Thứ Hai, 20 tháng 12, 2021

TT&HĐ V - 46/e


 
Sao chổi Ngôi sao lang thang, băng giá Phim khoa học khám phá vũ trụ thuyết minh YouTube

Sao chổi là một thiên thể bay ngoài không gian, nó gần như một tiểu hành tinh, nhưng không được cấu tạo từ đất đá mà chủ yếu là từ băng. Sở dĩ chúng có tên là sao chổi vì thường có hình thù kỳ dị, đầu nhọn, đuôi to giống một chiếc chổi quét nhà. Các nhà khoa học đã mô tả nó giống như “một quả bóng tuyết bẩn” vì nó chứa carbonic, metan, nước đóng băng lẫn với bụi và các khoáng chất.

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.

Upanishad       

CHƯƠNG VII (XXXXVI): HÚT - ĐẨY
“Lực hút cũng như lực đẩy, là thuộc tính cơ bản của vật chất.”

“Hấp dẫn cần phải được gây ra bởi một tác nhân thường xuyên tác động theo một qui luật nào đó, nhưng tác nhân này là vật chất hay phi vật chất thì tôi xin dành cho bạn đọc suy nghĩ.”
                                                                                                                                                 Niutơn

"Không xiềng xích hay thế lực bên ngoài nào có thể ép buộc tâm hồn của một người tin hay không tin."


"Tất cả vinh quang đều đến từ sự dám bắt đầu".
Eugene F Ware


"Tất cả mọi người đều mơ; nhưng không như nhau. Những người mơ về đêm, trong những ngóc ngách sâu kín lờ mờ của tâm trí, khi thức giấc vào ban ngày mới nhận ra đó là ảo ảnh; nhưng những người mơ vào ban ngày mới là đáng gờm, vì họ có thể thực hiện giấc mơ của mình với đôi mắt mở to, để biến chúng thành hiện thực".
T.E.Lawrence


"Ước mơ giống như những vì sao… ta có thể không bao giờ chạm tay vào được, nhưng nếu đi theo chúng, chúng sẽ dẫn ta đến vận mệnh của mình".
Samuel Johnson 


"Tôi được ban cho sự nhận thức về định mệnh của chính mình. Tôi chưa bao giờ tự hạ thấp bản thân. Tôi chưa bao giờ đánh giá mình theo tiêu chuẩn của người khác. Tôi luôn trông đợi nhiều ở chính mình, và nếu tôi thất bại, tôi thất bại chính mình".
Sophia Loren


"Tự tin là điều kiện đầu tiên để làm được những việc lớn lao".
Samuel Johnson  


"Hãy mơ ước bất cứ điều gì bạn muốn mơ. Đó là vẻ đẹp của trí tuệ con người. Hãy làm bất cứ điều gì bạn muốn làm. Đó là sức mạnh của ý chí con người. Hãy tin tưởng vào bản thân để thử thách những giới hạn của mình. Đó chính là lòng can đảm để thành công".
Bernard Edmonds 


"Không ai biết sau đó mọi chuyện sẽ xảy ra như thế nào nhưng chúng ta vẫn đi về phía trước. Bởi vì chúng ta có lòng tin và sự trung thực"
Paulo Coelho 

"Muốn hiểu Vũ Trụ này, phải hoang tưởng mãnh liệt. Muốn hoang tưởng mãnh liệt, phải có niềm tin".
NTT    

 

 


 (Tiếp theo)

Bản chất của lực hấp dẫn theo quan niệm của chúng ta xét cho cùng lại chỉ là lực đẩy; là sự tổng hợp tương tác thể hiện ra trong Vũ Trụ vĩ mô của số đông các thực thể trong Vũ Trụ vi mô. Vì càng vào sâu Vũ Trụ vi mô, kích thước các thực thể trong đó càng nhỏ, nghĩa là số lượng các hàm chứa trong nội tại chúng càng ít, nên hiệu ứng hấp dẫn càng trở nên mờ nhạt. Đến một độ sâu vi mô nào đó thì coi như hiệu ứng hấp dẫn không còn nữa. Trong Vũ Trụ vi mô, quyết định đến sự vận động và chuyển hóa KG là những tương tác hút đẩy có tính thế mà xét đến cùng thì đều là tương tác lực.
Nếu xét ở góc độ tạo nên áp lực (còn gọi là áp suất thì trong Vũ Trụ thực tại, không thể có lực nào lớn hơn lực , cho nên chúng ta gọi nó là lực cực đại tuyệt đối. Tuy nhiên, nó lại đại diện cho một động lượng (hay xung lực) rất nhỏ, nhỏ nhất Vũ Trụ. Chúng ta có thể qui ước giá trị đó là đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của động lượng (hay xung lực).
Giả sử rằng ở đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, vẫn còn thể hiện ra lực hấp dẫn và lực hấp dẫn giữa hai hạt KG  và  có thể biểu diễn được là:
thì chúng ta có thể thấy, so với lực cảm ứng kích thích KG , giá trị đó nhỏ hơn đúng 1028 lần. Vì hằng số g cũng lớn hơn hằng số G1028 nên chúng ta có thể coi về mặt thực chất, chúng chỉ là một. Quan niệm như vậy để thấy rằng G không phải là hằng số vì độ lớn của nó tăng dần theo hướng từ vĩ mô xuống vi mô của Vũ Trụ thực tại và đạt giá trị cực đại là 6,75.1020 ở đáy cùng Vũ Trụ vi mô. Nếu thế, phải chăng vì tính tương phản nghịch đảo của Vũ Trụ mà ở tầng trần cao nhất của Vũ Trụ vĩ mô, nó có giá trị cực tiểu là 6,75.10-20? Lúc diện kiến Tạo Hóa, vì câu hỏi này chưa phát sinh nên rất tiếc là không hỏi được!
***
Trường hấp dẫn đã không tồn tại thì trường điện từ có tồn tại thực sự như vật lý học đã khẳng định không? Đối với chúng ta, đây là một câu hỏi cực khó vì chúng ta hơi bị mù mịt về điện. Nhưng cũng cứ cố lần mò được đến đâu hay đến đó. Biết đâu chừng… “Hay không bằng hên” mà!
Chúng ta đã tưởng tượng ra được sự tồn tại của các hạt  và cho rằng đó là những thực thể nhỏ nhất mang điện tích nguyên tố của Vũ Trụ. Vậy, công việc đầu tiên cần phải thực hiện là đi xác định giá trị cụ thể lượng điện tích mà chúng hàm chứa.
Trước đây, chúng ta đã từng nhiều lần “lải nhải” và bây giờ lại lặp lại rằng, Tự Nhiên Tồn Tại là… Tồn Tại một cách Tự Nhiên, vốn dĩ là thế, hồn nhiên như thế đồng thời cũng buộc phải như thế chứ không thể khác. Đặc tính cơ bản nhất của Tồn Tại, có tính quyết định đến “số phận” của nó, là "có" đến tận “chân tơ kẽ tóc”, cái gì cũng "có" và cũng có nghĩa là không được xuất hiện “cái không có tuyệt đối” bên cạnh Tồn Tại. Nói cách khác, Tồn Tại là thực, là tuyệt đối, là bao trùm, Hư Vô là ảo, là tương đối và thuộc về Tồn Tại. Cũng vì lẽ đó mà có thể nói: Tự Nhiên Tồn Tại là tuyệt đối đầy đủ và chính vì thế mà nó gồm cả thiếu thốn đủ thứ cũng như dư thừa đủ thứ.
Trước bất cứ một quan sát và tư duy có tính đặc thù nào, Tự Nhiên Tồn Tại đều thể hiện ra đồng thời hai mặt cơ bản của nó là Không Gian và Thời gian, là Thực Tại và Vận Động. Nếu Không Gian là lực lượng của Tồn Tại thì Vận Động là hành vi Tự Nhiên của nó. Đến lượng Không Gian lại phân định tương đối và thành hai thể là môi trường không gian và thực thể KG. Như vậy Không Gian Vận Động là thể hiện của Tự Nhiên Tồn Tại trước quan sát, và đồng thời cũng chính là Tự Nhiên Tồn Tại.
Nếu cho rằng Không Gian là thực thể của Tồn Tại thì Vận Động là phương thức Tự Nhiên nhằm đảm bảo tuyệt đối Tồn Tại. Giữ vai trò như vậy thì Vận Động cũng có tính tuyệt đối, nghĩa là khắp nơi vận động, không ngừng vận động, vận động đến “chân tơ kẽ tóc”, đủ kiểu vận động, vận động phong phú về nhịp điệu và đầy đủ về mức độ. Tính tuyệt đối ấy của Vận Động Không Gian phải được “phơi bày” ra hết đến cùng cực, trước quan sát và tư duy nhận thức (dù có thể quan sát và tư duy nhận thức chưa đạt đến trình độ để “thấy” hết được), vì nếu không như thế sẽ có Hư Vô “bên cạnh” Tồn Tại. Điều hết sức phi lý!  Không bao giờ và không một ai có thể thấy được, cảm được, nghĩ được "chút xíu gì" về Hư Vô!
Mặt khác Tự Nhiên cũng phải tạo ra cho quan sát, tư duy và nhận thực cái khả năng phân biệt được các loại, các dạng, các nhịp điệu, các mức độ vận động để so sánh, đánh giá chúng. Một trong những “phương tiện” cơ bản nhất và Tự Nhiên “ban tặng” cho quan sát, tư duy và nhận thức để có khả năng phân biệt và đánh giá vận động chính là độ dài lâu mà thước đo nó được chúng ta gọi là Thời Gian. Vậy, Thời Gian là biểu hiện về độ dài lâu - một thuộc tính của Vận Động Không Gian. Vì thế mà Thời Gian không thể là cái gì đó độc lập, ở bên ngoài Không Gian được. Cũng chính vì thế mà Vận Động Không Gian là vĩnh cửu, Tự Nhiên Tồn Tại là vô thủy vô chung! Vũ Trụ thực ra chỉ gồm và cũng chính là Không Gian Vận Động hay Tự Nhiên Tồn Tại. Vũ Trụ đã không thể có bắt đầu mà cũng không thể có kết thúc trong Thời Gian, thì cái gọi là Big Bang "của vật lý học" cũng không hề có thực, hoặc nếu có thực thì nó chỉ hiện diện trong thế giới ảo huyền vật lý học mà thôi.
Không Gian vốn dĩ phân định tương đối thành hai lực lượng (nhiều khả năng là không bằng nhau) là môi trường không gian và thực thể KG. Đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của môi trường không gian là , đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của thực thể KG là . Hai đơn vị ấy bằng nhau về lực lượng, kích thước, chỉ khác nhau về trạng thái nội tại và có thể chuyển hóa thành nhau theo phương thức gọi là cảm ứng kích thích không gian.
Một hạt  độc lập không thể “đứng yên” một chỗ mà phải lan truyền trong môi trường không gian với vận tốc cực đại tuyệt đối C. Khi ở đâu đó tương đối gần nó xuất hiện một hạt khác, trái dấu hoặc đồng dấu với nó, thì hai hạt đó xử sự đối với nhau như thế nào? Trước đây, chúng ta đã cho rằng trong trường hợp trái dấu, chúng hút nhau, và trong trường hợp đồng dấu, chúng đẩy nhau. Nhưng thực chất có phải như vậy không?
Để may ra có thể trả lời được câu hỏi đó, trước hết, chúng ta phải trả lời câu hỏi: bản chất của thứ gì đó gọi là “điện” đó, là thứ gì?
Chúng ta đã mường tượng vận động nội tại của một hạt KG thông thường () là sự chuyển hóa trạng thái lần lượt qua 4 trạng thái rồi cứ thế lặp đi lặp lại một cách chu kỳ tương tự như một giao động điều hòa. Vận động nội tại này được quyết định bởi sự chi phối của 4 vận động nội tại của 4 hạt KG quanh nó, tiếp xúc với nó và đồng thời cũng tạo “vỏ bọc” làm nên nó.
Vì hạt luôn cố định tuyệt đối trong mạng khối không gian và chỉ vận động nội tại một cách chu kỳ và điều hòa thôi nên còn có thể nói nội tại hạt KG giao động điều hòa với 4 trạng thái năng lượng của nó. Bốn trạng thái đó, xét ở góc độ này là không phân biệt được, xét ở góc độ khác là phải phân biệt được, và vì nội tại hạt  tồn tại như một điểm cố định tuyệt đối nhưng giao động, cho nên dẫn đến hình dung về một sự xoáy không gian như thế nào đó. Có lẽ sự xoáy không gian này phải là sự xoáy tổng hợp của hai sự xoáy thành phần. Tương tự như hiện tượng cảm ứng (tự cảm) trong điện học, sự xoáy này tăng lên về cường độ xoáy thì gây cảm ứng cho sự xoáy kia chống lại sự tăng ấy và ngược lại. Nghĩa là dưới sự chi phối của môi trường, hai sự xoáy không gian có mối quan hệ “sống còn” và là tiền đề tồn tại của nhau ấy tương tác nhau, chuyển hóa nhau và hợp thành một xoáy không gian thống nhất có tính điều hòa.
Khi tác động của môi trường không gian đến hạt trở nên bất thường thì sự xoáy không gian của nội tại nó cũng trở nên bất thường và sự xoáy điều hòa bị kích hoạt lên thành xoáy cưỡng bức. Chúng ta cho rằng, xoáy cưỡng bức là xoáy mà hai thành phần xoáy của nó hoạt động thuận chiều nhau, cộng hưởng nhau làm cho vận động nội tại của hạt KG đạt đến trạng thái tột độ, và lúc này hạt đã chuyển biến thành hạt .
Trạng thái tột độ của hạt  gây nguy cơ “nhãn tiền” làm nổ tung nó nếu nó không lập tức khắc phục được trạng thái ấy. Nếu hạt nổ tung thì một lỗ hổng Hư Vô sẽ xuất hiện và chúng ta đành… chấm dứt câu chuyện ở đây! May quá, Tự Nhiên Tồn Tại không bao giờ “chơi trò” phi tự nhiên như thế nên đã khắc phục trạng thái tột độ của hạt  bằng cách “ra lệnh” cho nó ngay tức khắc “trao cái vương miện kích thích tột độ” của nó cho một trong 4 hạt KG tiếp giáp quanh nó để trở về “làm thường dân” . Tuy nhiên, khi một trong 4 hạt KG vừa nói bỗng dưng “được” đội vương miện kích thích tột độ thì trạng thái của nó (có lẽ vì vui sướng quá?) cũng được kích thích lên tột độ. “Vui chưa tày gang” rồi cũng phải nhanh chóng trao cái vương miện đó cho hạt khác nữa. Cứ thể, trước “người trần mắt thịt”, hạt xuất hiện đầu tiên dù đã “ngủm củ tỏi” từ lâu, vẫn được thấy như còn sống, “tung tăng cưỡi ngựa xem hoa” trong Vũ Trụ với tốc độ “nhởn nhơ” và đều đặn bằng… C.
Như đã quan niệm, nguyên lý phân định của Tự Nhiên làm cho hạt KG phải có hai trạng thái tột độ tương phản nhau mà chúng ta qui ước gọi là trạng thái tột độ dương (+) và trạng thái tột độ âm (–) để phân biệt. Vậy thì hai hạt khác nhau ở chỗ nào? Nếu dựa vào hình dạng, kích thước, lực lượng thì chắc chắn tuyệt đối không phân biệt được. Hay là chúng khác nhau về màu sắc như đã nói? Thực ra màu sắc chỉ là qui ước của chúng ta thôi. Chỉ một bộ phận sinh vật mới cảm nhận được theo màu sắc thôi và hơn nữa, ở tầng nấc vĩ mô nào đó, làm gì có ánh sáng! Thế là cuối cùng, khả dĩ nhất, chỉ có thể phân biệt được hai hạt trái dấu nhau theo chiều xoáy nội tại của chúng. Cần nhớ rằng các hạt không bao giờ đứng yên mà luôn luôn lan truyền với vận tốc cực đại c. Vì c là vận tốc cực đại tuyệt đối nên hướng xoáy nội tại của mọi hạt phải vuông góc với hướng lan truyền của chúng, và có thể dựa vào hướng tiến của chúng mà phân biệt được chiều xoáy thuận hay nghịch. Nếu hạt có chiều xoáy thuận được gọi là mang điện dương thì có chiều xoáy nghịch được gọi là mang điện âm. Để không mâu thuẫn thì vì động năng của hạt , “nhìn” ở góc độ khác cũng là nội năng và đúng bằng năng lượng toàn phần của nó nên phải quan niệm rằng nếu thật có chuyển động thì không thấy sự xoáy nội tại của nó và ngược lại.
Khi hai hạt  trái dấu nhau tiếp xúc nhau, chúng sẽ chuyển hóa nhau để trở thành hai hạt . Có thể thấy sự tương tác đó như là một sự trao đổi một phần kích thích trái chiều cho nhau. Trong trường hợp hai hạt  trái dấu nhau tiến về phía nhau với cùng vận tốc c thì coi như so với nhau, chúng tiến đến nhau với tốc độ 2c và như thế tưởng chừng như lực tương tác của hạt này lên hạt kia phải lớn hơn trong trường hợp một trong hai hạt là . Nhưng có lẽ không phải vậy vì tương tác - được thấy như sự trao đổi kích thích hoàn toàn, còn tương tác - được thấy như sự trao đổi kích thích một phần, và như thế, lực tương tác của hai trường hợp ấy có thể là bằng nhau, cùng bằng , thậm chí còn có khả năng lực của trường hợp sau nhỏ hơn của trường hợp trước.
Thực nghiệm điện học đã chỉ ra, chắc chắn là có hiện tượng tự nhiên hạt vật mang điện trái dấu thì tiến về phía nhau, hai vật mang điện đồng dấu thì tiến ra xa nhau. Đối với hai hạt , tình hình có lẽ cũng như vậy. Nhưng thử hỏi, hai vật mang điện có tự thân chúng nỗ lực hút hay đẩy nhau không? Có thể coi môi trường không gian không phải là vật chất mà chỉ là “bệ đỡ”, tạo khả năng cho vật chất (tức các thực thể KG) vận động và tương tác lẫn nhau thì theo quan niệm “tác dụng gần” và hơn nữa, theo quan niệm truyền tương tác của chúng ta, điều đó không thể xảy ra được! Nếu chúng hút hay đẩy nhau thật thì ít nhất cũng phải có một cái gì đó từ môi trường ảnh hưởng tới chúng, kích thích chúng có hành vi như vậy và quá trình đó không phải ngẫu nhiên, tình cờ, mà phải theo qui luật. Nhất là đối với các hạt lại càng không thể hình dung được chúng tự thân hút hay đẩy nhau từ xa. Thứ nhất là vì chúng luôn “chuyển động” với vận tốc đều và cực đại c nên không thể hút hay đẩy nhau để làm tăng vận tốc đó lên nữa. Thứ hai là chẳng có cái gì khác làm trung gian để truyền tương tác lực của chúng. Thứ ba là khi các hạt  luôn chuyển động trong Vũ Trụ với vận tốc cực đại c rồi thì coi như trạng thái tột độ đe dọa đến sự bùng nổ hạt KG đã được giải quyết, và do đó chúng chẳng còn nỗi bức xúc nào thôi thúc để mà phải nỗ lực tìm đến nhau hoặc lánh xa nhau cả.
Vậy thì vì sao? Chỉ còn một cách giải quyết vấn đề duy nhất là bám vào nguyên lý ưu tiên lựa chọn hướng lan truyền năng lượng trong Vũ Trụ vi mô mà chúng ta đã phát hiện ra (hay bịa ra?). Theo nguyên lý đó, năng lượng luôn có xu thế phát tán từ miền có mức năng lượng cao hơn đến miền có mức năng lượng thấp hơn, và ưu tiên hướng đến nơi có mức năng lượng thấp nhất. Có thể hình dung hai miền có mức năng lượng cao thấp khác nhau đã làm cho vùng môi trường không gian giữa chúng đóng vai trò như một vùng dốc từ miền có mức năng lượng cao “xuôi về” miền có mức năng lượng thấp, mà độ dốc của vùng đó là do mức độ chênh lệch năng lượng giữa hai miền qui định. Cũng có thể coi vùng dốc đó là một trường lực thế ảo. Nếu ở trong trường đó xuất hiện một hạt  thì hạt này sẽ chuyển biến thành sóng và lan truyền tự do theo chiều dốc xuống khi vận tốc đạt đến cực đại có thể.
Tương tự như nguyên lý ấy hoặc coi như được rút ra từ nguyên lý ấy, về mặt điện, cũng có nguyên lý ưu tiên lựa chọn hướng lan truyền điện tích. Có thể phát biểu nguyên lý đó như sau: điện tích luôn có xu thế được phát tán từ miền có mức điện lượng trái dấu thấp hơn đến miền có mức điện lượng cao hơn, và hướng ưu tiên là đến nơi có mức điện lượng trái dấu cao nhất. Như vậy, theo nguyên lý này, đối với hai miền chênh lệch điện tích trái dấu, nếu hướng đến một miền là hướng phát tán của điện tích dương thì mặc nhiên, hướng đến miền còn lại là hướng phát tán của điện tích âm, nghĩa là giữa hai miền đó xuất hiện một hiệu ứng trao đổi điện tích cho nhau và như vậy vùng môi trường không gian giữa hai miền đó phải đóng vai trò cùng một lúc có hai chiều dốc ngược nhau. Cũng có thể coi vùng không gian đó tồn tại ảo một trường điện thế. Một miền dốc với hai hướng tác động ưu tiên cho hai loại hạt điện tích: hướng "lên dốc" và hướng "xuống dốc!
Chúng ta cho rằng nhờ có nguyên lý nêu trên mà hai hạt  ở xa nhau mới có khả năng tiến đến nhau hoặc tiến ra xa nhau được thôi. Khi hai hạt ở cách nhau một khoảng tương đối xa nào đó thì giữa chúng là hai con đường thẳng ảo “dốc xuống” từ hạt này đến hạt kia và ngược lại làm chúng tiến về phía nhau. Vì hai con đường ảo đó có độ dốc bằng nhau nên chúng cắt nhau tại điểm giữa khoảng cách của hai hạt trái dấu, và đó cũng là nơi mà chúng có thể gặp nhau. Tại sao lại chỉ là có thể mà không chắc chắn? Tại vì chúng ta đã từng lý giải rằng nếu số lượng các hạt “tạo nên” con đường dẫn hai hạt  trái dấu cùng đến gặp nhau là chẵn thì chúng mới gặp nhau để tương tác nhau  biến thành hai hạt được, còn nếu lẻ thì chúng không thể tiếp xúc với nhau vì cùng bị chặn lại bởi cùng một hạt  và do đó chúng hợp thành một hệ xoáy không gian gọi là hạt  (trung hòa về điện).
Có thể từ suy lý mà đi đến nhận định: tương tác chuyển hóa   - có tính cứng, đàn hồi, còn chuyển hóa hủy cặp - có tính mềm, không đàn hồi, do đó lực phát sinh trong tương tác  hủy cặp (gọi là lực tĩnh điện) cực đại, ký hiệu là ) rất có thể phải nhỏ hơn lực . Nhưng nhỏ hơn là bao nhiêu và có cách nào tính ra lực ấy không? Có!
Khi hai hạt  trái dấu tiến đến nhau và cách nhau một hạt  thì vì không thể có khả năng tiếp xúc để “yêu thương” nhau được mà cũng không thể cứ “đứng ì ra đó” được, nên lập tức chúng phải chọn cách: hạt này tiến xuống dốc “quanh co” đến phía “sau lưng” hạt kia và đồng thời hạt kia cũng tiến xuống dốc “quanh co” tương tự đến lưng hạt này, tạo ra một cuộc “theo đuổi” có lẽ là điên cuồng nhất Vũ Trụ mà cũng vô vọng nhất Vũ Trụ.
Sự xoáy không gian của nội tại hạt là tổng hợp của sự xoáy nội tại của hai hạt  trái dấu và sự quay quanh nhau của hai hạt ấy. Khó mà hình dung được sự xoáy không gian ấy trong thực tại ở tầng đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, nhưng chúng ta tin rằng về mặt nguyên lý, nếu đặt hạt trong không gian Ơclit (Không gian của Vũ Trụ vĩ mô), thì mô hình của nó phải tương tự như minh họa ở hình 5.
Hình 5: Mô hình hạt
Khi hạt  chuyển động theo đường thẳng (trong không gian Ơclit) thì trục xoáy của nội tại nó trùng với trục của véc tơ vận tốc c. Nhưng khi nó chuyển động tròn quanh tâm O (xem hình 5), thì vì vẫn phải đảm bảo lan truyền kịp thời để giải quyết “bài toán” trạng thái tột độ nên vận tốc chu vi của nó vẫn phải bằng c. Muốn vậy, sự xoáy nội tại của hạt phải chuyển hóa sao cho không có phần tử nào trong nội tại nó được chuyển động lớn hơn mà cũng không được nhỏ hơn vận tốc c, nghĩa là trục xoáy của nó không còn trùng với trục của véc tơ vận tốc c nữa mà phải lệch đi. Lúc này có thể sự xoáy nội tại của hạt được thấy như là tổng hợp của hai thành phần xoáy không gian, một xoáy có trục trùng với trục của véc tơ vận tốc c, một xoáy có trục đi qua tâm hạt và vuông góc với trục của véc tơ vận tốc c. Xoáy “mới” xuất hiện này có tác dụng chống lại “nguy cơ” gây tăng, giảm vận tốc truyền trong nội tại hạt . Trên hình 5, chúng ta thấy hai hạt có vẻ như lăn chứ không trượt trên bề mặt hạt .
Hai hạt trái dấu trên hình 5 quay quanh tâm O được là nhờ hiệu ứng điện thế xuất hiện “ràng buộc” chúng với nhau, do chính chúng “hợp tác” tạo thành tuân theo nguyên lý ưu tiên lan truyền điện tích, và cũng vì không thể tiếp xúc với nhau được, mà cũng không thể đứng yên một chỗ được. Khi quay như thế, coi như mỗi hạt đều bị “ràng buộc” một lực hướng tâm bởi tâm O, đồng thời cũng chịu một lực ly tâm cân bằng với lực đó. Lực hướng tâm này chính là lực điện fe mà chúng ta đang tìm cách xác định giá trị cụ thể của nó.
Trước hết, chúng ta biết rằng, biểu thức tính gia tốc hướng tâm theo truyền thống là:
với: d1 là đường kính biểu kiến của hạt
       r1 là bán kính của nó
       t1 là thời gian chu kỳ xoáy (còn gọi là thời gian riêng) của
Theo hình vẽ 5 thì:
d1=2do
với do là đường kính của hạt  và cũng là của hạt
Vì năng lượng toàn phần của một thực thể KG chỉ tùy thuộc vào khối lượng của nó mà không phụ thuộc vào tỷ số giữa đường kính (gọi là riêng) và thời gian riêng của nó, nên có thể suy ra được:
t1=2to
Vậy lúc này:
Với gia tốc này, và bằng cách nào đó triệt tiêu vận tốc chu vi c của hạt  mà không làm ảnh hưởng đến bất cứ yếu tố nào khác, thì hạt  sẽ chuyển động tịnh tiến theo hướng kính vế phía tâm O và khi O+ trùng với O thì đạt vận tốc cực đại c' nào đó. Vì thời gian đi hết quãng đường phải là t1/4 hay to/2 nên:
Đó là điều lạ lùng vì không thể có c'>c được? Thực ra c' chỉ là một giá trị ảo, không thực, tương tự như vận tốc  trong sự lan truyền sóng ánh sáng, có thể lớn hơn vận tốc truyền sáng c. Trên hình 5, có thể thấy hình chiếu của quãng đường tròn (một phần tư đường tròn tâm O) mà hạt đi được, trên đường thẳng xuyên tâm 3 hạt KG là đoạn . Trên đoạn thẳng này, hình chiếu về sự chuyển động của hạt theo cung   là một chuyển  động nhanh dần, tăng vận tốc từ đứng yên và đạt đến vận tốc cực đại c tại tâm O. Hình chiếu chuyển động đó là một phản ánh phiến diện về một thực tại, cụ thể là về sự chuyển hóa phương chiều vận tốc c từ hướng thẳng đứng sang hướng ngang, và chỉ ra tốc độ của sự chuyển hóa ấy là:
Để khi O+ trùng với O, tức là sau t1/4 thời gian, có được:
Trước đây, chúng ta đã từng nêu ra biểu thức gia tốc này và ngộ nhận cho rằng đó là cách viết đúng. Bây giờ, chúng ta mới biết biểu diễn như thế là chưa chính xác. Dễ thấy, khi xét tại thời điểm t1/8 (hay to/4, vị trí A’ trên hình 5), vì góc lập giữa véc tơ vận tốc c và véc tơ vận tốc thành phần ngang c2 của nó là , nên giá trị thực của c2 là:
Trong khi tính theo công thức nêu trên, sẽ cho ra kết quả:
Sự chênh lệch về kết quả đó, không thể phủ nhận được: biểu diễn toán học về gia tốc a' ở trên có khiếm khuyết trầm trọng. Cần thấy rằng, quá trình ảo tăng vận tốc từ giá trị 0 đến giá trị c trên đoạn không phải đều đặn đơn thuần như chúng ta đã tưởng. Do chuyển động thực của hạt là quay quanh tâm O nên trong suốt quá trình ảo do phải chịu ảnh hưởng bởi sự biến đổi góc (cụ thể ở đây là giảm dần giá trị từ  đến 0) mà nhịp điệu tăng vận tốc có khác đi. Như vậy, biểu thức tính a' phải được bổ sung thêm “một chút” để có dạng như sau:
với: là vận tốc góc của quay quanh tâm O1 trên đường tròn có đường kính d1.
là giá trị góc tại thời điểm t (ký hiệu )
Nếu viết biểu thức đó theo do, to thì:
với
Rõ ràng là áp dụng biểu thức trên để tính giá trị c2 tại thời điểm hay , sẽ có được kết quả đúng với thực tế:
Khi đã biết các thông số vật lý cần thiết về quá trình chuyển động biến đổi ảo của hạt trên đoạn  rồi thì chúng ta cũng có thể viết ra biểu diễn toán học về mối quan hệ xung lực – động lượng của hạt trong quá trình ấy như sau:
Như chúng ta đã quan niệm thì chỉ khi một vật tương tác với vật khác, lực của nó mới xuất hiện và triển khai tác dụng. Vì vậy, trong trường hợp này, vế trái của biểu diễn trên không phải là một xung lực thực sự, mà chỉ được coi là một xung lực ảo, hay một tiềm xung lực theo hướng ngang, ẩn tàng trong nội tại hạt và thể hiện ra ngoài, trước quan sát, bằng một động lượng theo hướng ngang của hạt  tại thời điểm t’ khi nó chuyển động thực trên quĩ đạo tròn có tâm là O, có đường kính là d1 (trong khoảng cung tròn , vì biểu diễn toán học trên chỉ đúng trong khoảng  thôi, ngoài khoảng này phải điều chỉnh lại mới phù hợp). Điều đó cho thấy tiềm xung lực F1..to, trong hiện thực, không hướng đến tâm O’ mà chỉ có hướng đến vuông góc với đoạn . Sự hướng đó thực ra cũng chỉ là ảo và được chọn một cách “tùy hứng”, hoàn toàn chủ quan của chủ thể quan sát trước khi tiến hành khảo sát.
Từ biểu diễn ấy có thể viết được:
Và thấy: F1. không bao giờ có thể lớn hơn được , vì giá trị cực đại của t' trong trường hợp thiết lập biểu diễn toán học này chỉ cho phép bằng , và chỉ khi đó mới tồn tại .
Sự phản ánh của quá trình ảo về sự chuyển hóa vận tốc, hay động lượng của hạt “dẫn đến” sự chuyển hóa về tiền xung lực trong nội tại nó mà chúng ta vừa khảo sát có mang ý nghĩa đặc biệt nào không?
(còn tiếp)
----------------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét