Thứ Tư, 22 tháng 12, 2021

TT&HĐ V - 46/g


 
Thuyết lượng tử: Linh hồn không chết, nó quay trở về vũ trụ | Khoa học và Khám phá

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.

Upanishad       

CHƯƠNG VII (XXXXVI): HÚT - ĐẨY
“Lực hút cũng như lực đẩy, là thuộc tính cơ bản của vật chất.”

“Hấp dẫn cần phải được gây ra bởi một tác nhân thường xuyên tác động theo một qui luật nào đó, nhưng tác nhân này là vật chất hay phi vật chất thì tôi xin dành cho bạn đọc suy nghĩ.”
                                                                                                                                                 Niutơn

"Không xiềng xích hay thế lực bên ngoài nào có thể ép buộc tâm hồn của một người tin hay không tin."


"Tất cả vinh quang đều đến từ sự dám bắt đầu".
Eugene F Ware


"Tất cả mọi người đều mơ; nhưng không như nhau. Những người mơ về đêm, trong những ngóc ngách sâu kín lờ mờ của tâm trí, khi thức giấc vào ban ngày mới nhận ra đó là ảo ảnh; nhưng những người mơ vào ban ngày mới là đáng gờm, vì họ có thể thực hiện giấc mơ của mình với đôi mắt mở to, để biến chúng thành hiện thực".
T.E.Lawrence


"Ước mơ giống như những vì sao… ta có thể không bao giờ chạm tay vào được, nhưng nếu đi theo chúng, chúng sẽ dẫn ta đến vận mệnh của mình".
Samuel Johnson 


"Tôi được ban cho sự nhận thức về định mệnh của chính mình. Tôi chưa bao giờ tự hạ thấp bản thân. Tôi chưa bao giờ đánh giá mình theo tiêu chuẩn của người khác. Tôi luôn trông đợi nhiều ở chính mình, và nếu tôi thất bại, tôi thất bại chính mình".
Sophia Loren


"Tự tin là điều kiện đầu tiên để làm được những việc lớn lao".
Samuel Johnson  


"Hãy mơ ước bất cứ điều gì bạn muốn mơ. Đó là vẻ đẹp của trí tuệ con người. Hãy làm bất cứ điều gì bạn muốn làm. Đó là sức mạnh của ý chí con người. Hãy tin tưởng vào bản thân để thử thách những giới hạn của mình. Đó chính là lòng can đảm để thành công".
Bernard Edmonds 


"Không ai biết sau đó mọi chuyện sẽ xảy ra như thế nào nhưng chúng ta vẫn đi về phía trước. Bởi vì chúng ta có lòng tin và sự trung thực"
Paulo Coelho 

"Muốn hiểu Vũ Trụ này, phải hoang tưởng mãnh liệt. Muốn hoang tưởng mãnh liệt, phải có niềm tin".
NTT    

 

 

(Tiếp theo)

Theo điện học, một thực thể tích điện đồng dấu thì khi đứng yên, nó sẽ làm xuất hiện một trường tĩnh điện trong không gian xung quanh nó. Nếu xuất hiện một hạt điện tích trong điện trường đó thì nó bị tác động một lực đẩy ra xa tâm hay hút về phía tâm của thực thể tích điện, tùy thuộc và dấu của nó cùng dấu hay trái dấu với điện tích thực thể. Hạt  luôn chuyển động với vận tốc cực đại Vũ Trụ c. Nhưng cứ cổ giả sử rằng hạt cũng có lúc định xứ. Vậy khi định xứ, hạt đó có làm xuất hiện một điện trường xung quanh nó không? Theo công thức tính cường độ điện trường thì điện trường đó phải tồn tại và nếu ký hiệu cường độ điện trường là e hay E (theo hệ đo CGS) thì nó bằng:
        
Nếu hạt có thể thực sự định xứ trong không gian thì với quan niệm một thực thể luôn phải tương tác với môi trường chứa nó, cần thừa nhận rằng hạt đó cũng phải tuân theo qui định đó. Sự tương tác của hạt định xứ với môi trường không gian có thể là sự xoáy không gian bị kích thích tột độ, có tính cộng hưởng của nó đã gây ảnh hưởng sự xoáy không gian có tính điều hòa của các hạt (bốn hạt), làm cho những xoáy này bị cưỡng bức và “méo” đi theo qui luật nào đấy, ở một mức độ nhất định nào đấy. Đến lượt những hạt  này tác động các hạt tiếp giáp với chúng. Cứ thế, sự tương tác được thấy lan truyền ra xa dần hạt định xứ với mức độ giảm dần một cách tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ nơi muốn xác định mức độ ảnh hưởng đến nơi hạt định xứ. Sự tương tác ấy của hạt với môi trường không gian bao quanh nó tồn tại ổn định một khi hạt  còn định xứ. Như vậy, môi trường không gian quanh hạt định xứ đã bị biến đổi ở một mức độ nào đó và thể hiện ra như một trường điện tĩnh (điện trường).
Tuy nhiên, vì trong thực tại hạt tuyệt đối không thể định xứ được quá thời hạn to nên cũng tuyệt đối không tồn tại kiểu điện trường như thế.
Khi hạt  lan truyền thẳng đều với vận tốc c (trong không gian Ơclit), thì theo hình dung của chúng ta, sự xoáy không gian của nó phải có phương vuông góc với phương truyền của nó và coi như cũng được truyền đi vuông góc với phương truyền của nó và coi như cũng được truyền đi trọn vẹn với vận tốc c cho nên cần thấy hạt  tương tác với môi trường không gian theo duy nhất một hướng truyền của nó. Nghĩa là lúc đó hạt cũng không tạo ra được một điện trường nào cả.
Khi hạt chuyển sang lan truyền theo quĩ đạo đường tròn quanh tâm O như hình 5 mô tả, vì hướng lan truyền của nó biến đổi đều nên sự xoáy không gian của nó cũng bị biến đổi đều. Nó lan truyền được như vậy là nhờ có sự tương tác giữa nó với hạt “bạn”, trái dấu với nó, thông qua hạt làm trung gian. Sự tương tác này làm cho mỗi hạt  quay quanh nhau phải phát huy một lực là f.m để chống lại lực hút đến nhau của chúng là f.m. Vì sao lại là f.m chứ không phải là fe? Vì theo công thức tính lực tĩnh điện và đã qua qui ước mà chúng ta đã thiết lập ở trên thì khoảng cách giữa hai hạt lúc này là 2.do do=10-28 do đó:

Lực đó cũng chính là lực liên kết nội tại của hạt .
Đối với hệ quan sát được gắn cố định trên mặt phẳng quĩ đạo quay của hai hạt và cũng quay quanh tâm O với vận tốc góc của chúng thì lực f.m chính là lực tĩnh điện. Đối với hệ quan sát được gắn cố định trong môi trường không gian thì theo quan điểm của điện học, lực đó không thể khác mà phải là lực từ.
Ở một góc độ quan sát nhất định có thể thấy mỗi hạt trong hai hạt  ấy có vẻ đứng yên và hạt kia quay quanh nó với vận tốc c. Sự quay ấy là rất nhanh và nếu chọn một khoảng thời gian tương đối lớn làm đơn vị thì có thể coi đó là một dòng điện dịch có cường độ không đổi I=q/t nào đó. Cũng trên quan điểm của điện học, dòng điện đó sinh ra một từ trường đều và từ trường đều đó tác động lên hạt đứng yên một lực có phương chiều được xác định theo qui tắc bàn tay trái.
Điện học qui ước: chiều dòng điện là chiều chuyển động của các hạt điện dương. Trên hình 5, xét hạt “tạo thành” dòng điện quanh hạt đứng yên. Vì chiều của dòng điện hướng lên trên nên theo qui tắc vặn nút chai, véc tơ cảm ứng từ  tại tâm hạt có phương vuông góc với mặt phẳng chứa dòng điện, có chiều từ ngoài mặt giấy vào trong. Nếu xét trường hợp hạt “tạo thành” dòng điện quanh hạt  đứng yên, thì dòng điện này cũng có chiều hướng lên trên. Cũng theo qui tắc vặn nút chai thì véc tơ cảm ứng từ  qua tâm hạt cũng vuông góc với mặt phẳng chứa dòng điện, nhưng có chiều từ trong mặt giấy ra ngoài. Chính vì vậy mà theo qui tắc bàn tay trái, mỗi hạt đó đều phải chịu một tác động lực hút vào nhau (hay hướng đến tâm O) và chúng ta cho rằng, lực ấy chính là lực từ f.m.
Nếu gọi I là cường độ dòng điện dịch, l là một đoạn nhỏ của độ dài dòng điện thì I.l được gọi là phần tử dòng điện. Theo điện học:
I.l=q.v
với q là hạt điện; v là vận tốc chuyển động của hạt điện.
Trong trường hợp cụ thể ở đây:
Điện học chỉ ra rằng:
Với:  là véc tơ vận tốc cực đại
        là véc tơ cảm ứng từ
        ^ là dấu nhân tích véc tơ
         là góc lập giữa 
Thay số trị đã biết vào biểu thức:
0,576.10-18=0,48.10-9.3.1010.B
Suy ra: B=0,04.10-19
Về mặt thứ nguyên của B, chúng ta thấy rằng:
Theo một biểu diễn khác trong điện học, chúng ta suy ra được:
              
Với          do=0,96cm
Từ đó phải chăng có thể viết được dạng tổng quát là:
              
Quan sát ở góc độ khác, còn có thể cho rằng, sự đồng thời quay quanh tâm O của hai hạt trái dấu ở hình 5 cũng thể hiện ra như một dòng điện kín, biến đổi (còn lại là dòng điện xoáy). Theo quan điểm của điện học thì dòng điện xoáy và biến đổi này tất yếu phải sinh ra một điện trường xoáy và biến đổi để rồi điện trường này tạo ra một từ trường xoáy và cũng biến đổi.
Quan sát ở góc độ khác nữa, cũng có thể cho rằng một trong hai hạt  tạo ra một dòng điện xoáy biến thiên làm xuất hiện một từ trường xoáy biến thiên. Từ trường xoáy biến thiên này làm xuất hiện một dòng điện cảm ứng (thực ra là dòng điện của hạt còn lại) chống lại sự biến thiên đó.
Như vậy, với quan niệm trên của điện học, hệ thống quay gồm hai hạt ở hình 5 đã tạo ra một trường điện từ trong môi trường không gian bao quanh nó.
Dù vẫn chưa biết được trường điện từ có thực sự tồn tại và vận động theo cách mà điện học đã chỉ ra không, nhưng theo chúng ta hình dung, chắc chắn ở tầng đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, trường điện từ không tồn tại. Hệ thống hai hạt  quay quanh tâm O với một hạt ở giữa làm trung gian còn được thấy là nội tại của hạt . Hạt này đã trung hòa về điện, do đó nó không thể tạo ra trường điện từ quanh nó được.
***
Hạt  rõ ràng là có thể định xứ trong môi trường không gian được và khi định xứ thì nội tại của nó xoáy không gian cực nhanh. Tuy nhiên, chúng ta cho rằng, trong Vũ Trụ vận động vô cùng náo nhiệt, sự định cư ấy của hạt  chỉ mang tính tạm thời. Trong hầu hết thời gian tồn tại của mình, hạt lan truyền với vận tốc cực đại C.
Khi lan truyền, hạt  được thấy như một sợi dây mảnh, uốn lượn mềm mại một cách thích ứng trong không gian phi Ơclit. Trong quá trình lan truyền ấy, hạt có thể bị “va chạm” ngẫu nhiên với các hạt KG khác, kể cả các hạt và cũng có thể bị phân rã do bị mất liên kết nội tại. Chẳng hạn, có thể có trường hợp một hạt nào đó “đâm sầm” vào hạt  trung gian của hạt , tương tác với hạt này và chuyển biến nó thành hạt . Hạt này lập tức tương tác hủy cặp với hạt trái dấu với nó của hạt . Hoặc cũng có trường hợp một hạt đến áp sát được hạt trái dấu với nó của một hạt (hay dây)  nào đó làm xảy ra tương tác hủy cặp làm cho hạt coi như chấm dứt tồn tại. Sự phân rã đứt đoạn của các dây KG cơ bản khác có lẽ cũng xảy ra tương tự như thế.
Như có lần trước đây chúng ta đã hình dung thì có thể phân loại các dây KG cơ bản thành hai loại chính là dây chẵn (gồm số lượng hạt chẵn) và dây lẻ (gồm số lượng hạt lẻ). Nhưng dây KG cơ bản chẵn là những dây trung hòa điện, những dây KG cơ bản lẻ là những dây mang điện thể hiện ra với đúng một điện tích nguyên tố (âm hoặc dương).
Tùy thuộc vào số lượng hạt  kết thành mà các dây KG cơ bản có thể dài ngắn khác nhau nhưng bao giờ cũng là những dây đơn. Có thể hình dung đó là những sợi dây thắt nút và những nút đó chính là những hạt  trái dấu xen kẽ nhau.
Theo cách nào đó, những dây đơn lẻ kết hợp với nhau tạo thành những dây KG cặp đôi, cặp ba… gọi là những dây bội. Có thể sợi dây bội trông tương tự như sợi dây cáp bện trong hiện thực. Nói chung, theo chúng ta quan niệm, dây đơn hay dây bội đều lan truyền với vận tốc rất lớn, song, chỉ có các dây đơn mới đạt được vận tốc cực đại trong Vũ Trụ. Hoặc cũng có thể có một số dây bội không lớn lắm đạt được vận tốc ấy nhưng lúc đó, trong dây bội như một chùm dây đơn vì hầu như không còn sự liên kết nội tại.
Dây bội cũng được phân thành hai loại dây chẵn (có số lượng dây đơn chẵn) và dây lẻ (có số lượng dây đơn lẻ). Dây bội chẵn thì trung hóa về điện, dây bội lẻ thì mang điện và lượng điện thể hiện ra một “quang cảnh” có thể là như thế này:
Các dây KG khi đến bề mặt vật cản thì bị “dồn” lại làm hình thành một vùng không gian có mật độ KG (cũng là mật độ năng lượng) cao. Một số những dây lớn có lực liên kết nội tại không chịu nổi sự “va đập” thì phân rã thành những dây nhỏ hơn, ngắn hơn. Tất cả các dây KG, khi còn ở bề mặt vật cản đều cuộn lại thành các giả hạt. Do có sự làm giảm khả năng chuyển hóa KG trong vùng có mật độ năng lượng cao nên các giả hạt này luôn có xu thế lan truyền thoát ra khỏi đó. Cũng vì vậy mà các giả hạt này lại tương átc với nhau, tái kết hợp lại với nhau, tạo thành những dây KG mới trong quá trình lan truyền thoát ra khỏi vùng đó. Một số dây lan truyền trở lại môi trường mới theo những hướng phù hợp.
Phải chăng khi gặp vật cản, luồng dây KG (hay chùm sóng điện từ) đã vận động, chuyển hóa như thế và đó chính là nguyên nhân sâu xa nhất của các hiện tượng xảy ra trong hiện thực như: phản xạ, khúc xạ, tán sắc…?
Trước đây, có lần chúng ta đã cố hình dung ra cách cuộn của một dây KG (hình dáng của một giả hạt KG). Bây giờ nghĩ lại, thấy có vẻ không hợp lý.
Cần hình dung lại là khi một dây KG đang lan truyền mà bị ngăn chặn thì trong trường hợp không bị phân rã, nó sẽ định xứ trong một khoảng thời gian nhất định, và khi định xứ, nó sẽ cuộn lại như một lò xo xoáy rất nhanh quanh trục của nó. Hình dung này được minh họa ở hình 6/a đối với giả hạt trung hòa và ở hình 6/b đối với giả hạt mang điện tích nguyên tố dương.
Chúng ta cho rằng các giả hạt KG đơn và bội chính là những “vật liệu” cơ sở để kiến tạo nên những thực thể KG có tính hạt nổi trội hơn tính dây, nghĩa là có sự thể hiện về nội tại tơng đối rõ ràng hơn, ổn định hơn. Chúng ta gọi những thực thể đó là những hạt KG giả dây vì chúng vẫn còn lan truyền được với vận tốc rất lớn và khi lan truyền thì chúng bị “méo” đi, duỗi ra theo phương lan truyền trông như một đoạn dây phình ra ở khúc giữa, hay để dễ hình dung hơn, như dải Ngân Hà nhìn từ bên hông nó, cũng có thể trông như trái đậu đũa phình lên nhiều chỗ trên một chiều dài của nó. Tùy thuộc vào qui mô nội tại mà mỗi lọai hạt KG giả dây bị qui định một vận tốc lan truyền cực đại nhất định, mà nếu lan truyền một vận tốc này thì chúng không còn là chúng nữa vì nội tại của chúng đã bị phân rã đến mức độ nào đó. Phải chăng các hạt cơ bản mà vật lý học đã khám phá ra trong quá trình nghiên cứu thế giới hạ nguyên tử như: phôtôn, nơtron, điện tử, nơtrinô… chính là gồm một bộ phận thuộc về tập hợp dây KG bội và một bộ phận thuộc về tập hợp hạt KG giả dây?
Hình 6: Giả hạt và sự quay của chúng
Nhưng phải hình dung cấu trúc và hình dáng phổ biến của các hạt KG giả dây như thế nào cho có vẻ hợp lý? Có lẽ là thế này: hạt KG giả dây cũng được cấu tạo nên từ một dây KG bội duy nhất, nhưng dài hơn các dây KG giả hạt nhiều, thậm chí là rất nhiều. Khi định xứ, nếu các dây KG bội cuộn lại thành giả hạt trông như những khúc lò xo đơn, thì các hạt KG giả dây lại trông như những cuộn chỉ hình trụ với nhiều lớp dây hoặc như những cuộn len hình cầu (và cũng có thể là hình elipxôit).
Vì cũng chỉ được cấu tạo nên từ duy nhất một dây bội thôi nên các hạt KG giả dây cũng được chia làm hai loại trung tính và mang điện thể hiện ra với một điện tích nguyên tố.
Nói chung, sự phân biệt giữa dây KG bội giả hạt và hạt KG bội giả dây, về mặt bản chất, chỉ là tương đối. Mặt khác, có thể hình dung là các hạt KG giả dây đều có cấu tạo tương tự nhau, chỉ khác nhau về độ to nhỏ (số lượng dây đơn), về độ dài ngắn (số lượng các lớp dây) của sợi dây bội làm hình thành nên chúng. Trong quá trình vận động và tương tác với môi trường, do bị môi trường tác động mà sợi dây KG bội cấu thành một hạt KG giả dây nào đó có thể bị biến đổi về độ to nhỏ (thêm hay bớt số lượng dây KG đơn “bện” nên nó), về độ dài ngắn (bị đứt bớt hay được nối dài thêm), làm cho hạt KG giả dây đó chuyển biến thành hạt KG giả dây khác có qui mô nội tại to hoặc nhỏ hơn, mang điện hoặc trung hòa, đồng thời, cũng làm xuất hiện mới hoặc làm mất đi một vài hạt cũng như giả hạt KG trong môi trường. Nghĩa là, trong quá trình vận động và tương tác, hạt KG giả dây này có thể chuyển biến thành hạt KG giả dây khác. Cần phải coi sự chuyển hóa thành nhau giữa các hạt KG giả dây trong quá trình vận động và tương tác của chúng là một hiện tượng có tính thường xuyên phổ biến trong Vũ Trụ vi mô. Chỉ có như thế thì mới có được cái “hoạt cảnh” vận động, tương tác và chuyển hóa KG ở tầng qui mô hạ nguyên tử mà vật lý học đã chiêm nghiệm được.
Quá trình vận động để duy trì tồn tại của các hạt KG giả dây, sẽ làm xảy ra sự tương tác giữa chúng với nhau, chuyển biến nhau từ hạt này thành hạt khác, những hạt cũ biến mất để thay vào đó là những hạt mới. Nhưng không phải chỉ có thế, trong một điều kiện hoàn cảnh thích hợp của môi trường không gian, sự tương tác giữa những hạt KG giả dây còn dẫn đến kết quả không những chúng không “phá hủy” nhau mà còn “giúp nhau” cùng tồn tại bằng cách điều chính sự vận động của nhau để liên kết với nhau hợp thành một hệ thống vận động cân bằng (tương tự như sự cộng sinh trong thế giới sinh vật?).
Có thể định nghĩa hệ thống KG là sự hợp thành của hai hay nhiều thực thể KG có qui mô, cấu trúc nội tại, đặc tính tương đối giống nhau hoặc khác nhau, thông qua tương tác mà ràng buộc nhau, liên kết phối hợp nhau để cùng vận động một cách cân bằng. Tuy nhiên, cần thấy rằng, quan sát ở một góc độ thích hợp hay theo một qui ước nhất định, hệ thống KG cũng chính là một thực thể KG. Chẳng hạn, tùy thuộc vào mục đích trong việc tìm cách giải thích căn nguyên của Tự Nhiên Tồn Tại mà chúng ta đã có lúc hình dung nó như một hệ thống gồm hai hạt  trái dấu quay quanh nhau, nhưng cũng có lúc hình dung nó như một hạt xoáy nội tại mạnh mẽ. Hoặc chẳng hạn như trong quan sát thiên văn, hình ảnh các thiên hà là những khối liền lạc với tên gọi chung nhất là “vật thể”, nhưng xét theo khía cạnh khác thì chúng chính là một hệ thống vận động cân bằng gồm nhiều sao quay xung quanh một thực thể trung tâm gọi là Lỗ Đen. Vậy, cũng có thể tạm định nghĩa thực thể là gồm một hay nhiều hệ thống liên kết với nhau theo cách thức nào đó, hợp thành.
Rõ ràng là trong Vũ Trụ vĩ mô cũng như vi mô, có nhiều kiểu, loại hệ thống, hay có thể nói, hệ thống KG có tính đa dạng. Tuy nhiên, có thể suy lý ra được dạng gốc, dạng cơ sở, dạng đóng vai trò là xuất phát điểm của đa dạng các hệ thống KG chính là hệ thống được gọi là “hệ hành tinh”. Thường mỗi khi nói đến hệ hành tinh, chúng ta mường tượng ngay ra một hệ vận động mà trong đó có một hay nhiều thực thể vật chất quay quanh một thực thể trung tâm có lực lượng nội tại to lớn vượt trội hẳn, đóng vai trò như là “chủ thể” của hệ vận động đó. Mường tượng như vậy, về mặt thực dụng, nhiều khi là thỏa đáng, song, xét về mặt lý thuyết thì chưa thật chính xác. Cần thấy rằng, do bản chất của tác động (lực) giữa các thực thể với nhau là tương hỗ, và cũng do nguyên nhân sâu xa là KG phải chuyển hóa đến tận “chân tơ kẽ tóc”, nên một hệ hành tinh vận động tự nhiên (nghĩa là có tính điều hòa, không bị cưỡng bức, được coi như tự thân vận động) bao giờ cũng là hệ mà tất cả các thực thể hợp thành nó đều vận động quanh một điểm chung gọi là điểm cân bằng động hay còn gọi là trọng tâm của cả hệ thống.
Với quan niệm trên thì hạt khi định xứ chính là một hệ hành tinh và được coi là hệ thống vận động KG nhỏ nhất, mang ý nghĩa hệ thống đơn vị nhỏ nhất mà Vũ Trụ có (nếu không kể đến hạt KG ).
Sự định xứ của các hạt KG chỉ mang tính nhất thời và coi như không phổ biến. Một hạt  trong hầu hết thời gian tồn tại của nó luôn lan truyền trong không gian. Lúc đó, nội tại của hạt dù có thể hiện ra thì cũng rất mờ nhạt (thậm chí là không thể hiện) và đó là một hệ thống vận động không còn mang tính hành tinh nữa, hay có thể gọi đó là “hệ thống phi hành tinh”. Hệ thống này là cơ sở trực tiếp của các hệ thống làm nên nội tại các dây KG. Khi các dây KG định xứ thì biến thành các giả hạt và nội tại các giả hạt này được gọi là các hệ thống vận động “giả hành tinh” (trông như một lò xo xoay quanh trục của nó). Đến lượt các giả hạt tương tác với nhau và trong những điều kiện phù hợp thì làm xuất hiện các hạt KG giả dây mà nội tại của chúng rất có thể được thấy như những hệ thống vận động lưỡng tính: vừa có tính hành tinh vừa có tính phi hành tinh (hay giả hành tinh).
Trong số các hạt KG giả dây (những thực thể KG mà khi lan truyền với vận tốc rất cao (nhưng vẫn nhỏ hơn vận tốc cực đại được qui định cho chúng) thì thể hiện ra như một dây sóng (hay cũng có thể như một bó dây sóng) tương tự như dây KG bội giả hạt, nhưng vẫn còn thể hiện rõ rệt sự tồn tại một nội tại của chúng, nghĩa là cùng một lúc thể hiện ra cả tính sóng lẫn tính hạt, và khi định xứ trở lại mà vẫn không bị “sứt mẻ” do tương tác với môi trường gây ra thì chuyển biến trở lại thành hạt KG giả dây có cấu trúc như ban đầu, lúc trước khi lan truyền), có ba loại hạt chủ yếu, đóng vai trò quyết định đến việc làm hình thành nên một tập hợp các hệ thống vận động KG kiểu hành tinh dựa trên cùng một nguyên tắc cấu tạo, đó là các hạt điện tử (electron) prôtôn và nơtron. Các hệ KG hành tinh này, dưới góc độ quan sát khác, chính là những nội tại của những hạt KG mới. Loại hạt KG mới này hợp thành một tập hợp được vật lý học đặt cho một tên chung là “nguyên tử”.
Về mặt cấu tạo và vận động, nội tại nguyên tử gồm một thực thể trung tâm gọi là “hạt nhân” và các điện tử lan truyền xung quanh nó (tất nhiên là theo cách rất khác chứ không như cách quay giản đơn của các hành tinh xung quanh Mặt Trời của Thái Dương Hệ). Theo vật lý học ngày nay, hạt nhân nguyên tử được hợp thành từ hai loại hạt cơ bản là prôtôn và nơtrôn. Trong khi nơtrôn là hạt trung tính thì hạt prôtôn là hạt mang đúng một điện tích dương. Ở trạng thái bình thường thì một nguyên tử luôn trung hòa về điện và tùy thuộc vào số lượng prôtôn trong hạt nhân mà số lượng điện tử của nguyên tử được xác định (hai số lượng đó luôn bằng nhau khi nguyên tử ở trạng thái trung hòa điện). Nguyên tử có lực lượng KG nhỏ nhất là nguyên tử Hydrô, chỉ gồm hạt nhân là một hạt prôtôn và một điện tử quay quanh nó.
(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét