Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2021

TT&HĐ V - 46/d


 
Một quan điểm về Vũ trụ (Đạo chúa không nên xem)


PHẦN V:     THỐNG NHẤT 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.

Upanishad       

CHƯƠNG VII (XXXXVI): HÚT - ĐẨY
“Lực hút cũng như lực đẩy, là thuộc tính cơ bản của vật chất.”

“Hấp dẫn cần phải được gây ra bởi một tác nhân thường xuyên tác động theo một qui luật nào đó, nhưng tác nhân này là vật chất hay phi vật chất thì tôi xin dành cho bạn đọc suy nghĩ.”
                                                                                                                                                 Niutơn

"Không xiềng xích hay thế lực bên ngoài nào có thể ép buộc tâm hồn của một người tin hay không tin."


"Tất cả vinh quang đều đến từ sự dám bắt đầu".
Eugene F Ware


"Tất cả mọi người đều mơ; nhưng không như nhau. Những người mơ về đêm, trong những ngóc ngách sâu kín lờ mờ của tâm trí, khi thức giấc vào ban ngày mới nhận ra đó là ảo ảnh; nhưng những người mơ vào ban ngày mới là đáng gờm, vì họ có thể thực hiện giấc mơ của mình với đôi mắt mở to, để biến chúng thành hiện thực".
T.E.Lawrence


"Ước mơ giống như những vì sao… ta có thể không bao giờ chạm tay vào được, nhưng nếu đi theo chúng, chúng sẽ dẫn ta đến vận mệnh của mình".
Samuel Johnson 


"Tôi được ban cho sự nhận thức về định mệnh của chính mình. Tôi chưa bao giờ tự hạ thấp bản thân. Tôi chưa bao giờ đánh giá mình theo tiêu chuẩn của người khác. Tôi luôn trông đợi nhiều ở chính mình, và nếu tôi thất bại, tôi thất bại chính mình".
Sophia Loren


"Tự tin là điều kiện đầu tiên để làm được những việc lớn lao".
Samuel Johnson  


"Hãy mơ ước bất cứ điều gì bạn muốn mơ. Đó là vẻ đẹp của trí tuệ con người. Hãy làm bất cứ điều gì bạn muốn làm. Đó là sức mạnh của ý chí con người. Hãy tin tưởng vào bản thân để thử thách những giới hạn của mình. Đó chính là lòng can đảm để thành công".
Bernard Edmonds 


"Không ai biết sau đó mọi chuyện sẽ xảy ra như thế nào nhưng chúng ta vẫn đi về phía trước. Bởi vì chúng ta có lòng tin và sự trung thực"
Paulo Coelho 

"Muốn hiểu Vũ TRụ này, phải hoang tưởng mãnh liệt. Muốn hoang tưởng mãnh liệt, phải có niềm tin".
NTT    


 

 (Tiếp theo)


Đã gọi là hành tinh của sao thì quay quanh sao và có nguyên nhân từ quá trình hình thành, chiều quay của hành tinh cũng (thường là) cùng chiều với chiều xoay của sao. Khi hành tinh quay ổn định quanh sao thì có nghĩa rằng nó đã tạo ra một lực ly tâm với lực kéo về phía sao. Nhưng do sự “ràng buộc” giữa sao và hành tinh bởi hiệu ứng hấp dẫn nên ở tâm sao cũng phải xuất hiện một lực cân bằng với lực kéo sao về phía hành tinh. Tình hình ấy làm cho sao và hành tinh hợp thành một hệ cân bằng cơ học, xoay ổn định nhận điểm O làm tâm. Tâm này cách O1 một khoảng là x (và x=O1O=O2O’). Gọi khối lượng của sao là m1, của hành tinh là m2; biết khoảng cách giữa O1 và O2r, thì có thể biểu diễn toán học về mối quan hệ cân bằng (hay bình đẳng) của hệ thống, đó là:

m1x=m2(r-x)
Từ đó rút ra được:
Gọi vận tốc chu vi của hành tinh là v thì:
với T là chu kỳ quay của hành tinh
Như vậy, gia tốc hướng tâm của hành tinh là:
Từ đó mà xác định được lực hướng tâm:
Tương tự, chúng ta cũng xác định được lực hướng tâm tác động lên trọng tâm của sao. Trước hết, gia tốc hướng tâm tại đó phải là:
Do đó, lực hướng tâm của sao là:
Rõ ràng, hai lực hướng tâm ấy bằng nhau về độ lớn, trùng phương nhưng ngược chiều. Có thể chọn ký hiệu chung cho hai lực ấy là Fh, và gọi là lực hấp dẫn của vật này lên vật kia do hiệu ứng hấp dẫn giữa chúng gây ra.
Đến đây, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải đưa công thức tính lực hấp dẫn về dưới dạng mà Niutơn đã xác định. Muốn thế, trước tiên, chúng ta thực hiện một biến đổi nhỏ như sau:
Từ lâu, trên cơ sở các số liệu đo đạc thiên văn, Keple đã nêu ra ba định luật quan trọng về chuyển động của các hành tinh xung quanh Mặt Trời, trong đó có định luật thứ ba mà sau này biểu thức toán học chính xác của nó được xác định nhờ lời giải “bài toán hai vật”. Biểu thức đó là:
với: T là chu kỳ quay của hành tinh m2
       a là bán kính trục lớn khi quĩ đạo chuyển động của hành tinh là hình elíp
      G là hằng số hấp dẫn
Trong trường hợp quĩ đạo hành tinh là đường tròn thì a đóng vai trò là bán kính của nó. Ở đây a=r.
Biến đổi biểu thức trên một chút thì viết được:
Và công thức tính lực hấp dẫn của chúng ta rõ ràng là đã đưa được về dạng mà Niutơn đã trình bày:
Trong vật lý học, hằng số hấp dẫn Vũ Trụ có giá trị là:
Giá trị đó có hẳn chính xác và áp dụng đúng ở khắp nơi trong toàn Vũ Trụ, kể cả trong thế giới vĩ mô lẫn thế giới vi mô không? Rất có thể là… không!
Chúng ta trả lời phủ định như thế vì ít ra, hiện tượng được minh họa ở hình 4/b có khả năng xảy ra làm ảnh hưởng đến lực hấp dẫn giữa sao và hành tinh của nó. Đó là hiện tượng các tia phát xạ của sao do bị kéo theo bởi sự xoáy của nó mà có hướng truyền đi lệch với hướng kính một góc nào đó. Tình hình đó gây nhiễu loạn hiệu ứng hấp dẫn giữa sao và hành tinh. Lúc đó, tâm hành tinh không tiến về phía sao theo đúng hướng xuyên tâm sao nữa mà lệch theo hướng (xem hình 4/b). Hơn nữa, vì véctơ lực “kéo” hành tinh không đi qua tâm hành tinh nên lực kéo còn có tác dụng làm xoay hành tinh quanh tâm nó nữa. Đối với sao, tình hình cũng xảy ra tương tự như vậy. Vì thế mà lực hấp dẫn giữa chúng giảm xuống so với trường hợp giả tưởng là sao không xoáy. Nghĩa là nếu biết chính xác các thông số về khối lượng, lực hút khoảng cách của hai vật tương tác hấp dẫn nhau thì giá trị hằng số G được tính ra trong trường hợp hai vật đó là Mặt Trời và Trái Đất so với giá trị G được tính ra trong trường hợp hai vật đó là Mặt Trăng và Trái Đất phải nhỏ hơn.
Chắc rằng áp lực của “dòng” ánh sáng đến Trái Đất cũng làm giảm lực hấp dẫn nhưng có thể là không đáng kể.
***
Như vậy với quan niệm tương tác phát xạ  của hai vật với nhau làm xuất hiện hiệu ứng hấp dẫn tiến về phía nhau mà chúng ta đã trình bày ở trên thì không hề có trường hấp dẫn nào tồn tại trong Vũ Trụ. Một thiên thể trong Vũ Trụ, khi có một vật xuất hiện trong vùng phát xạ của nó (nghĩa là đồng thời thiên thể cũng xuất hiện trong vùng phát xạ  của vật), thì giữa chúng lập tức xuất hiện một hiệu ứng hấp dẫn làm chúng có xu thế tiến về phía nhau. Thế thôi chứ ở những hướng trong vùng phát xạ của thiên thể không xuất hiện bất cứ vật nào hoặc có nhưng ở quá xa, thiên thể không thể hiện bất cứ điều gì về hấp dẫn cả.
Theo công thức lực hấp dẫn thì cường độ lực hấp dẫn tỷ lệ thuận với tích khối lượng của hai vật tương tác hấp dẫn và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Khi nói cường độ lực hấp dẫn tùy thuộc vào độ lớn của hai khối lượng tham gia tương tác hấp dẫn thì cũng có thể hiểu rằng nó tùy thuộc vào số lượng các hạt trong nội tại hai vật có khối lượng ấy. Bởi vì truy xét cho đến cùng và theo quan niệm của chúng ta, nếu một vật có khối lượng m, thì có thể viết:
              
Với          n là số lượng các hạt  có trong vật
               là khối lượng của hạt
Thực ra, đầu tiên và trực tiếp, cường độ lực hấp dẫn tùy thuộc vào năng suất phát xạ của hai vật tương tác hấp dẫn (lúc này không chú ý đến khoảng cách giữa chúng): năng suất phát xạ  càng cao thì cường độ hấp dẫn càng lớn và ngược lại. Nhưng năng xuất phát xạ là do mức độ vận động và tương tác KG trong nội tại vật qui định. Đến lượt mức độ vận động và tương tác KG trong nội tại vật lại tùy thuộc vào mật độ KG của nội tại vật, mà xét cho đến cùng là mật độ trong vật. Mật độ trong nội tại vật càng cao thì mức độ vận động của nội tại vật càng tăng, làm hạn chế hơn khả năng chuyển hóa KG một cách kịp thời gây ra đòi hỏi giải quyết sự hạn chế ấy càng bức bách, do đó và cũng chỉ còn một cách là vật phải tăng cường phát xạ  vào môi trường không gian. Như vậy, một cách gián tiếp, cường độ lực hấp dẫn cũng tùy thuộc vào khối lượng của hai vật tương tác hấp dẫn nhau.
Tuy nhiên, vẫn không chú ý đến khoảng cách hai vật, cường độ tương tác hấp dẫn, ngoài tùy thuộc khối lượng ra, còn tùy thuộc vào yếu tố nào nữa không?
 Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta xét một ngôi sao có bán kính rs, có lượng trước “một đợt” phát xạ của nó là n và lượng phát xạ là n'. Giả sử rằng n cũng là tổng số đơn vị hợp thành thể tích V n' là tổng số đơn vị hợp thành lớp diện tích bề mặt S của sao coi như sao phát xạ ở khắp bề mặt, nghĩa là không có hiện tượng đồng thời hấp thụ  - không có hai vùng phễu), thì chúng ta có được biểu diễn.
              
Suy ra:    
Có thể bỏ số 3 đi để coi như đã chú ý đến sự đồng thời hấp thụ của sao và vì chỉ xét ở mức độ định tính nên cũng không cần thiết. Chúng ta viết lại:
              
Hay:       
Gọi m là khối lượng của sao trước một đợt phát xạ và m' là khối lượng của sao phát tán vào môi trường không gian của đợt phát xạ, thì:
              
              
Do đó:    
Vì cường độ lực hấp dẫn bị quy định bởi năng suất bức xạ mà năng suất bức xạ lại tùy thuộc vào mật độ KG trong nội tại sao cho nên suy ra, nó không những tùy thuộc vào khối lượng mà còn vào thể tích của sao. Từ đây mà thấy rõ ràng rằng, cường độ lực hấp dẫn tỷ lệ thuận với khối lượng và tỷ lệ nghịch với thể tích của hai vật tương tác hấp dẫn nhau.
Thậm chí, chúng ta còn cho rằng, cường độ lực hấp dẫn còn tùy thuộc vào hình dáng của vật và tùy vào “tư thế” của hai vật gây ra mức độ “che chắn” phát xạ của nhau như thế nào, nhiều hơn hay ít đi. Tuy nhiên, có thể những ảnh hưởng về kích thước, hình dáng vật đối với lực hấp dẫn đi liền với những yếu tố ảnh hưởng có tính trừ khử nên trong thực tế khảo sát rất khó phát hiện hoặc không thể phát hiện được.
Bình thường, chỉ có kích thước rs là không đổi, nghĩa là có thể viết:
              
Và gọi k là hằng số phát xạ của sao.
Trong trường hợp không có sự đồng thời hấp thụ  của sao thì do phát xạ liên tục mà số lượng hạt của nó giảm dần theo thời gian. Như vậy nếu viết mối quan hệ dưới dạng vi phân và theo thời gian, chúng ta sẽ có được biểu thức:
               -dn=kn(t).dt
Tích phân hai vế sẽ được:
               n(t)=noe-kt
Với e là số ơle, no là số lượng hạt  của sao tại thời điểm t=0, n(t) là số lượng hạt của sao còn lại sau khoảng thời gian  phát xạ.
Biểu thức này diễn tả quá trình suy giảm số lượng theo hàm mà không chỉ của riêng sao mà có tính phổ quát đối với mọi thực thể phát xạ nhưng không đồng thời hấp thụ.
Quy luật giảm số lượng hạt  như thế cũng là biểu diễn năng suất phát xạ của sao giảm dần theo thời gian nếu không được bổ sung  bằng con đường hấp thụ. Và nếu thế cường độ tương tác hấp dẫn giữa sao và hành tinh cũng yếu dần theo thời gian.
Có thể viết biểu thức vừa nêu ra theo khối lượng:
               m(t)=moe-kt
Nếu biểu thức ấy áp dụng cho Mặt Trời thì có thể nghĩ rằng theo quan niệm vật lý học, từ lúc hình thành cho đến tận ngày nay Mặt Trời luôn tổn hao khối lượng mà không hề được bù đắp thêm khối lượng, do đó năng lực hấp dẫn của nó phải giảm dần theo thời gian và đang tiếp tục giảm. Nếu có thế, chắc rằng trong quá khứ xa xôi, Thái Dương Hệ không rộng lớn như bây giờ. Lúc đó chắc Trái Đất ở rất gần Mặt Trời. Có lẽ chỉ vào khoảng 4,5 tỉ năm cách nay, nó mới rời xa được Mặt Trời, ở khoảng cách mà môi trường của nó có điều kiện biến đổi theo hướng dịu đi, thuận lợi cho sự xuất hiện sự sống. Hơn nữa, so với vị trí lúc ấy, Trái Đất ngày nay phải ở cách một khoảng đủ xa để các nhà khoa học có thể phát hiện được qua nghiên cứu khảo cổ, ít ra là về mặt khí hậu. Nhưng họ đã phát hiện được điều gì để có thể nghĩ rằng đã từng xảy ra hiện tượng đó chưa?
Chúng ta tin là chưa hề! Vậy thì phải cho rằng trong suốt quá trình tồn tại của Mặt Trời, nó phát bức xạ thì đồng thời cũng hấp thụ bức xạ qua hai phễu thu của nó. Hai quá trình thu phát đó là tương đối cân bằng nhau để năng suất phát xạ của Mặt Trời, dù cũng có những dao động tăng giảm nhưng chỉ có tính cục bộ, thoáng qua, mà về mặt tổng thể thì ổn định lâu dài theo thời gian. Nếu có hiện tượng giảm dần năng suất phát xạ của Mặt Trời theo thời gian thì quá trình đó phải xảy ra hết sức chậm chạp và phải do một nguyên nhân khác, có nguồn gốc từ bên ngoài gây ra làm ảnh hưởng đến mức độ hấp thụ của nó.
Cũng trên cơ sở quan niệm về vạn vật hấp dẫn vừa trình bày, có thể giải quyết được vài thắc mắc mà chúng ta đã từng nêu ra. Trước hết, vì bức xạ điện từ là tác nhân làm xuất hiện hiệu ứng hấp dẫn nên cũng không thể tương tác với hiệu ứng ấy. Nếu nói như vậy chưa sáng tỏ thì chúng ta nói thêm: vì không có trường hấp dẫn nào cả nên cũng không hề có hiện tượng truyền tương tác hấp dẫn trong môi trường không gian, và do đó làm sao bức xạ điện từ, trong đó có ánh sáng, lại bị tác động bởi ảo tưởng được? Vì ánh sáng không bị tác động bởi hiệu ứng hấp dẫn nên khi một vật tiến về một thiên thể do hiệu ứng ấy gây ra sẽ không vượt được vận tốc cực đại C vì khi đạt đến vận tốc ấy thì coi như nó không còn nội tại nữa mà đã phân rã hoàn toàn thành một “khối” rời rạc các và theo nguyên lý ưu tiên lan truyền KG thì “khối” ấy có thể cũng không tồn tại. Đến một lúc nào đó trong quá trình tiến về thiên thể, vật sẽ bị mất dần liên kết nội tại và phân rã thành những phần tử nhỏ hơn để rồi phân rã tiếp cho đến khi các phần tử là các bức xạ điện từ và vì không còn động lực tiến về thiên thể nữa nên nhanh chóng “bốc hơi” hoặc tham gia vào lực lượng bức xạ của thiên thể.
Hiệu ứng hấp dẫn giữa hai vật là do sự chênh lệch phát xạ của hai vật gây ra và nếu xét kỹ thì hai vật tiến về phía nhau là do lực đẩy chứ không phải do lực hút. Tuy nhiên, vẫn sử dụng tốt công thức lực hấp dẫn do Niutơn thiết lập, nhưng với điều kiện hai vật ở ngoài nhau. Khi vật này ở trong vật kia thì hiệu ứng hấp dẫn giữa chúng không còn nữa và phải tìm một lý giải khác cho hiện tượng trọng tâm hai vật bị tác dụng lực gây ép về phía nhau.
Bây giờ chúng ta nói đến khoảng cách r giữa hai vật có hiệu ứng hấp dẫn nhau. Rõ ràng là hai vật càng ở gần nhau, nghĩa là r càng nhỏ, thì lực hấp dẫn càng lớn và ngược lại, càng ở xa nhau, nghĩa là r càng lớn, thì lực hấp dẫn càng nhỏ. Điều thực sự không thể hình dung được là hai vật ở cách xa nhau vô hạn vẫn gây hiệu ứng hấp dẫn đối với nhau.
Theo quan niệm về vạn vật hấp dẫn của chúng ta thì cường độ hiệu ứng giữa hai vật không những tùy thuộc vào khối lượng của hai vật hấp dẫn nhau mà còn phụ thuộc vào góc khối che nhau của chúng nữa. Chúng càng xa nhau thì góc khối che nhau của chúng càng nhỏ, do đó mà miền không ưu tiên phát xạ của chúng càng nhỏ theo dẫn đến hiệu ứng hấp dẫn càng yếu.
Trên hình 4/a, có thể tưởng tượng miền không gian của hai góc khối cắt nhau tạo thành một mặt tròn diện tích e có tâm là O'. Giả sử mặt đó chắn được bức xạ thì không một  phát xạ nào của sao và của hành tinh truyền được đến nhau. Xét ở góc độ khác thì mặt e được coi như mặt cuả sao và hành tinh đồng thời gây ảnh hưởng không ưu tiên đến phát xạ của nhau về phía đó.
Vì chỉ gây ảnh hưởng không ưu tiên phát xạ thôi nên vẫn có một lượng nhất định từ sao qua mặt e truyền về phía hành tinh và đồng thời vẫn có một lượng nhất định đi qua mặt e truyền về phía sao, nghĩa là coi như mặt e có hai giá trị thông lượng và tổng giá trị tuyệt đối hai thông lượng ấy được cho là thông lượng của mặt e.
Giả sử rằng, cố định mặt e và di dời cùng lúc sao và hành tinh ra vô tận dọc theo đường thẳng xuyên tâm của chúng. Muốn bảo toàn mối quan hệ hấp dẫn có sẵn từ trước của sao và hành tinh thì di dời hành tinh ra xa mặt e bao nhiêu, cũng phải di dời sao ra xa mặt e bấy nhiêu một cách tương ứng, nghĩa là góc khối của sao và hành tinh vẫn cắt nhau tại vị trí mặt e và mặt e không thay đổi diện tích. Có thể gọi hiện tượng này là sự bất biến diện tích e.
Hai vật tương tác hấp dẫn càng ở xa nhau thì vùng góc khối không ưu tiên phát xạ của cả hai vật càng nhỏ đi. Sự nhỏ đi đó làm cho lượng phát xạ qua mặt e của hai vật giảm xuống trong khi e bất biến . Tình hình đó làm cho giá trị thông lượng qua mặt e giảm theo, khiến mức độ gây ảnh hưởng không ưu tiên về phía nó cũng giảm.
Hiện tượng nói trên dẫn đên ý niệm: đối với hai thực thể cách xa nhau trong Vũ Trụ, tùy thuộc vào cường độ phát xạ cũng như khả năng che chắn nhau của chúng mà giá trị thông lượng qua mặt e giữa chúng trở nên nhỏ bé đến nỗi mặt e hoàn toàn không còn gây cản trở cho sự phát xạ của hai thực thể về phía nó nữa. Lúc đó, chúng ta nói hai thực thể đó không hề mảy may có tương tác hấp dẫn. Vậy, có thể đi đến kết luận: khoảng cách tương tác hấp dẫn giữa hai vật là hữu hạn.
Cường độ của hiệu ứng hấp dẫn chủ yếu tùy thuộc vào khối lượng của hai thực thể tạo ra hiệu ứng ấy đối với nhau. Càng sâu trong Vũ Trụ vi mô, các thực thể càng có khối lượng nhỏ bé. Như vậy, nếu so sánh trên cùng một khoảng cách, có thể nói rằng hiệu ứng hấp dẫn giảm dần theo chiều từ Vũ Trụ vĩ mô hướng về Vũ Trụ vi mô. Hơn nữa, vì sự hàm chứa trong mỗi thực thể ngày càng ít đi theo hướng nói trên nên tương tác hấp dẫn ngày càng thể hiện tính gián đoạn. Như vậy, đến một tầng nấc vi mô nào đó của Vũ Trụ, cái gọi là tương tác hấp dẫn sẽ không còn nữa và thay vào đó là một tương tác khác.

Ở đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, như chúng ta quan niệm, tương tác giữa hạt là tương tác cảm ứng kích thích KG. Vì, cũng theo chúng ta quan niệm, tương tác ấy là nguồn gốc, là dạng nguyên thủy của mọi tương tác, cho nên phải suy ra từ đó được hằng số hấp dẫn G.
Khi có một hạt  cảm ứng kích thích một hạt , chúng ta nói rằng hai hạt KG ấy tương tác cảm ứng kích thích nhau. Vì hai hạt ấy được thấy như cùng tác động làm cho nhau di dời vị trí nên có thể coi tương tác của chúng là tương tác lực. Trong hình dung có thể thấy khi hạt nỗ lực kéo hạt  “về” vị trí của nó và đồng thời “đến” chiếm chỗ hạt , thì cùng lúc hạt cũng nỗ lực hành động như vậy đối với hạt . Trong Vũ Trụ vĩ mô, chúng ta cho rằng hai vật hình khối cầu bằng nhau, tương tác hấp dẫn nhau mạnh nhất khi tâm của chúng nằm ngay trên bề mặt của nhau, nghĩa là khoảng cách tâm của chúng đúng bằng bán kính của chúng, vì có khả năng lúc đó, tác động phản lực của sự phát xạ là mạnh nhất. Trong trường hợp hai hạt KG và  tương tác cảm ứng kích thích có lẽ cũng phải như vậy. Nếu gọi khối lượng của chúng là mo, đường kính của chúng là do thì lực cảm ứng kích thích của mỗi hạt đối với nhau là:
              
Với g gọi là hằng số cảm ứng kích thích
Trước đây, chúng ta đã có biểu thức:
Với c là vận tốc cực đại của Vũ Trụ
       to là đơn vị thời gian nhỏ nhất tuyệt đối
Sau khi tương tác, hạt  chuyển biến thành hạt và có một động lượng là:
Vì tương tác xảy ra trong “khoảng” thời gian to nên nếu qui đổi động lượng đó ra lực mà hạt KG bị tác động trong tương tác thì cường độ của lực đó bằng , nghĩa là:
Như vậy, sẽ có:
Suy ra:
Thay các ký hiệu bằng các giá trị số mà trước đây chúng ta đã xác định được vào biểu thức thì:
Với quan niệm: nền tảng của tương tác hấp dẫn thấy được ở Vũ Trụ vĩ mô chính là tương tác cảm ứng kích thích KG, lực hấp dẫn chính là tổng lực cảm ứng kích thích KG nào đó, chúng ta cho rằng có thể thay thế g bằng G trong biểu thức tính . Mặt khác, có thể giá trị G mà vật lý học đã xác định, do bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhiễu loạn khách quan và chủ quan, nên dù là phù hợp với ứng dụng thực tiễn thì cũng chưa thật chính xác về mặt lý thuyết. Nếu loại bỏ được những yếu tố ảnh hưởng gây nhiễu loạn đi thì giá trị chính xác (hay có thể nói là lý tưởng), chắc bằng:
Vậy, có thể viết biểu thức tính lực như sau:
Nghĩa là:
g=G.1028
Còn một cách nữa xác định được giá trị hằng số g.
Từ biểu diễn cơ bản , chúng ta có được:
Và rút ra:
Thay vào biểu thức * * thì được:
Nhân tử số và mẫu số của vế phải cho 4:
Kể ra cũng vui thật! Đúng là hấp dẫn thật!
Chưa phải đã hết! Vấn đề rút ra được sau đây cũng vui và hấp dẫn không kém.
***
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét