Thứ Sáu, 10 tháng 12, 2021

TT&HĐ V - 45/i

 
Những phát minh thiên tài - Phần 1: Năng Lượng
  
Những phát minh thiên tài (Phần 2)

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.

Upanishad       

CHƯƠNG VI (XXXXV): THỰC CHỨNG

“Tinh thần thời đại cũng có thể là một sự thực khách quan như bất cứ sự thực nào trong khoa học tự nhiên (…).
Do đó, hai quá trình, quá trình khoa học và quá trình nghệ thuật, không phải là rất khác nhau. Cả khoa học và nghệ thuật trong suốt nhiều thế kỷ đã tạo nên ngôn ngữ con người mà nhờ đó chúng ta có thể nói về những phần rất xa xôi của thực tại…”.

"Nếu bạn sinh ra trong nghèo khó, đó không phải là lỗi của bạn. Nhưng nếu bạn chết trong nghèo khó, thì đó là lỗi của bạn…".
"Cơ hội làm điều ác đến một trăm lần một ngày, và cơ hội làm điều thiện chỉ đến một lần trong một năm".

"Thật tuyệt vời là con người đã sử dụng biết bao thời gian để chống lại cái ác. Giá mà họ cũng sử dụng năng lượng đó để yêu thương người khác, cái ác sẽ tự chết vì buồn chán".


Good act bring good result, bad actions bring bad result. Don't expect the gods to do thing for you, or the angles and guardian deities to protect you, or the auspicious days to help you. These things aren't true. Don’t believe in them. If you believe in them , you will suffer. You will always be waiting for the right day, the right month, the right year, the angles or the guardian deities. You'll only suffer that way. Look into your own actions and speech, into your own kamma. Doing good, you inherit goodness, doing bad you inherit badness.


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/225/sw/n/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn

Good act bring good result, bad actions bring bad result. Don't expect the gods to do thing for you, or the angles and guardian deities to protect you, or the auspicious days to help you. These things aren't true. Don’t believe in them. If you believe in them , you will suffer. You will always be waiting for the right day, the right month, the right year, the angles or the guardian deities. You'll only suffer that way. Look into your own actions and speech, into your own kamma. Doing good, you inherit goodness, doing bad you inherit badness.


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/225/sw/n/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
"Thế giới hiện thực có giới hạn; thế giới tưởng tượng là vô hạn".

“Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt.” 
Napoléon



(Tiếp theo)


Hiện tượng hạt sáng từ môi trường chân không vào môi trường nước và lại bị làm thay đổi vận tốc truyền tại O, về mặt hình thức, tương tự như trong trường hợp tổng hợp vận tốc mà từ đó chúng ta rút ra được biểu thức . Tuy nhiên, dễ dàng hơn nếu dùng biểu thức ’ để đi thiết lập công thức chiết xuất ánh sáng trong hiện tượng khúc xạ, với tưởng tượng rằng môi trường chân không đóng vai trò là một hệ đứng yên và môi trường nước đóng vai trò một hệ chuyển động so với môi trường chân không, có vận tốc v có phương trùng với đường pháp tuyến , có chiều về phía môi trường chân không (xem hình 4).
Giả sử rằng, trong thời gian t, hạt sáng S trong môi trường I đạt được khoảng cách l1. Như vậy sẽ có:
Cũng trong một khoảng thời gian bằng t (là khoảng thời gian t’ của môi trường n đã được qui đổi ra theo đơn vị thời gian của môi trường I), hạt sáng đạt được khoảng cách trong môi trường II là l2 (đã qui đổi theo đơn vị độ dài của môi trường I!):
Mối quan hệ về độ dài giữa y1 và y2, x1 và x2, l1 và l2 như sau:
- Vì y1 và y2 được coi như khoảng cách mà hạt ánh sáng đạt được với thành phần vận tốc trùng phương với vận tốc v, sau một khoảng thời gian bằng t, lần lượt trong môi trường I và II, trong đó, y1 không bị ảnh hưởng bởi v còn y2 bị v tác động ngược chiều, nên theo biểu thức , phải có:
- Tương tự, vì x1 và x2 là hai khoảng cách mà coi như hạt sáng S đạt được lần lượt trong hai môi trường nhờ thành phần vận tốc vuông góc với phương của vận tốc v, nên theo , phải có:
- Từ v2 = c2 – V2 suy ra dễ dàng:
Sử dụng những biểu thức ở trên, chúng ta sẽ thiết lập được thêm:

Từ đó biết rằng, trong một tam giác vuông, sin của góc nhọn này bằng cosin của góc nhọn kia, chúng ta rút ra:
Và:
Nhìn lại hình 4, chúng ta phát hoảng! Rõ ràng trên hình 4 đã thể hiện:
Nhưng sao ở đây lại cho rằng chúng bằng nhau, hơn nữa nếu chúng bằng nhau thì cũng phải bằng , nhưng sao ở đây lại thể hiện ngược lại?
Té ra sự dẫn giải và rút ra kết quả trên đã phạm sai lầm ở đâu đó nên đã làm xuất hiện một mâu thuẫn nội tại. Trong quá trình biến đổi toán học.
Vậy thì sai lầm đó nằm ở đâu?
Nếu có rà đi soát lại những biến đổi toán học ở trên thì vĩnh viễn không thể phát hiện được. Sai lầm đó có nguyên nhân từ nhận thức vật lý chưa thấu đáo của chúng ta. Vì thế chúng ta chỉ có thể tìm manh mối dẫn tới sai lầm trong quá trình nhận thức ấy.
Theo lượng giác thì:
Nhưng ở đây lại không thỏa mãn được hằng đẳng thức ấy. Hiển nhiên là:
       và 
          
Tuy nhiên, sau khi đã biến đổi y1 sang y2, x1 sang x2, l1 sang l2 rồi áp dụng chúng thì… than ôi:
Vì trong trường hợp cụ thể ở đây, . Nhưng vì sao chỉ khi v = 0 nó mới nghiệm đúng, bằng 1?
Chính câu hỏi đó đã làm lộ diện cái nguyên nhân sâu xa dẫn đến mâu thuẫn nội tại ở trên. Khi chúng ta cho v bằng 0 thì rõ ràng cũng có nghĩa là cho hai môi trường I và II đồng nhất, do đó mà cũng chẳng xảy ra hiện tượng khúc xạ được. Vậy điều kiện tiên quyết là v phải khác 0. Mặt khác, khi thực hiện xác định giá trị sin và cosin của môi trường I và chuyển đổi chúng qua môi trường II, xác định sin và cosin của môi trường ấy như đã làm, chúng ta đã làm một điều rất chi là trái khoáy: chuyển đổi các khoảng cách ra hợp với môi trường I, rồi lại xem xét chúng trong môi trường II (nghĩa là ngồi trong nước mà dùng số liệu trong chân không để xem xét hiện tượng!).
Chúng ta nên nhớ lại:
Từ v2 = c2 – V2, có thể viết:
Biểu diễn đó toát lên một điều: hạt sáng có khối lượng m lan truyền trong môi trường có mức năng lượng cao hơn môi trường chân không (biểu thị bằng v2) thì phải giảm tốc độ vì một phần động năng của nó (mv2) được dùng vào việc làm cân bằng sức cản của môi trường ấy và được mô tả dưới dạng toán học:
Từ mô tả đó có thể suy ra được:
Và:
Chia hai vế cho l1 thì:
Số  ở vế phải của biểu thức chính là đơn vị đo khoảng cách (đo chiều dài) qui ước trong môi trường chân không như thế, tỷ số , không thể khác, phải là đơn vị đo khoảng cách trong môi trường nước và nếu ký hiệu nó là thì:
Khi biến đổi l2 sang môi trường I thì đồng thời cũng biến đổi sang môi trường ấy và độ dài đã qui đổi của l2 là đo theo  đã qui đổi. Lúc này, vì nên l1 và l2 không được đo trên cùng một đơn vị đo khoảng cách. Vì thế mà các biểu thức xác định mối quan hệ giữa các sin và các cosin giữa hai môi trường đã sai lầm nghiêm trọng.
Vì đang xét hiện tượng trong hiện thực và qui ước về đơn vị đo khoảng cách và thời gian của môi trường I nên phải đưa l2 sang đo theo đơn vị đo khoảng cách của môi trường ấy cho đồng nhất đơn vị đo của l1. Muốn vậy, phải chia l2 đã qui đổi cho , nghĩa là đối với hai tỷ lệ thức ở phần mẫu số,  phải thay ký hiệu l2 bằng l1 và ở phần tử số, “vứt vào sọt rác” lượng  để có được hai biểu thức (có lẽ!) đúng đắn sau đây:
Và:
Có thể biến đổi:
Và:
Nên còn có thể viết:
Và:
Với n được gọi là chiết xuất tuyệt đối của một môi trường nào đó (ở đây là môi trường nước) đối với môi trường chân không.
Giả sử có hai môi trường không phải chân không là 1 và 2, có chiết xuất tuyệt đối lần lượt là:
và:
,
thì chiết xuất của môi trường 2 đối với môi trường 1 được gọi là chiết xuất tỷ đối, được xác định:
Thế là với thí nghiệm giả tưởng ở hình 4 và suy xét trên cơ sở những biểu thức do chúng ta “bày đặt” ra và cho rằng chúng có tính phổ quát, chúng ta cũng đã lập được công thức tính chiết xuất của quang hình học. Chúng ta cho rằng để diễn tả xử sự của một tia sáng khi nó được truyền đến mặt phân cách giữa hai môi trường có mức năng lượng khác nhau, phải dùng đến cả hai công thức mới đầy đủ. Để thử xem hai công thức đó hàm chứa những nội dung gì và hợp lý đến mức nào, chúng ta sẽ tìm hiểu vài trường hợp đặc biệt sau đây:
- Khi V = 0 thì v = c, môi trường II đạt mức năng lượng cực đại (mật độ năng lượng cực đại) tuyệt đối. Đó chính là mức năng lượng của nội tại hạt KG thông thường. Vì thế mà hạt KG “đứng” cố định tuyệt đối trong Vũ trụ và không có bất cứ tia sáng nào xâm nhập được vào môi trường đó được. Tuy nhiên sự cảm ứng kích thích đã tạo ra cảnh tượng có vạn vật - hiện tượng trong Vũ trụ và mọi thực thể đều vận động không ngừng, đều có thể chuyển động, di dời vị trí và lan truyền dễ dàng trong đó. Xét ở góc độ này thì mức năng lượng cực đại tuyệt đối lại là mức năng lượng cực tiểu tuyệt đối (gọi là mức năng lượng 0).
Xét hai công thức thì khi V = 0 (còn có thể hiểu là V không tồn tại), phải điều chỉnh lại cách viết. Lúc này được viết:
(: dấu cộng biến thành dấu trừ vì lúc này coi như tia sáng đi từ môi trường II sang môi trường I).
nên , do đó , và . Nghĩa là xét ở góc độ này thì tia sáng từ môi trường I không thể xâm nhập được vào môi trường II, nhìn ở góc độ kia thì môi trường II đồng nhất với môi trường I. Hoặc cũng có thể hiểu là hạt KG kích thích (năng lượng) chỉ có khả năng lan truyền hay bức xạ từ bề mặt của môi trường II vào môi trường I.
- Khi V = c thì v = 0, do đó hai môi trường là đồng nhất về mọi phương diện. Lúc này, theo hai công thức thì:
tia sáng truyền theo bất cứ phương chiều nào cũng thẳng, nghĩa là không thể xảy ra hiện tượng phản xạ, khúc xạ.
- Khi V = -c thì cũng theo hai công thức:
tia sáng phản xạ lại khi chạm phải dải phân cách.
- Cho thì . Theo công thức thì tia sáng đi trong môi trường I, song song với dải phân cách và không bị tác động bởi môi trường II (vế phải của công thức không tồn tại).
Những nhận xét ở trên có đúng không và nếu đúng thì đúng đến mức độ nào? Chúng ta không thể trả lời được và chỉ còn cách chờ “đèn trời” soi xét!
- Hình như hai công thức mới gần đúng thôi chứ chưa chính xác đâu, Hoang Tưởng ơi! - Tiếng Hiện Thực vọng đến.
- Ủa, anh đấy à!... Nhưng dựa vào đâu mà anh có ý kiến ấy?
- Thì cũng dựa vào những điều anh đã từng nói chứ dựa vào đâu được nữa? Dù là không hiểu ất giáp mấy nhưng trước đây có lần anh nói: chỉ khi bằng 1 thì mới có thể viết được c2 = V2 + v2. Như vậy, nếu phát biểu này đúng thì dù công thức có đồng thuận với quang học đi nữa, nó vẫn chưa hẳn chính xác…
- A, A…, A! Á, Á, …, Á! Thôi đúng rồi!... Tôi nói cho anh biết điều này nhé, Hiện Thực! Từ đầu cuộc hành trình đến giờ tôi vẫn tưởng anh chỉ là một cái máy ghi chép, không ngờ anh còn đồng thời tư duy trên những vấn đề mà tôi hoang tưởng nữa, và ý kiến vừa rồi của anh, rõ ràng là tuyệt vời, thật đáng ngàn vàng! Cảm ơn nhé! Thôi… viết tiếp đi!
Chúng ta mừng quýnh! Hóa ra, tự chúng ta đã làm cho một vấn đề hết sức giản dị trở nên rối rắm, phức tạp. Có gì đâu! Chỉ cần duy nhất biểu thức và nhờ đến mối tương phản ảo thực (giữa trong và ngoài môi trường), là chúng ta rút ra được tất cả một cách đầy đủ:

Từ đó có ngay:

Với hai công thức mới là ’ và ’, chúng ta lại xem xét vài trường hợp đặc biệt:
- Khi V = c thì , suy ra môi trường II đồng nhất với môi trường I (môi trường chân không).
- Khi V = -c thì , suy ra tia sáng phản xạ.
Nếu đặt:
Thì từ hai công thức ’ và ’ chúng ta sẽ thiết lập được công thức tính chiết xuất mới. Trước hết công thức ’ được viết lại dưới dạng:
Suy ra:
Do đó mà có:
Đến đây, coi như chúng ta đã hoàn thành công việc thực chứng đầu tiên của mình. Còn nó có xác đáng hay không thì đó là vấn đề chúng ta không bận tâm đến. Chúng ta vẫn cứ sử dụng những công thức trên một khi thấy cần thiết trên bước đường sắp tới vì cho rằng chúng vẫn có lý ở mức độ nào đó và hoạt động tốt nếu đặt ra những điều kiện hạn định ứng dụng nào đó.
***
Sự truyền thẳng của ánh sáng trong hiện thực đã hướng các nhà nghiên cứu tiên phong về những hành vi của ánh sáng đến quan niệm coi tia sáng là một đường thẳng được hợp thành từ vô vàn điểm vô cùng nhỏ kế tiếp nhau (tương tự như trong hình học Ơclit). Trên cơ sở quan niệm đó mà quang hình học hình thành và bằng những suy luận toán học đơn thuần, đã giải thích được hai hiện tượng phản xạ và khúc xạ ánh sáng.
Cũng trên cơ sở quan niệm ấy (cho rằng tia sáng gồm các chất điểm chuyển động kế tiếp nhau hợp thành), Niutơn đã xây dựng nên thuyết hạt để giải thích một số hiện tượng quang học một cách vật lý.
Tuy nhiên, quang hình cũng như thuyết hạt đã không thể giải thích được nhiều hiện tượng về ánh sáng mà thực nghiệm đã phơi bày ra, chẳng hạn như hiện tượng giao thoa, nhiễu xạ… Sự tương tự giữa hiện tượng nhiễu xạ của sóng nước khi đi qua một khoảng mở của vách ngăn và hiện tượng lượn sóng của tia sáng khi đi qua mép vật chướng ngại (tức là hiện tượng vi phạm định luật truyền thẳng của ánh sáng) đã thúc đẩy Huygens phát triển ý tưởng cho rằng, ánh sáng là quá trình lan truyền các chấn động sáng trong một môi trường đàn hồi đặc biệt, hầu như không có khối lượng, “lấp đầy” không gian, có thể thẩm thấu qua các vật và được gọi là ête. Từ đó mà ông đề xướng ra thuyết sóng (xuất hiện gần như đồng thời với thuyết hạt của Niutơn).
Dựa vào thuyết sóng của mình, Huygens cũng giải thích được, thậm chí là như sau đó được thực nghiệm đo vận tốc ánh sáng xác nhận, còn mỹ mãn hơn cách giải thích của Niutơn, hiện tượng phản xạ và khúc xạ ánh sáng. Nhưng cái tuyệt vời của nó là đã thành công trong việc giải thích hiện tượng giao thoa, hơn nữa là hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng và nhiều hiện tượng khác nữa mà quang hình phải chịu bất lực. Nếu hiện tượng giao thoa ánh sáng chứng tỏ ánh sáng có bản chất sóng thì việc giải thích thành công hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng đã làm cho thuyết sóng của Huygens được thừa nhận hoàn toàn.
Sau này, khi thuyết trường điện tử của Mắcxoen ra đời và được xác nhận thì các nhà vật lý còn phát hiện bản chất điện tử của ánh sáng và sóng ánh sáng là một bộ phận của sóng điện từ, thuộc một dải tần số và bước sóng của sóng điện từ.
Tiếp đó, những nghiên cứu và thực nghiệm ngày càng sâu vào thế giới vi mô đã làm xuất hiện những vấn đề không thể nào giải thích được trên quan niệm sóng ánh sáng mà phải quay trở lại quan niệm coi ánh có tính hạt thì mới có được lời giải thích thỏa đáng.
Vật lý học ngày nay đã xác nhận dứt khoát lưỡng tính sóng - hạt của ánh sáng. Tùy vào sự tương tác cụ thể với vật chất như thế nào mà ánh sáng xử sự lúc thì biểu hiện tính hạt nổi trội, lúc thì biểu hiện tính sóng nổi trội.
Vì ánh sáng có bản chất sóng điện từ và đúng thật là một dải của sóng điện từ nên chúng ta cho rằng toàn bộ sóng điện từ đều mang lưỡng tính sóng  hạt.
Để “hòa mình” vào quan niệm ánh sáng nói riêng (và theo chúng ta là sóng điện từ nói chung) có lưỡng tính sóng - hạt, mà chúng ta cũng thừa nhận là đúng đắn, chúng ta phải giải thích được (dù có thể chỉ là hình thức) một cách hợp lý quan niệm ấy trên cơ sở nhận thức của mình về Tự Nhiên Tồn Tại. Muốn thế chỉ còn cách một phen nữa nâng mức hoang tưởng lên cao độ để ngoan cố bênh vực mình bằng được! Chứ còn cách nào khác nữa đâu?
Có thể rằng, tương tự như nước, khi quan sát ánh sáng ở tầng vĩ mô (tức số đông), biểu hiện tính sóng của chúng trở nên nổi trội, lấn át. Nhưng khi quan sát ở tầng vi mô thì thể hiện tính gián đoạn, tính không liên tục (tính hạt) của chúng trở nên nổi trội thành bản chất cơ bản của ánh sáng?! Nghĩa là ánh sáng được truyền theo mọi phương từ một nguồn sáng là hiện tượng thấy được ở tầng không gian vĩ mô, nhưng sẽ không thấy được ở tầng không gian vi mô ?!
Một vật thể luôn luôn phải trao đổi vật chất thường xuyên liên tục với môi trường chứa nó dưới một hình thức nào đó và ở một mức độ nào đó. Có thể nói trao đổi vật chất là phương thức tồn tại cơ bản của mọi vật thể. Không có vật thể nào tồn tại và tự duy trì tồn tại được nếu không có quá trình trao đổi vật chất. Cần phải hiểu khái niệm “trao đổi vật chất” có nội dung bao hàm rất rộng lớn. Mọi động thái gây ảnh hưởng đến nhau giữa vật thể và môi trường đều thuộc về “trao đổi vật chất”, từ tương tác cơ học đơn thuần đến thu - phát bức xạ, từ trao đổi nhiệt đến cảm ứng điện từ. Xét trên phương diện rộng lớn nhất, cùng cực nhất thì trao đổi vật chất chính là quá trình làm chuyển hóa lực lượng Không Gian của nhau giữa hai hay nhiều thực thể Không Gian có nội tại và hình thức tồn tại tương đối khác nhau.
Hình thức trao đổi vật chất phổ quát nhất là thu - phát bức xạ Không Gian (được thấy như bức xạ nhiệt, bức xạ điện từ…). Một vật thể hiện hữu trong một môi trường có thể không tương tác với môi trường cùng một lúc dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng không thể không thu - phát bức xạ KG.
Khi một vật thể trong chân không tự nhiên phát sáng thì có nghĩa rằng vận động nội tại của nó đã bị kích hoạt đến một mức độ căng thẳng nhất định làm tăng cường độ phát bức xạ KG, chuyển biến nó và thể hiện ra sự phát sáng. Vật đó không thể vô cớ và tự thân kích hoạt vận động nội tại của nó được, cho nên, nguyên nhân sâu xa của sự kích hoạt chính là sự tương tác và trao đổi vật chất xảy ra trước đó giữa vật và môi trường.
Theo chúng ta quan niệm, Vũ Trụ “lấp đầy” Không Gian và chỉ Không Gian thôi, ngoài ra không có gì khác. Từ Không Gian mà phân định ra thành môi trường không gian và vạn vật. Có thể coi thực thể khởi thủy làm nên vạn vật hay vật chất là sự tồn tại hai dạng hạt KG kích thích tương phản nhau . Thực chất của hai hạt này là những lượng KG, hay cũng có thể gọi là lượng vận động (năng lượng), xuất hiện ra khi một hạt KG thông thường bị kích thích vận động lên quá độ gây nguy cơ làm một nút mạng của khối mạng Không Gian bị phá hủy, dẫn đến toàn bộ Không Gian biến thành Hư Vô. Từ "Có tất cả tuyệt đối" biến thành "Không có gì tuyệt đối" là không thể hình dung được và cũng không thể chấp nhận được! Trong khi đó hạt KG không thể chịu đựng nổi trạng thái kích thích của nó trong khoảng thời gian lớn hơn đơn vị thời gian tuyệt đối (cũng là chu kỳ vận động của hạt KG thông thường) và cũng không thể tự nhiên trở về trạng thái bình thường được một khi vẫn phải “ôm” lượng KG “quá khích”. Để dung hòa sự căng thẳng cực độ ấy, Tự Nhiên Tồn Tại, bằng phương thức cảm ứng kích thích Không Gian, đã cho lượng KG hay năng lượng ấy lan truyền từ hạt KG thông thường này đến hạt KG thông thường khác trong khắp Vũ Trụ với vận tốc cực đại c, mà ở góc độ khác, sự lan truyền đó được thấy như hạt KG kích thích di dời vị trí trong không gian. Như vậy, rõ ràng các vừa là hạt (có khối lượng) vừa không phải hạt (khối lượng biểu hiện ẩn dấu), là cả hai mà cũng không phải cả hai.
Từ hai hạt mang điện tích nguyên tố nhỏ nhất Vũ Trụ ấy hình thành nên các hạt cơ bản (bền) và giả hạt (không bền) có qui mô nội tại lớn dần: ... rồi từ những hạt cơ bản, giả hạt đó và cùng với hai hạt , mà tổ hợp nên những hạt cơ bản có qui mô nội tại lớn hơn nữa, đóng vai trò là những đơn vị khác nhau (chẳng hạn như các hạt điện tử, prôtôn, nơtrôn…) làm nên nguyên tử, phân tử… và cuối cùng là các nguyên tố đặc thù về chất, tế bào… - những “nguyên liệu” cấu thành đa dạng vật chất, phong phú vạn vật.
Chúng ta cho rằng tất cả các hạt KG cơ bản được cấu thành trực tiếp từ hai loại hạt (nghĩa là chỉ nhận  làm đơn vị lực lượng KG của chúng chứ không nhận bất cứ một đơn vị gián tiếp nào khác), thì đều có cấu trúc dạng dây. Dây KG cơ bản là một thực thể gồm hai hay nhiều hạt liên kết nối tiếp nhau thông qua hạt (hạt KG thông thường) theo cách xen kẽ lần lượt, tiếp theo hạt  (hoặc ) là hạt (hoặc ). Có hai loại dây KG cơ bản gọi là dây chẵn và dây lẻ. Dây chẵn là dây có số lượng đều chẵn (như vậy, tổng số cũng chẵn). Dây chẵn còn được gọi là dây trung tính vì nó trung hòa về điện tích. Dây lẻ là dây có số lượng lẻ, nghĩa là một trong hai số lượng của hay phải lẻ. Dây lẻ về mặt điện, bao giờ cũng mang đúng một điện tích nguyên tố âm hoặc dương. Như vậy, ở góc độ biểu hiện điện, dây KG cơ bản gồm ba loại là dây trung tính, dây dương và dây âm. Các dây đó khi định xứ thì cuộn lại thành hạt KG cơ bản có nội tại xoáy mạnh mẽ. Do cấu trúc không gian ở tầng sâu thẳm vi mô không đẳng hướng nên sự xoáy này không phải là sự xoáy thông thường mà là đặc biệt, tạm gọi là “xoáy không gian”. Khi một hạt KG cơ bản lan truyền trong chân không thì nó duỗi ra thành dây KG cơ bản và coi như không có nội tại. Vận tốc của mọi dây KG cơ bản lan truyền trong chân không đều bằng giá trị cực đại c (). Cũng vì cấu trúc không gian ở tầng sâu vi mô không đẳng hướng mà các dây KG cơ bản có hình dạng “uốn éo” chứ không thẳng và đường lan truyền của chúng cũng không thẳng mà có lẽ như một đường hình sin trên một bề mặt bị vặn.
Tất cả những hình dung của chúng ta về dây KG cơ bản được mô tả tượng trưng trên mặt phẳng ở hình 5.
Hình 5: Giả tượng về dây KG cơ bản và sự lan truyền của nó
Chúng ta tưởng tượng tiếp! Sự kết hợp giữa hai hay nhiều hạt KG cơ bản trong số các chủng loại hạt KG cơ bản theo cách thức nào đó sẽ làm xuất hiện các chủng loại hạt cơ bản mới (tạm gọi là hạt vật chất (vc) cơ bản). Các hạt vc cơ bản là các hạt nhận các hạt KG cơ bản cấu thành nên chúng làm đơn vị trực tiếp của chúng. Các hạt này luôn có nội tại xoáy không gian (hay dùng cách nói vật lý là có spin).
Các hạt vc cơ bản luôn thể hiện tính có nội tại của chúng và nội tại đó sẽ được bảo toàn khi lan truyền trong chân không nếu vận tốc lan truyền nhỏ hơn hoặc cùng lắm là bằng một giá trị v.max nào đó mà tự nhiên qui định cho nó. Nếu bị một “cú hích” nào đó bắt hạt vc cơ bản phải lan truyền vượt qua vận tốc v.max của nó, nó sẽ bị phát tán bớt lực lượng nội tại để không còn là nó nữa, và khi đạt đến vận tốc c thì lực lượng nội tại của nó sẽ bị phân rã hoàn toàn thành các dây KG cơ bản. Hiện tượng suy ra từ hoang tưởng này nếu đúng, thì có tính phổ quát, là một qui luật đối với vạn vật, và nếu gọi khối lượng của một vật thể chuyển động với vận tốc v.max qui định cho nó trước một quan sát đứng yên là momin thì biểu diễn toán học của qui luật là:
mc2 = mominc2 + mv.max
Từ biểu diễn đó và hiện tượng “không thấy được” nội tại của các dây KG cơ bản, chúng ta rút ra được một giả định, nếu đúng, thì cũng không kém phần quan trọng: vì bản chất nguyên thủy của mọi thực thể là KG và tồn tại chính là KG vận động, cho nên mọi thực thể có hai thể hiện ra trước quan sát là vật chất và năng lượng, hơn nữa, có thể qui đổi hoàn toàn lượng vật chất sang lượng năng lượng và ngược lại. Cũng chính vì thế mà mọi thực thể đều hàm chứa lưỡng tính sóng - hạt. Tùy góc độ của quan sát và quan niệm theo phương diện nào mà thấy thể hiện nào nổi trội hay chìm khuất giữa hai thể hiện vật chất và năng lượng, cũng như tính nào nổi trội hay chìm khuất giữa hai tính sóng và tính hạt, chứ không riêng gì hạt KG kích thích!
Nhớ lại, vế phải của biểu thức gồm hai thành phần moc2 mv2. Một cách hình thức, chúng ta cho rằng thành phần moc2 là thể hiện về mặt vật chất (hàm chứa tính hạt), còn thành phần mv2 là thể hiện về mặt năng lượng (hàm chứa tính sóng). Tùy thuộc vào qui mô lực lượng (mc2) và tốc độ di dời của một thực thể trong môi trường không gian trước quan sát mà thể hiện vật chất hay năng lượng, tính hạt hay sóng trở nên nổi trội. Đây có thể là một qui luật "trái chiều!": Càng đi sâu vào thể giới vi mô, nghĩa là thực thể có khối lượng càng nhỏ, thì mặt năng lượng của thực thể càng thể hiện nổi trội, còn mặt vật chất càng chìm khuất và ngược lại, càng đi sâu về thế giới vĩ mô, nghĩa là khối lượng của thực thể càng lớn, thì mặt vật chất càng thể hiện nổi trội, còn mặt năng lượng càng chìm khuất, mặt khác, vận tốc v.max của thực thể càng lớn thì tính sóng càng thể hiện rõ rệt, còn tính hạt càng thể hiện mờ nhạt và ngược lại, vận tốc v.max càng giảm thì tính hạt càng thể hiện rõ rệt, còn sự thể hiện của tính sóng càng trở nên mờ nhạt. Có thể coi Vũ Trụ là một tổng thể có khối lượng cực đại, có vận tốc di dời v.max = 0, nên cũng có thể coi Vũ Trụ là một “hạt” vật chất vĩ đại mà vận động nội tại của nó theo chu kỳ. Có thể coi hạt KG là một thực thể có khối lượng cực tiểu, có vận tốc di dời v.max = c, nên cũng có thể coi nó là một “sóng” năng lượng và không có nội tại.
Như vậy, theo “qui luật” nói trên, khi một vật thể có khối lượng m nào đó di dời trong chân không với vận tốc bằng c thì nó bị phân rã hoàn toàn thành một “khối” sóng gồm các dây KG cơ bản lan truyền, và khi “khối” sóng ấy định xứ thì được thấy là một khối (giả hạt) gồm các hạt KG cơ bản. Hơn nữa nếu “qui luật” đó xác đáng thì cần phải từ bỏ thuyết Big Bang và xét lại những kết quả quan sát thiên văn dẫn đến quan niệm về một Vũ Trụ giãn nở!
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét