"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
“Lực hút cũng như lực đẩy,
là thuộc tính cơ bản của vật chất.”
“Hấp dẫn cần phải được gây
ra bởi một tác nhân thường xuyên tác động theo một qui luật nào đó, nhưng tác
nhân này là vật chất hay phi vật chất thì tôi xin dành cho bạn đọc suy nghĩ.”
Niutơn
"Không xiềng xích hay thế lực bên ngoài nào có thể ép buộc tâm hồn của một người tin hay không tin."
"Tất cả vinh quang đều đến từ sự dám bắt đầu". Eugene F Ware
"Tất cả mọi người đều mơ; nhưng không như nhau. Những người mơ về đêm,
trong những ngóc ngách sâu kín lờ mờ của tâm trí, khi thức giấc vào ban
ngày mới nhận ra đó là ảo ảnh; nhưng những người mơ vào ban ngày mới là
đáng gờm, vì họ có thể thực hiện giấc mơ của mình với đôi mắt mở to, để
biến chúng thành hiện thực". T.E.Lawrence
"Ước mơ giống như những vì sao… ta có thể không bao giờ chạm tay vào
được, nhưng nếu đi theo chúng, chúng sẽ dẫn ta đến vận mệnh của mình". Samuel Johnson
"Tôi được ban cho sự nhận thức về định mệnh của chính mình. Tôi chưa bao
giờ tự hạ thấp bản thân. Tôi chưa bao giờ đánh giá mình theo tiêu chuẩn
của người khác. Tôi luôn trông đợi nhiều ở chính mình, và nếu tôi thất
bại, tôi thất bại chính mình". Sophia Loren
"Tự tin là điều kiện đầu tiên để làm được những việc lớn lao". Samuel Johnson
"Hãy mơ ước bất cứ điều gì bạn muốn mơ. Đó là vẻ đẹp của trí tuệ con
người. Hãy làm bất cứ điều gì bạn muốn làm. Đó là sức mạnh của ý chí con
người. Hãy tin tưởng vào bản thân để thử thách những giới hạn của mình.
Đó chính là lòng can đảm để thành công". Bernard Edmonds
"Không ai biết sau đó mọi chuyện sẽ xảy ra như thế nào nhưng
chúng ta vẫn đi về phía trước. Bởi vì chúng ta có lòng tin và
sự trung thực" Paulo Coelho
"Muốn hiểu Vũ Trụ này, phải hoang tưởng mãnh liệt. Muốn hoang tưởng mãnh liệt, phải có niềm tin". NTT
(Tiếp theo)
Quay lại với
giả tưởng chỉ có một quả cầu mang điện tích Q ở trung tâm một vùng chân không
đủ lớn. Theo vật lý học, nó tạo ra một điện trường quanh nó và cường độ điện
trường tại một điểm cách tâm nó một khoảng r, được tính:
Để tiện việc
tính toán, các nhà vật lý đã đưa ra khái niệm véctơ cảm ứng điện (ký hiệu ) và dùng nó thay cho biểu diễn đường sức. Phương của véctơ trùng với phương của
véctơ nhưng được qui ước có
chiều luôn hướng từ tâm quả cầu mang điện ra ngoài. Độ lớn của Dđược xác định:
với là diện tích mặt cầu
bao quanh quả cầu điện, có tâm là tâm của cầu điện và có bán kính là r.
Từ khái niệm
véctơ cảm ứng điện, các nhà vật lý đưa tiếp ra khái niệm điện thông (thông
lượng cảm ứng điện, ký hiệu: ). Điện thông là lượng véctơ cảm ứng điện đi qua một diện
tích bề mặt nào đó. Trong trường hợp ở đây, chúng ta có:
Sự bất hợp lý
của việc đưa ra khái niệm véctơ cảm ứng điện và điện thông là ở chỗ: dù số
lượng điểm hợp thành diện tích mặt cầu có bán kính rlà hữu hạn thì cũng
rất nhiều và lượng điện tích đi qua một điểm trên mặt cầu bao giờ cũng phải nhỏ
hơn Q, nghĩa là điện trường gây ra bởi quả cầu mang điện tại điểm
đó phải nhỏ hơn giá trị . Biết Qlà lượng điện tích tập
trung gồm n(số tự nhiên) điện tích
nguyên tố qo, và cho rằng ncũng là số điểm hợp
thành mặt cầu có bán kính r, thì lượng điện tích phân bố cho một điểm trên mặt cầu ấy
là:
Do vậy, điện
trường tại điểm đó là:
Còn nếu vẫn
quan niệm điện trường tại mỗi điểm trên mặt cầu bán kính rbằng thì tổng lượng điện
trường mà quả cầu mang điện đồng thời gây ra trên mặt cầu đó phải là:
Vì điện trường
liên quan mật thiết tới năng lượng điện nên không thể hình dung nổi một năng
lượng điện lại triển khai được một năng lượng điện lớn hơn nó nhiều lần, phân
bố đều trên một mặt cầu có bán kính rvà bao quanh nó.
Vậy thì điện
trường có tồn tại không? Đến đây, chúng ta tin rằng nó không tồn tại dưới hình
thức như vật lý học quan niệm.
Để loại bỏ quan
niệm điện trường, chúng ta đưa ra giả thuyết sau đây.
Khi trong
khoảng chân không (đủ lớn) mà chúng ta giả tưởng chỉ tồn tại duy nhất khối cầu
mang điện tích Q=nqo, vì không có đối tượng mang điện nào khác ở quanh nó nên nó
cũng hoàn toàn không phát huy tương tác gì (dù sự có mặt của nó có gây “xáo
động” nào đó đối với chân không thì nó cũng không “hề hấn” gì về mặt điện),
nghĩa là nó không tạo ra một điện trường nào cả. Nếu đột nhiên xuất hiện một
hạt (điện tích thử qo) trên mặt cầu tưởng tượng như đã nói, thì lập tức giữa quả
cầu và xuất hiện một hiệu ứng
hút hay đẩy tùy thuộc vào dấu của chúng. Tổng lực tương tác của chúng, xét
trong mối tương phản âm - dương là bằng 0, xét về giá trị tuyệt đó (về mặt lực
lượng) là 2Fo. Do đó, lực tác động đến mỗi thực thể trong hai thực thể ấy
bằng:
Nếu tiếp tục
xuất hiện ở đâu đó trên mặt cầu hạt thứ hai (và giả sử
rằng giữa hai hạt đã bị cách ly về mặt
điện), thì giữa hạt này với quả cầu mang điện Qcũng lập tức xuất hiện
hiệu ứng hút hoặc đẩy, sinh ra một lực tác động đến mỗi thực thể đúng bằng Fo. Tương tự, nếu xuất hiện hạt thứ ntrên mặt cầu thì giữa
nó và quả cầu mang điện Qcũng xuất hiện hiệu
ứng hút hoặc đẩy và lực tác động đến từng thực thể cũng bằng Fo. Lúc này, tổng hợp lực tác động đến quả cầu là:
Có thể cho rằng
đến đây, quả cầu mang điện Qđã hết khả năng tương
tác điện với hạt .
Bây giờ, trên
mặt cầu giả tưởng đang xét, không xuất hiện hạt mà xuất hiện một hạt
vĩ mô (hàm chứa trong nó số lượng rất lớn các điện tích nguyên tố qo) mang điện, đóng vai trò là điện tích q, với q=mqovà m<. Giữa quả cầu mang điện Qvà điện tích thử qtất nhiên cũng xuất
hiện hiệu ứng hút hoặc đẩy đối với chúng về mặt điện. Sự tác động của hiệu ứng
hút - đẩy điện tồn tại trong môi trường không gian cũng chính là nguyên nhân
của hiện tượng điện hưởng (chúng ta dùng thuật ngữ này chung cho cả hai hiện
tượng: điện hưởng của vật dẫn và sự phân cực của chất điện môi, dù hai hiện
tượng này có bản chất hoàn toàn khác nhau).
Như vậy, chúng
ta phán đoán, khi xuất hiện điện tích thử qtrên mặt cầu thì giữa
nó và quả cầu Qtương tác, vừa hút
hoặc đẩy nhau một lực nào đó, vừa làm xảy ra quá trình điện hưởng đối với nhau.
Quá trình điện hưởng ở mỗi thực thể làm tăng cường lực ban đầu và khi cả hai
thực thể đạt đến trạng thái cân bằng tĩnh điện thì lực cũng đạt đến giá trị cực
đại. Để thỏa mãn biểu thức Culông, chúng ta cho rằng trong trường hợp điện tĩnh
(các điện tích tham gia tạo lực coi như không chuyển động), thành phần từ lực
không xuất hiện trong khi năng lượng tham gia tương tác lại không đổi, nên lực
điện tăng lên gấp đôi. Bên cạnh đó, khi đã đạt đến trạng thái cân bằng tĩnh
điện thì tổng điện tích tham gia tương tác hút hoặc đẩy là (n.m), nghĩa là điện tích tham gia tương tác ở mỗi thực thể đúng
bằng một nửa lượng (n.m). Từ đó, lực điện tác động lên mỗi thực thể được xác định là:
(Có thể suy
diễn: Vì Q=nqvà q=mqo, nên theo công thức Culông:
Nếu trên mặt
cầu bán kính rxuất hiện đâu đó thêm
một điện tích thử qnữa thì giữa nó và quả
cầu Q cũng nhanh chóng hình thành một hiệu ứng điện (với điều kiện điện tích
thử này đã được cách ly về mặt điện với điện tích thử kia). Hiệu ứng điện ấy
gây ra gây ra hiện tượng điện hướng ở mỗi thực thể và rốt cuộc cũng làm xuất
hiện lực điện tác động đến mỗi thực thể đúng bằng F với biểu diễn toán học của
nó là:
Với N2là tổng số điện tích
tham gia tương tác lực và để thỏa mãn định luật Culông thì phải có:
N2=n.m
Tuy nhiên khả
năng điện hưởng của quả cầu Q không thể là vô hạn, cho nên đến một giới hạn nào
đó, định luật Culông không còn đúng nữa.
Tóm lại, theo
hình dung của chúng ta thì cái gọi là điện trường không tồn tại, công thức
Culông chỉ áp dụng được trong Vũ Trụ ở tầng nấc vĩ mô và cũng chỉ trong một
khoảng hạn định. Khi trong chân không xuất hiện một thực thể mang điện hay
không mang điện, thì môi trường không gian ở đó (xung quanh thực thể) có thể
biến thái đi ở mức độ nào đó để hòa hợp với vận động của thực thể duy trì một
thế cân bằng động mới có xu hướng làm xuất hiện hiệu ứng hút - đẩy (chứ không
phải thực thể đã thiết lập một trường hút - đẩy thường trực). Đối với thực thể
mang điện, chỉ khi xuất hiện một thực thể khác ở đâu đó quanh nó thì giữa nó
với thực thể mới mới xuất hiện hiệu ứng hút hay đẩy và coi như chúng tương tác
lực với nhau thông qua môi trường không gian.
Đã không tồn
tại thường trực (hay chỉ tồn tại ảo) một điện trường thì cũng không thể tồn tại
thường trực (hay chỉ tồn tại ảo) một từ trường, và như vậy, trường điện từ cũng
không thể tồn tại thực sự. Hơn nữa, không có các điện tích thì cũng không thể
xuất hiện hiện tượng cảm ứng điện từ, do đó, không thể tồn tại trường điện từ
như một thực thể vật chất độc lập, có cấu trúc đặc thù được.
“Thí nghiệm giả
tưởng” ở trên còn cho phép suy diễn rằng, nếu trên mặt cầu bán kính r có n điện
tích q (đã được cách ly nhau), mà tại vị trí tâm của mặt cầu không có quả cầu
Q, thì ở đó không hề có tác động lực tĩnh điện (thực nghiệm vật lý cũng chỉ suy
diễn là có sự chồng chất điện trường ở đó chứ chẳng có bằng chứng thực sự nào
cả vì làm sao mà đo được?!). Chỉ khi xuất hiện quả cầu Q ở dó thì mới xuất hiện
một lực tổng hợp gây ra bởi n điện tích q tác động đến nó (nếu khả năng điện
hưởng của nó cho phép).
Mấu chốt lôgic
trong luận điểm thứ hai của học thuyết trường điện từ Mắcxoen là sự giả định về
sự tồn tại dòng điện dịch. Dòng điện dịch là biểu hiện của một điện trường biến
thiên theo thời gian. Nếu dòng điện dẫn tương ứng với dòng điện tích chuyển
động thì dòng điện dịch không hề liên quan đến điện tích hay hạt vật chất nào
khác. Sự giống nhau của chúng, hay có thể nói đặc trưng chung của chúng là ở
chỗ đều gây ra từ trường như nhau.
Không thể hình
dung được một dòng điện phi vật chất nhưng có năng lượng, không tương tác với
bất cứ đối tượng nào mà lại sinh ra từ trường, Hơn nữa cũng cần xem xét lại có
thực sự ngay cả dòng điện dẫn cũng sinh ra từ trường hay không?
Theo vật lý học
thì khoảng không gian giữa hai bản điện của một tụ điện phẳng phải tồn tại một
điện trường. Theo suy đoán của chúng ta, nên hiểu điện trường ấy chính là hiệu
ứng hút điện do hai bản điện làm vận động của vùng không gian giữa chúng bị
biến thái và gây ra hiện tượng hút. Tuy nhiên, khi trong vùng không gian giữa
hai bản điện không hiện hữu một thực thể nào thì hiệu ứng hút điện, trong tình
trạng đã cân bằng tương tác, không thể hiện, nghĩa là tồn tại dưới dạng tiềm
ẩn. Khi xuất hiện một hạt vật dẫn không mang điện trong vùng đó, hiệu ứng điện
mới phát huy tương tác, gây ra sự điện hưởng đối với hạt và tạo thế cân bằng động
ổn định mới. Nếu hạt đó mang điện, nó sẽ bị tương tác lực và nếu nó đủ nhẹ thì
phải chuyển động về bản điện có điện tích trái dấu với nó.
Khi nối hai bản
điện đó với nhau bằng một dây dẫn có cuộn tự cảm (không đi qua vùng không gian
giữa hai bản điện) thì trong dây dẫn sẽ xuất hiện dòng điện biến đổi (xoay
chiều) và nếu không bị ảnh hưởng bởi những tác động ngoại lai (như điện trở
chẳng hạn), thì dòng điện này được duy trì coi như đến vĩnh cửu. Sự biến đổi
điều hòa theo thời gian của dòng điện là do có sự hiện diện của cuộn tự cảm (tự
cảm là trường hợp riêng của cảm ứng điện từ). Tuy nhiên, vì sao dòng điện lại
duy trì được khi mạch dẫn nó bị hở (bị ngăn cách bởi vùng không gian giữa hai
mặt bản điện)? Để giải quyết vấn đề, Mắcxoen đã giả định về sự tồn tại một dòng
điện tích trong vùng không gian giữa hai mặt bản điện. Dòng điện này có chiều
và cường độ là chiều và cường độ của dòng điện dẫn, có mật độ dòng là mật độ
điện tích trên mặt bản điện. Chính dòng điện dịch này đã đóng vai trò làm kín
mạch điện. Nguyên nhân làm xuất hiện dòng điện dịch không thể là cái gì khác
ngoài điện trường biến thiên giữa hai bản điện, hay nói đúng hơn, trường điện
từ biến thiên theo thời gian đã đóng vai trò như một dòng điện dịch mà Mắcxoen
đã giả định.
Chúng ta không
thừa nhận sự tồn tại của điện trường nên có cách giải thích khác.
Có thể rằng,
khi nối dây dẫn vào hai bản điện của tụ điện đã nạp đầy điện và đóng mạch thì
cũng là lúc làm xuất hiện một hiệu ứng hút điện dọc theo dây dẫn giữa hai bản
tụ. Nhờ có hiệu ứng này làm xuất hiện hướng ưu tiên lan truyền nổi trội trong
dây dẫn về bản cực trái dấu với các điện tích và bản chất cấu tạo của vật dẫn
mà trong dây dẫn, dễ dàng xuất hiện một dòng điện có chiều (theo qui ước) từ
bản điện dương đến bạn điện âm. Nếu không có cuộn tự cảm thì dòng điện này
nhanh chóng bị triệt tiêu, hai bản điện và dây dẫn hơp thành một vật dẫn cân
bằng tĩnh điện. Lúc này, hiệu ứng điện trong dây dẫn không còn nữa, hiệu ứng
hút điện giữa hai mặt bản tụ trở thành hiệu ứng đẩy điện. Nhờ có cuộn tự cảm mà
cường độ dòng điện dẫn phát sinh không tăng trưởng cũng như suy biến đột ngột.
Vật lý học đã
giải thích cặn kẽ vai trò của cuộn tự cảm trong việc duy trì dòng điện biến
đổi. Chúng ta cũng thừa nhận cảm ứng điện từ là có thật, nhưng hiểu khác đi
theo quan niệm của mình. Dù chỉ ở dạng phỏng đoán ngây ngô và thô phác (khả năng
của chúng ta chỉ có thế!) thì chúng ta cũng cứ “vẽ vời” ra đây, cố tạo cho được
một chiếc cầu vượt (có thể là rất “ọp ẹp”!) để tiếp tục tiến lên phía trước,
hoàn thành sứ mệnh mà Tạo Hóa giao phó (thật không đấy?!), hơn nữa, đã tốn biết
bao nhiêu trí lực, đổ xuống biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt cho cuộc hành trình
và đã đến được tận đây rồi, đã lờ mờ thấy đích rồi, không lẽ lại… giơ tay đầu
hàng, lủi thủi quay về? Mà có về được nhà không khi tuổi đã già, sống không còn
bao lâu nữa, trước cuộc thoái lui muôn trùng vạn dặm? Không, khôn ngoan nhất là
vượt lên phía trước! Lão Tử bảo: ra đi có nghĩa là trở về. Đến được đích thì
cũng coi như về nhà. Đích đã thấp thoáng kia rồi. Ngu dại gì mà bỏ dở cuộc hành
trình “đi tìm cái gì đó”. (Rõ là lẩn thẩn! Đang trên kệ sách mà làm như… Đúng
là đồ Hoang Tưởng rồ dại!)
Ở những tầng
phía đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, trừ hạt , còn tất cả các thực thể mang điện tích khác, khi lan truyền,
đều có dạng dây và cũng được chúng ta gọi là các dây KG mang điện tích. Các dây
mang điện tích bao giờ cũng có khối lượng lớn hơn khối lượng của một số lẻ nguyên lần
lớn hơn hoặc chí ít cũng bằng 3. Hiệu ứng điện chỉ có tác dụng đến điện tích mà
dây KG mang cho nên khi lan truyền theo hướng của hiệu ứng điện, dù vận tốc lan
truyền theo hướng đó rất lớn thì bao giờ cũng nhỏ hơn vận tốc cực đại C. Do yêu
cầu chuyển hóa KG không được phép trì trệ mà lúc đó, các phần tử hợp thành gây
KG phải đồng thời lan truyền theo một hướng thứ hai nữa sao cho vận tốc tổng
hợp của chúng đúng bằng C. Như vậy, dây KG mang điện tích, khi xoay quanh trục
của nó nữa. Sự xoay này được gọi là xoáy KG của nội tại dây. Ở tầng nấc sâu
trong Vũ Trụ vi mô, trong cấu trúc mang khối phi Ơclit của môi trường không
gian, cũng như sự nhận biết của chúng ta về bản chất môi trường ấy còn hết sức
mờ mịt, nên khó mà hình dung được sự xoáy KG trong thực tại diễn biến thế nào.
Nhưng dựa trên nguyên lý tương tự, tính lan truyền dưới tác động của hiệu ứng
điện, trông đại loại như một sợi đơn (hay cáp) có hình lò xo vừa tịnh tiến theo
phương trục vừa xoay quanh trục của nó.
Trong một vùng
môi trường không gian, khi xuất hiện một thực thể KG mới, giữa chúng sẽ có sự
ảnh hưởng nào đó đối với nhau, làm cho vận động của nhau biến thái ở một mức độ
nhất định theo hướng ổn định lại hoạt động trong thế cân bằng động mới. Khi
xuất hiện một dây KG mang điện tích trong một khu vực chân không nào đó và
trong trường hợp dây đó định xứ thì nó được thấy là một giả hạt và xoáy nội tại
mạnh mẽ. Trong không gian Ơclit, một cách tương tự, có thể hình dung môi trường
không gian là nước tĩnh và giả hạt xoáy nội tại là một khối băng có hình dáng
giống hạt prôtôn (không tan chảy) và xoay quanh trục của nó cũng giống như sự
xoáy (rất nhanh) của prôtôn mà chúng ta đã diễn tả, dù bản chất của hai hiện
tượng là rất khác nhau.
Ngay cả khi
khối băng không xoay (đứng yên) thì giữa nó và nước vẫn thường xuyên xảy ra
tương tác! Không chú ý đến loại tương tác đó, khi khối băng xoay quanh, nó và
nước tương tác nhau dưới hình thức ma sát. Do có sự ma sát mà nước ở lân cận
xung quanh khối băng bị “kéo theo” sự xoay của khối băng, đồng thời, ngược lại
nước cũng ngăn cản sự xoay của khối băng (bỏ qua hiện được gia nhiệt). Giả sử
nguồn lực làm xoay khối băng là không đổi thì do phải chịu một lực cản của nước
mà khối băng xoay chậm lại. Chúng ta cho rằng đến một lúc nào đó, sự xoay của
khối băng lẫn sự xoáy của vùng nước quanh nó đều trở nên ổn định, nghĩa là giữa
chúng đã thiết lập được một tương tác mang tính bất biến và duy trì lâu dài
theo thời gian. Có thể thấy, càng xa khối băng và vùng xích đạo của nó thì mức
độ xoáy càng yếu đi một cách có qui luật. nếu cho xuất hiện một phần từ băng
trong vùng nước xoáy ấy tại vị trí cách tâm khối băng xoay một khoảng r thì nó
sẽ bị tác động một lực có độ lớn và phương chiều xác định được trên cơ sở qui
luật xoáy của vùng nước. Như vậy, ở một mức độ nhìn nhận nào đó, chúng ta nói
rằng, khối băng xoay đã làm xuất hiện một hiệu ứng hút – đẩy và có thể biểu
diễn hiệu ứng này một cách toán học.
Quay lại với
dây KG mang điện trong chân không. Khi nó định xứ, nó sẽ biến thành giả hạt và
xoáy nội tại mạnh mẽ: Tương tự như khối băng, nó cũng làm cho môi trường không
gian xung quanh nó biến thái vận động đi. Tuy nhiên, sự khác nhau cơ bản giữa
hai hiện tượng là một đằng được nhìn nhận trong Vũ Trụ vĩ mô, khối băng và nước
như không còn dính dáng gì đến Không Gian nữa, chúng tồn tại và vận động trong
không gian như ở chốn Hư Vô (hư vô tuyệt đối), đằng khác được nhìn nhận trong
khoảng đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, sự xoáy của dây KG mang điện thực chất chỉ là
sự chuyển hóa trạng thái kích thích nội tại của các hạt KG, hay còn gọi là
chuyển hóa KG, mà sự ảnh hưởng của giả hạt cùng với xoáy nội tại của nó đến vận
động của vùng chân không xung quanh nó không thể nào lại là do ma sát giữa
chúng với nhau được.
Cũng có thể
hình dung giả hạt KG là dây KG (có dạng lò xo) đã bị nén lại hết cỡ (hoặc cuộn
lại theo cách nào đó) và xoay hoặc xoáy quanh trục của nó. Theo chúng ta quan
niệm thì giây KG là tập hợp nối tiếp và xen kẽ nhau của ba loại hạt , và (hạt KG thông thường).
Khi dây KG định xứ thì biến thành giả hạt KG và xoay (hoặc xoáy) mạnh. Lúc đó,
tại bất cứ điểm nào thuộc nội tại giả hạt (ở đây phải quan niệm điểm đúng bằng
kích cỡ hạt KG) cũng thể hiện một sự chuyển hóa KG liên tiếp và điều đặn qua ba
trạng thái: , , , , …, mà về nhịp điệu, có thể coi nó là một giao động điều hòa
không tắt. Vì là những phần tử hợp thành giả hạt vận động nội tại cân bằng nên
các điểm giao động ấy phải có sự liên kết nào đó với nhau và sự giao động của
chúng phải có mối quan hệ nhân quả khăng khít với nhau. Chúng ta cho rằng chính
sự vận động mang bản chất giao động nổi trội theo một qui luật xác định, có
tính chu kỳ của tập hợp điểm (hạt KG). hợp thành giả hạt xoáy là nguyên nhân
gây ra sự biến thái của môi trường không gian xung quanh giả hạt. Vì hạt KG
đóng vai trò nút mạng của mạng khối không gian, mà không gian thì không thế
“rách” được (Tồn Tại không thể bị tổn thương được!), nên hạt KG tuyệt đối không
thể di dời được. Như vậy, chỉ có thể hình dung sự biến thái vận động của vùng
không gian quanh giả hạt xoáy là biến thái về nhịp điệu, nghĩa là sự xoáy của
giả hạt đã gây ra một hiệu ứng kích thích làm nhịp điệu vận động của các giả hạt
KG của môi trường không gian xung quanh giả hạt bị “méo” đi, bị sai lệch về mặt
thời gian so với trước, khi xuất hiện giả hạt. (Theo quan niệm của chúng ta,
đơn vị thời gian nhỏ nhất tuyệt đối là to=10-38 s . Nhưng điều đó chỉ
đúng khi coi thời gian như là một đại lượng hợp thành lực lượng KG hay năng lượng.
Thực ra, thời gian là một tồn tại ảo cho nên có thể “chia nhỏ” nó đến vô tận.
Khi so sánh thời điểm xảy ra hai biến cố trong Vũ Trụ, khoảng thời gian chênh
lệch không thể nhỏ hơn cả to. Do đó, phải coi to là chu kỳ dao động chuyển hóa nội tại của hạt KG. Chỉ như thế thì sự biến đổi nhịp điệu qui ra khoảng cách nhanh nhất về mặt thời gian (vận tốc C) mới
có khả năng!).
Do bị biến điệu
và vận động ở trạng thái bất thường nên vùng không gian xung quanh giả hạt luôn
có xu thế trở về với trạng thái thông thường. Như vậy, vùng không gian đã bị
biến điệu được cho là đã ở trạng thái kích thích và trạng thái kích thích này
làm tiềm ẩn một hiệu ứng nào đó. Giả sử có một hạt (hạt KG trung hòa
điện) xuất hiện ở lân cận giả hạt, trong vùng không gian bị biến điệu, thì nó phải
chịu một hiệu ứng đẩy ra xa giả hạt (hướng ưu tiên lan truyền).
Giả sử rằng giả
hạt mang điện tích nguyên tố . Sự xoáy nội tại của giả hạt là ổn định nên điện tích này sẽ
lan truyền theo một đường cong không đổi và khép kín (chúng ta cho là đường
tròn). Nếu có một hệ quan sát “ở đó” quan sát được sự quay của , nhưng khoảng thời gian cảm nhận tối thiểu của thiết bị (độ
nhậy) lớn hơn nhiều so với chu kỳ quay của thì có thể coi đó là
một dòng điện xoáy. Nếu trong vùng không gian bị biến điệu, lân cận giả hạt và
trên cùng mặt phẳng quĩ đạo của , xuất hiện một hạt , thì lập tức, giữa hạt này và của giả hạt xuất hiện
một hiệu ứng hút - đẩy. Vì hạt có khối lượng nên hiệu
ứng đẩy nó ra xa là do nó ở trong vùng
không gian kích thích, mà sâu xa hơn là do sự quay của gây ra. Vì hạt mang điện tích âm nên
giữa nó và (thực ra là hạt ) thiết lập nên một hiệu ứng hút tĩnh điện. Chúng ta phán
đoán rằng khoảng cách giữa và hạt càng lớn thì cả lực
hút và lực đẩy càng yếu, ngược lại, khoảng cách đó càng nhỏ thì lực hút và lực
đẩy càng lớn. Nhưng xét về tốc độ tăng giảm thì giá trị của lực đầy biến thiên
nhanh hơn giá trị của lực hút, nghĩa là hiệu ứng hút - đẩy giữa và hạt có tính chất khoảng
cách giữa chúng càng nhỏ thì tác dụng đẩu càng trở nên nổi trội, dần lấn át tác
dụng hút và ngược lại, khoảng cách giữa chúng càng lớn thì tác dụng hút càng
trở nên nổi trội, lấn át tác dụng đẩy. Có thể là trong tình hình như thế, và
cũng vì quay, đồng thời hạt phải và chỉ có thể lan
truyền với vận tốc C, nên hạt , dưới tác dụng của hiệu ứng hút - đẩy, sẽ phải quay tròn
trong cùng mặt phẳng chứa “quĩ đạo” của . “Quĩ đạo chuyển
động” của hạt có cùng chu vi với
“quĩ đạo chuyển động” của nhưng chiều “chuyển
động” của chúng ngược nhau. Hai quĩ đạo ấy không tiếp xúc nhau mà cách hau một
khoảng nhất định.
Sự mường tượng
ở trên không hề dựa vào một cơ sở xác đáng nào nên chỉ là một võ đoán không hơn
không kém! Dù là võ đoán thì ở chừng mực nào đó về mặt nguyên tắc, chúng ta tin
rằng nó cũng mang nét hợp lý, nếu quan niệm vật lý về một trường điện từ tồn
tại như một thực tế vật chất “thường trực” trong không gian là sai.
Xen vào một
đoạn có tính “tự vấn an” như thế để chúng ta tiếp tục yên tâm mà mường tượng
cho… thoải mái!
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét