấy viên ngọc bích của quả nhân, nên cho hay không?
Tương Như thưa:
- Tần mạnh, Triệu yếu, không cho không được.
Vua Triệu nói:
- Họ lấy ngọc ta mà không cho ta thành thì làm sao?
Lạn Tương Như nói:
- Tần đem thành đổi ngọc mà Triệu không cho, thì điều trái là ở Triệu. Triệu cho ngọc mà Tần chẳng cho thành, thì điều trái là ở Tần. Xét lại kế đó thì thà cho ngọc để Tần chịu phần trái.
Nhà vua hỏi:
- Ai có thể sai đi sứ?
Lạn Tương Như nói:
- Nếu nhà vua thiếu người, thần xin mang ngọc bích đi sứ. Thành có về tay nước Triệu thì ngọc mới ở lại đất Tần. Nếu thành không về, thần sẽ giữ nguyên vẹn viên ngọc đem về Triệu.
Thế là Tương Như mang ngọc sang Tần.
Khi Tương Như dâng ngọc, vua Tần mừng rỡ trao cho các mỹ nhân và quan hầu cùng xem, các quan hầu đều hô:
- Vạn tuế!
Thấy vua Tần không đả động gì đến việc trao thành cho Triệu, Tương Như, liền tiến lên nói:
- Ngọc bích có vết, tôi xin chỉ cho bệ hạ xem.
Nhận lại viên ngọc, Tương Như lập tức lùi lại, tìm đến một cái cột, nói:
- Nay thần đến, đại vương tiếp thần ở một nơi tầm thường, lễ tiết rất khinh mạn. Được ngọc, đại vương đưa cho các mỹ nhân để đùa bỡn thần. Thần xem đại vương không có ý trả thành ấp như đã hứa cho vua Triệu. Vậy thần lấy ngọc về. Nếu đại vương có muốn bức bách thần thì đầu thần và viên ngọc bích đều vỡ ở cái cột này.
Vua Tần sợ vỡ ngọc, vội gọi quan đương sự cầm địa đồ đến, chỉ cắt 15 thành cho Triệu. Tương Như đoán vua Tần làm thế cũng chỉ lừa dối thôi nên đòi vua Tần muốn nhận ngọc phải trai giới 5 ngày, đặt lễ Cửu Tân ở sân (Cửu Tân là một nghi lễ ngoại giao rất long trọng). Vua Tần không còn cách nào khác, đành ưng thuận.
Tương Như ở lại chờ tại quán tân khách Quảng Thành, nghĩ rằng Vua Tần thế nào rồi cũng lại bội ước, bèn sai kẻ tâm phúc theo mình, cải trang, đi theo đường tắt, mang viên ngọc bích về trả cho vua Triệu.
Đến ngày lễ Cửu Tân, Tương Như đến, nói với vua Tần:
- Nước Tần từ đời Mục Công đến nay, hơn 20 đời vua, chưa từng có ai giữ trọn lời hứa. Quả thực, thần sợ bị nhà vua lừa, lại phụ lòng nước Triệu, nên đã sai người cầm ngọc lẻn về nước Triệu rồi. Vả lại Tần mạnh mà Triệu yếu, đại vương sai một sứ giả đến Triệu thì Triệu lập tức đem ngọc sang dâng. Nay mạnh như nước Tần mà lại cắt trước 15 thành cho Triệu thì Triệu đâu dám giữ ngọc bích để mắc tội với đại vương. Thần biết rằng lừa dối đại vương tội đáng chết. Thần xin vào vạc nước sôi.
Vua Tần nghĩ có giết Lạn Tương Như cũng không lấy được ngọc và cũng chưa đến lúc phải tuyệt tình giao hảo Tần - Triệu, nên vẫn tiếp Tương Như ở triều đình, lễ xong cho về.
Rốt cuộc, Tần không đổi thành cho Triệu, Triệu cũng không đem ngọc bích cho Tần. Vua Triệu khen Tương Như, phong cho làm đại trượng phu.
“Hòa bích qui Triệu” là vậy.
Năm 228 TCN, nước Tần thôn tính nước Triệu, “Hòa thị bích” rơi vào tay Tần Thủy Hoàng. Đến năm 211 TCN, Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, lập tức lệnh cho thừa tướng Lý Tư soạn 8 chữ : “Thu mệnh vu thiên, kỳ thọ vĩnh xương” (Nhận mệnh trời, được thịnh vượng mãi mãi), rồi sai thợ ngọc chạm trổ 8 chữ trên lên ngọc bích. Ngọc bích trở thành bảo ấn của Hoàng Đế và từ đó “Hòa thị bích” mang thêm tên mới là “Quốc ấn”.
Năm 206 TCN, Lưu Bang chiếm Lạc Dương, lật đổ nhà Tần, buộc vua Tần Tử Anh phải giao “Hòa thị bích”. Năm 202 TCN, sau khi đánh bại Hạng Vũ, Lưu Bang lập nên nhà Hán, đặt lại tên cho “Hòa thị bích” là “Ấn nhà Hán”, coi là quốc túy, và lệnh truyền nó từ đời này sang đời khác. Vì vậy mà ngọc bích còn thường được gọi là “Truyền quốc ấn”.
Cuối thời Tây Hán, ngoại thích Vương Mãng âm mưu soán ngôi nhà Hán, đã đầu độc vua Bình Đế, lập cháu họ vua là Tử Anh lên làm Hoàng thái tử. Lúc đó, thái hậu Hiếu Nguyên đang giữ “Hòa thị bích”. Vương Mãng sai người em họ là Vương Thuấn đến cung “Trường Lạc” tìm vật báu. Biết không thể giấu được, thái hậu đem ngọc bích ra ném mạnh xuống đất và mắng Vương Thuấn rằng: “Quốc ấn bị diệt, anh em nhà ngươi cũng chẳng có kết cục tốt đẹp gì!”. Vương Thuấn vội nhặt lên, thấy “Hòa thị bích” bị mẻ mất một góc.
Vương Mãng sau đó tự mình lên làm vua, đặt tên triều đại mới là Tân, lệnh cho thợ ngọc lấy vàng nạm vào góc bị vỡ của “Hòa thị bích”.
Sau khi Vương Mãng bị diệt, “Hòa thị bích” được Quang Vũ đế Lưu Tú cất giữ. Nhà Đông Hán truyền từ đời này sang đời khác, đến đời Hán Hiếu Đế, cuối thời Đông Hán, “Hòa thị bích” lại bị mất bặt tung tích.
Năm 192, quân đồng minh đánh dẹp Đổng Trác. Một hôm, nửa đêm, thái thú Tôn Kiên đi thị sát trong thành Lạc Dương, tình cờ phát hiện thấy một giếng nước phía nam thành phát ra ánh hào quang. Lập tức Tôn Kiên cho quân lính xuống mò thì vớt lên một thi thể phụ nữ mặc trang phục trong cung, cổ đeo một túi gấm bên trong đựng một cái tráp màu đỏ tươi có khóa bằng vàng. Mở tráp ra, Tôn Kiên thấy một hòn ngọc tỷ trong suốt, sáng lấp lánh. Trên hòn ngọc tỷ này chạm trổ hình 5 con rồng cuốn lấy nhau, một góc bị vỡ được nạm vàng. Biết đây chính là vật báu vô giá từng bị mất tích: Truyền quốc ấn - “Hòa thị bích”, Tôn Kiên liền đem cất giữ ngay.
Sau khi Tôn Kiên chết trong trận Hiện Sơn, “Hòa thị bích” rơi vào tay Viên Thuật. Thuật chết, thái thú trông coi lăng mộ Từ Cú giữ nó rồi dâng lên cho Tào Tháo. Sau Tào Tháo, “Hòa thị bích” tiếp tục đường truyền qua tay các vị vua nhà Tùy, nhà Đường. Người cuối cùng giữ hòn ngọc bích này là Lý Tòng Khê đời Hậu Đường. Bị thất bại trước quân rợ Khiết Đan, Lý Tòng Khê mang theo “Hòa thị bích” chạy lên một ngọn tháp rồi châm lửa đốt. Cả ngọn tháp cháy rừng rực và ông này cũng chết thiêu trong đó. “Hòa thị bích” cũng vĩnh viễn biến mất cho đến ngày nay.
Trong hơn 1000 năm sau thời kỳ Ngũ đại thập quốc, mỗi triều đại đều có chuyện truyền quốc ấn nhưng thật ra đó không phải là “Hòa thị bích” thật, mà chỉ là đồ ngụy tạo.
Ngày nay, nhiều người vẫn cố công dò la “Hòa thị bích” và giải mã điều bí ẩn là “Hòa thị bích” đẹp đến cỡ nào, quí giá đến cỡ nào mà vua chúa ngày xưa thèm khát, nâng niu đến thế?

Ngọc tỷ truyền quốc của Tần Thủy Hoàng hiện ở đâu vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Ảnh minh họa: lishiquwen.com.
Ngọc tỷ truyền quốc của Tần Thủy Hoàng hiện ở đâu vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Ảnh minh họa: lishiquwen.com.

Ngoc ty cua vua Can Long duoc mua voi gia gan 12 trieu USD hinh anh 1
Ngọc tỷ của hoàng đế Càn Long thuộc về một người mua châu Á giấu tên với giá gần 12 triệu USD. Ảnh: Sotheby's.

Ngọc tỉ được làm từ "thiên thạch". (Ảnh minh hoạ)
“Hòa thị bích” được lưu truyền qua các triều đại, từ Xuân Thu - Chiến quốc đến Ngũ đại thập quốc, tính ra cũng khoảng 1.650 năm. Trên thế giới, kể ra cũng hiếm có báu vật nào mà được lưu truyền liên tục lâu đến vậy. Đó là chưa kể thời gian tồn tại của hòn ngọc bích trước khi được Biện Hòa phát hiện ra.
Nhưng trước khi được Biện Hòa phát hiện thì hòn ngọc bích đó đã là báu vật chưa? Điều không thể phủ nhận là hòn ngọc bích không phải tự nhiên có ở núi Kinh để Biện Hòa vô tình “nhặt lên” được, mà nó đã “lưu lạc” đến đó, ai đó đã mang nó đến đó, hoặc đi qua đó và làm rơi nó. Điều không thể phủ nhận nữa là “Hòa thị bích” đã nằm ở núi kinh từ rất lâu rồi, “rêu phong” phủ kín đến độ nhiều thợ làm ngọc lành nghề (ở triều đình) cũng tưởng là đá thường, và điều đặc biệt đáng chú ý là nó đã được tạo tác tinh xảo qua bàn tay con người để mà “sáng óng ánh không một vết nứt”. Với quan niệm hết sức sùng bái ngọc thạch của người Hoa Hạ thì trước thời Xuân Thu, có thể là vào thời nhà Thương hoặc thậm chí là lâu hơn nữa, “Hòa thị bích” cũng đã từng là báu vật mang tính thiêng liêng, vô giá.
Nếu quả thực “Hòa thị bích”, trước thời Xuân Thu, đã từng là một báu vật có tính thiêng thì chắc chắn nó phải là biểu tượng nào đó về thần thánh, hoặc hơn nữa, nó hàm chứa điều gì đó nói về trời - đất, về sự hòa quyện nhau của trời và đất. Vậy thì ở hòn ngọc bích báu vật đó, chắc rằng phải có những dấu tích khắc họa của thời xưa hơn, tạo cho người đời sau cái ý niệm về sự thiêng liêng, vô giá. Những khắc họa đó như thế nào? Chẳng thể nào biết được một khi còn chưa tìm lại được “Hòa thị bích”!
Thế kích cỡ và hình dáng “Hòa thị bích” ra sao? Về kích cỡ thì chúng ta cho rằng nó không quá to, quá nặng đến nỗi không thể mang theo người được; cũng không quá nhỏ để mà có thể đóng vai trò “quốc ấn”, để ngoài những khắc họa có trước (năm con rồng cuốn lấy nhau có thể thuộc về loại này), Tần Thủy Hoàng có thể cho người khắc thêm 8 chữ triện nữa. Về hình dáng thì nó không thể là hình tròn được vì nếu thế, khi thái hậu Hiếu Nguyên ném mạnh nó xuống đất thì nó chỉ có thể vỡ ra chứ không thể mẻ “mất một góc” được. Có thể nó có hình dạng vừa vặn với cái tráp (chắc là tương đối lớn) mà Tôn Kiên đã nhặt được? Cuối cùng, về vấn đề hình dáng, kích cỡ và sự tạo tác, chúng ta hỏi: có mối liên quan nào không giữa hòn đá mà Biện Hòa nhặt được ở núi Kinh và con rùa đá mà người Việt Thường tặng vua Nghiêu? Hòn đá của họ Hòa phải chăng là phiên bản hoặc chính là bộ sách đá Lạc Thư?
 Trong liên quân Quan Đông chỉ có hai người thật lòng muốn đánh Đổng Trác trừ hại cho thiên hạ là Tôn Kiên và Tào Tháo.
Trong liên quân Quan Đông chỉ có hai người thật lòng muốn đánh Đổng Trác trừ hại cho thiên hạ là Tôn Kiên và Tào Tháo.
Đổng Trác cầu hòa với Tôn Kiên không xong, bèn rút khỏi Lạc Dương chạy về Trường An. Trước khi đi Trác còn làm một chuyện tệ hại là “đốt cháy cung thất, đào bới lăng mộ, lấy hết vật báu”, khiến cho “cựu kinh rỗng không hoang tàn, trong vòng mấy trăm dặm không hề có khói lửa”. Vị trung thần Tôn Kiên vào Lạc Dương nhìn thấy cảnh ấy, không cầm lòng được đã “buồn bã rơi nước mắt”, rồi sau đó Kiên “tu bổ lăng mộ”, “quét dọn tông miếu”, “sửa sang lại việc tế tự” [1]. Tôn Kiên đã làm tất cả những gì có thể để vãn hồi lại mặt mũi cho một vương triều Hán vốn đã bị Đổng Trác tàn phá đến không còn chút thể diện. Đó cũng là hoàn cảnh của câu chuyện ngọc tỉ.
“Tam Quốc Chí - Tôn Phá Lỗ, Thảo Nghịch truyện” có trích một đoạn từ “Ngô thư” nói quân của Tôn Kiên tìm thấy trong giếng Chân Quan một cái “ấn ngọc truyền quốc” có khắc tám chữ “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương”; cũng trích “Sơn Dương công tái ký” nói rằng khi Viên Thuật sắp tiếm hiệu, đã uy hiếp mẹ của Kiên để đoạt lấy ấn ngọc này. Như vậy, câu chuyện Tôn Kiên âm thầm chiếm giữ ngọc tỉ phải chăng là có thật? 

Giải mã thời Tam quốc: Tôn Kiên và thực hư chuyện ngọc tỷ ảnh 1  “Cùng cấp nghĩa binh, cứu giúp xã tắc. Nghịch tặc sắp bị phá mà mọi người như thế, ta sẽ hợp sức với ai đây!”
Tôn Kiên chết nhưng cơ nghiệp Giang Đông lại chỉ mới bắt đầu. Mãnh hổ mất đi nhưng vẫn còn đó bộ khúc và tướng sĩ trung thành. Chính lực lượng này sẽ là tiền đề cho Tôn Sách chinh phạt khắp miền Đông Nam về sau. Danh tiếng và uy vọng của Tôn Kiên cũng chính là cơ sở để người tài theo về với Tôn gia. Cơ nghiệp Giang Đông đã được xây nên từ những viên gạch đầu tiên như thế.
Chúng ta tưởng tượng thế này, hòn đá họ Hòa là một cái hộp bằng ngọc thạch mang hình tượng con rùa, trên mai và yếm có những lõm tròn (mà trước đó là những vị trí của những viên ngọc được nạm vào) xắp theo dạng Hà Đồ và Lạc Thư (như Khổng An Quốc đã thấy, có ý nghĩa là công thức lập và biến của Bát Trận Đồ, về quân sự hơn là ý nghĩa về triết lý), còn bên trong hộp, ngay ở giữa là một viên ngọc tròn, khá lớn, có khắc họa 5 hình tượng (uốn lượn giống con rồng) để biểu thị cho Ngũ Hành, Thái Cực. Số phận đã làm cho con rùa đã bị “sứt tai, gãy gọng” biến dạng không ra hình rùa nữa, bị ai đó “móc” hết những viên ngọc trên mai và yếm nó (nhưng may mắn viên ngọc bích lớn nhất và ở trong lòng nó thì vẫn còn), cuối cùng bị “đày đọa” lên núi Kinh dãi dầu mưa nắng và trở nên tầm thường.
Biện Hòa đã là kẻ không may khi tìm thấy con rùa đá (đã biến dạng thành xấu xí!). Nhặt được hòn ngọc thạch quí giá như thế, sao Biện Hòa không bán đi để trang trải cuộc sống, thậm chí là làm cho mình trở nên giàu có, mà cứ nằng nặc đòi dâng lên hết đời vua này tới đời vua khác để rồi bị chặt cả hai chân, chỉ đến khi khóc trào máu thì ông vua thứ ba mới thấu tỏ? Không, không phải Biện Hòa dâng vua vì tính quí giá của ngọc mà vì ông đã hiểu biết được cái nội dung cực kỳ thâm sâu và thiêng liêng, hàm chứa trong hòn đá đó. Ông đã cố giảng giải (để tiến thân?) nhưng vua không nghe ra, còn cho là lếu láo nên đã bị chặt chân. Chỉ có thể là như thế mới lý giải được hành động có vẻ gàn dở, kỳ quặc và lãng nhách của Biên Hòa.
Lúc ban đầu, có thể cả hòn đá cùng viên ngọc bích trong lòng nó được gọi là “Hòa thị bích”, về sau (lúc Tôn Kiên tìm thấy?) chỉ còn viên ngọc bích được gọi là “Hòa thị bích”? Nếu đúng là thế thì có thể tưởng tượng thêm rằng: viên “Hòa thị bích” là Thái Cực “bằng xương băng thịt” ở ngoài đời, khi mất đi, linh hồn của nó đã bay vào thấp thoáng ẩn hiện trong Kinh Dịch.

(Còn tiếp)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét