Thứ Hai, 27 tháng 12, 2021

TT&HĐ V - 46/m


 
Điện từ trường cảm ứng và sóng điện từ | CPKT THPTQG môn Vật lý
 
PHẦN V:     THỐNG NHẤT 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.

Upanishad       

CHƯƠNG VII (XXXXVI): HÚT - ĐẨY
“Lực hút cũng như lực đẩy, là thuộc tính cơ bản của vật chất.”

“Hấp dẫn cần phải được gây ra bởi một tác nhân thường xuyên tác động theo một qui luật nào đó, nhưng tác nhân này là vật chất hay phi vật chất thì tôi xin dành cho bạn đọc suy nghĩ.”
                                                                                                                                                 Niutơn

"Không xiềng xích hay thế lực bên ngoài nào có thể ép buộc tâm hồn của một người tin hay không tin."


"Tất cả vinh quang đều đến từ sự dám bắt đầu".
Eugene F Ware


"Tất cả mọi người đều mơ; nhưng không như nhau. Những người mơ về đêm, trong những ngóc ngách sâu kín lờ mờ của tâm trí, khi thức giấc vào ban ngày mới nhận ra đó là ảo ảnh; nhưng những người mơ vào ban ngày mới là đáng gờm, vì họ có thể thực hiện giấc mơ của mình với đôi mắt mở to, để biến chúng thành hiện thực".
T.E.Lawrence


"Ước mơ giống như những vì sao… ta có thể không bao giờ chạm tay vào được, nhưng nếu đi theo chúng, chúng sẽ dẫn ta đến vận mệnh của mình".
Samuel Johnson 


"Tôi được ban cho sự nhận thức về định mệnh của chính mình. Tôi chưa bao giờ tự hạ thấp bản thân. Tôi chưa bao giờ đánh giá mình theo tiêu chuẩn của người khác. Tôi luôn trông đợi nhiều ở chính mình, và nếu tôi thất bại, tôi thất bại chính mình".
Sophia Loren


"Tự tin là điều kiện đầu tiên để làm được những việc lớn lao".
Samuel Johnson  


"Hãy mơ ước bất cứ điều gì bạn muốn mơ. Đó là vẻ đẹp của trí tuệ con người. Hãy làm bất cứ điều gì bạn muốn làm. Đó là sức mạnh của ý chí con người. Hãy tin tưởng vào bản thân để thử thách những giới hạn của mình. Đó chính là lòng can đảm để thành công".
Bernard Edmonds 


"Không ai biết sau đó mọi chuyện sẽ xảy ra như thế nào nhưng chúng ta vẫn đi về phía trước. Bởi vì chúng ta có lòng tin và sự trung thực"
Paulo Coelho 

"Muốn hiểu Vũ Trụ này, phải hoang tưởng mãnh liệt. Muốn hoang tưởng mãnh liệt, phải có niềm tin".
NTT    


 

 (Tiếp theo)

Quay lại với giả tưởng chỉ có một quả cầu mang điện tích Q ở trung tâm một vùng chân không đủ lớn. Theo vật lý học, nó tạo ra một điện trường quanh nó và cường độ điện trường tại một điểm cách tâm nó một khoảng r, được tính:
Để tiện việc tính toán, các nhà vật lý đã đưa ra khái niệm véctơ cảm ứng điện (ký hiệu ) và dùng nó thay cho biểu diễn đường sức. Phương của véctơ  trùng với phương của véctơ nhưng được qui ước có chiều luôn hướng từ tâm quả cầu mang điện ra ngoài. Độ lớn của D được xác định:
với  là diện tích mặt cầu bao quanh quả cầu điện, có tâm là tâm của cầu điện và có bán kính là r.
Từ khái niệm véctơ cảm ứng điện, các nhà vật lý đưa tiếp ra khái niệm điện thông (thông lượng cảm ứng điện, ký hiệu: ). Điện thông là lượng véctơ cảm ứng điện đi qua một diện tích bề mặt nào đó. Trong trường hợp ở đây, chúng ta có:
Sự bất hợp lý của việc đưa ra khái niệm véctơ cảm ứng điện và điện thông là ở chỗ: dù số lượng điểm hợp thành diện tích mặt cầu có bán kính r là hữu hạn thì cũng rất nhiều và lượng điện tích đi qua một điểm trên mặt cầu bao giờ cũng phải nhỏ hơn Q, nghĩa là điện trường gây ra bởi quả cầu mang điện tại điểm đó phải nhỏ hơn giá trị . Biết Q là lượng điện tích tập trung gồm n (số tự nhiên) điện tích nguyên tố qo, và cho rằng n cũng là số điểm hợp thành mặt cầu có bán kính r, thì lượng điện tích phân bố cho một điểm trên mặt cầu ấy là:
Do vậy, điện trường tại điểm đó là:
Còn nếu vẫn quan niệm điện trường tại mỗi điểm trên mặt cầu bán kính r bằng thì tổng lượng điện trường mà quả cầu mang điện đồng thời gây ra trên mặt cầu đó phải là:
Vì điện trường liên quan mật thiết tới năng lượng điện nên không thể hình dung nổi một năng lượng điện lại triển khai được một năng lượng điện lớn hơn nó nhiều lần, phân bố đều trên một mặt cầu có bán kính r và bao quanh nó.
Vậy thì điện trường có tồn tại không? Đến đây, chúng ta tin rằng nó không tồn tại dưới hình thức như vật lý học quan niệm.
Để loại bỏ quan niệm điện trường, chúng ta đưa ra giả thuyết sau đây.
Khi trong khoảng chân không (đủ lớn) mà chúng ta giả tưởng chỉ tồn tại duy nhất khối cầu mang điện tích Q=nqo, vì không có đối tượng mang điện nào khác ở quanh nó nên nó cũng hoàn toàn không phát huy tương tác gì (dù sự có mặt của nó có gây “xáo động” nào đó đối với chân không thì nó cũng không “hề hấn” gì về mặt điện), nghĩa là nó không tạo ra một điện trường nào cả. Nếu đột nhiên xuất hiện một hạt (điện tích thử qo) trên mặt cầu tưởng tượng như đã nói, thì lập tức giữa quả cầu và  xuất hiện một hiệu ứng hút hay đẩy tùy thuộc vào dấu của chúng. Tổng lực tương tác của chúng, xét trong mối tương phản âm - dương là bằng 0, xét về giá trị tuyệt đó (về mặt lực lượng) là 2Fo. Do đó, lực tác động đến mỗi thực thể trong hai thực thể ấy bằng:
Nếu tiếp tục xuất hiện ở đâu đó trên mặt cầu hạt  thứ hai (và giả sử rằng giữa hai hạt đã bị cách ly về mặt điện), thì giữa hạt này với quả cầu mang điện Q cũng lập tức xuất hiện hiệu ứng hút hoặc đẩy, sinh ra một lực tác động đến mỗi thực thể đúng bằng Fo. Tương tự, nếu xuất hiện hạt thứ n trên mặt cầu thì giữa nó và quả cầu mang điện Q cũng xuất hiện hiệu ứng hút hoặc đẩy và lực tác động đến từng thực thể cũng bằng Fo. Lúc này, tổng hợp lực tác động đến quả cầu là:
Có thể cho rằng đến đây, quả cầu mang điện Q đã hết khả năng tương tác điện với hạt .
Bây giờ, trên mặt cầu giả tưởng đang xét, không xuất hiện hạt mà xuất hiện một hạt vĩ mô (hàm chứa trong nó số lượng rất lớn các điện tích nguyên tố qo) mang điện, đóng vai trò là điện tích q, với q=mqo và m<. Giữa quả cầu mang điện Q và điện tích thử q tất nhiên cũng xuất hiện hiệu ứng hút hoặc đẩy đối với chúng về mặt điện. Sự tác động của hiệu ứng hút - đẩy điện tồn tại trong môi trường không gian cũng chính là nguyên nhân của hiện tượng điện hưởng (chúng ta dùng thuật ngữ này chung cho cả hai hiện tượng: điện hưởng của vật dẫn và sự phân cực của chất điện môi, dù hai hiện tượng này có bản chất hoàn toàn khác nhau).
Như vậy, chúng ta phán đoán, khi xuất hiện điện tích thử q trên mặt cầu thì giữa nó và quả cầu Q tương tác, vừa hút hoặc đẩy nhau một lực nào đó, vừa làm xảy ra quá trình điện hưởng đối với nhau. Quá trình điện hưởng ở mỗi thực thể làm tăng cường lực ban đầu và khi cả hai thực thể đạt đến trạng thái cân bằng tĩnh điện thì lực cũng đạt đến giá trị cực đại. Để thỏa mãn biểu thức Culông, chúng ta cho rằng trong trường hợp điện tĩnh (các điện tích tham gia tạo lực coi như không chuyển động), thành phần từ lực không xuất hiện trong khi năng lượng tham gia tương tác lại không đổi, nên lực điện tăng lên gấp đôi. Bên cạnh đó, khi đã đạt đến trạng thái cân bằng tĩnh điện thì tổng điện tích tham gia tương tác hút hoặc đẩy là (n.m), nghĩa là điện tích tham gia tương tác ở mỗi thực thể đúng bằng một nửa lượng (n.m). Từ đó, lực điện tác động lên mỗi thực thể được xác định là:
(Có thể suy diễn: Vì Q=nq q=mqo, nên theo công thức Culông:
Nếu trên mặt cầu bán kính r xuất hiện đâu đó thêm một điện tích thử q nữa thì giữa nó và quả cầu Q cũng nhanh chóng hình thành một hiệu ứng điện (với điều kiện điện tích thử này đã được cách ly về mặt điện với điện tích thử kia). Hiệu ứng điện ấy gây ra gây ra hiện tượng điện hướng ở mỗi thực thể và rốt cuộc cũng làm xuất hiện lực điện tác động đến mỗi thực thể đúng bằng F với biểu diễn toán học của nó là:
              
Với N2 là tổng số điện tích tham gia tương tác lực và để thỏa mãn định luật Culông thì phải có:
               N2=n.m
Tuy nhiên khả năng điện hưởng của quả cầu Q không thể là vô hạn, cho nên đến một giới hạn nào đó, định luật Culông không còn đúng nữa.
Tóm lại, theo hình dung của chúng ta thì cái gọi là điện trường không tồn tại, công thức Culông chỉ áp dụng được trong Vũ Trụ ở tầng nấc vĩ mô và cũng chỉ trong một khoảng hạn định. Khi trong chân không xuất hiện một thực thể mang điện hay không mang điện, thì môi trường không gian ở đó (xung quanh thực thể) có thể biến thái đi ở mức độ nào đó để hòa hợp với vận động của thực thể duy trì một thế cân bằng động mới có xu hướng làm xuất hiện hiệu ứng hút - đẩy (chứ không phải thực thể đã thiết lập một trường hút - đẩy thường trực). Đối với thực thể mang điện, chỉ khi xuất hiện một thực thể khác ở đâu đó quanh nó thì giữa nó với thực thể mới mới xuất hiện hiệu ứng hút hay đẩy và coi như chúng tương tác lực với nhau thông qua môi trường không gian.
Đã không tồn tại thường trực (hay chỉ tồn tại ảo) một điện trường thì cũng không thể tồn tại thường trực (hay chỉ tồn tại ảo) một từ trường, và như vậy, trường điện từ cũng không thể tồn tại thực sự. Hơn nữa, không có các điện tích thì cũng không thể xuất hiện hiện tượng cảm ứng điện từ, do đó, không thể tồn tại trường điện từ như một thực thể vật chất độc lập, có cấu trúc đặc thù được.
“Thí nghiệm giả tưởng” ở trên còn cho phép suy diễn rằng, nếu trên mặt cầu bán kính rn điện tích q (đã được cách ly nhau), mà tại vị trí tâm của mặt cầu không có quả cầu Q, thì ở đó không hề có tác động lực tĩnh điện (thực nghiệm vật lý cũng chỉ suy diễn là có sự chồng chất điện trường ở đó chứ chẳng có bằng chứng thực sự nào cả vì làm sao mà đo được?!). Chỉ khi xuất hiện quả cầu Q ở dó thì mới xuất hiện một lực tổng hợp gây ra bởi n điện tích q tác động đến nó (nếu khả năng điện hưởng của nó cho phép).
Mấu chốt lôgic trong luận điểm thứ hai của học thuyết trường điện từ Mắcxoen là sự giả định về sự tồn tại dòng điện dịch. Dòng điện dịch là biểu hiện của một điện trường biến thiên theo thời gian. Nếu dòng điện dẫn tương ứng với dòng điện tích chuyển động thì dòng điện dịch không hề liên quan đến điện tích hay hạt vật chất nào khác. Sự giống nhau của chúng, hay có thể nói đặc trưng chung của chúng là ở chỗ đều gây ra từ trường như nhau.
Không thể hình dung được một dòng điện phi vật chất nhưng có năng lượng, không tương tác với bất cứ đối tượng nào mà lại sinh ra từ trường, Hơn nữa cũng cần xem xét lại có thực sự ngay cả dòng điện dẫn cũng sinh ra từ trường hay không?
Theo vật lý học thì khoảng không gian giữa hai bản điện của một tụ điện phẳng phải tồn tại một điện trường. Theo suy đoán của chúng ta, nên hiểu điện trường ấy chính là hiệu ứng hút điện do hai bản điện làm vận động của vùng không gian giữa chúng bị biến thái và gây ra hiện tượng hút. Tuy nhiên, khi trong vùng không gian giữa hai bản điện không hiện hữu một thực thể nào thì hiệu ứng hút điện, trong tình trạng đã cân bằng tương tác, không thể hiện, nghĩa là tồn tại dưới dạng tiềm ẩn. Khi xuất hiện một hạt vật dẫn không mang điện trong vùng đó, hiệu ứng điện mới phát huy tương tác, gây ra sự điện hưởng đối với hạt và tạo thế cân bằng động ổn định mới. Nếu hạt đó mang điện, nó sẽ bị tương tác lực và nếu nó đủ nhẹ thì phải chuyển động về bản điện có điện tích trái dấu với nó.
Khi nối hai bản điện đó với nhau bằng một dây dẫn có cuộn tự cảm (không đi qua vùng không gian giữa hai bản điện) thì trong dây dẫn sẽ xuất hiện dòng điện biến đổi (xoay chiều) và nếu không bị ảnh hưởng bởi những tác động ngoại lai (như điện trở chẳng hạn), thì dòng điện này được duy trì coi như đến vĩnh cửu. Sự biến đổi điều hòa theo thời gian của dòng điện là do có sự hiện diện của cuộn tự cảm (tự cảm là trường hợp riêng của cảm ứng điện từ). Tuy nhiên, vì sao dòng điện lại duy trì được khi mạch dẫn nó bị hở (bị ngăn cách bởi vùng không gian giữa hai mặt bản điện)? Để giải quyết vấn đề, Mắcxoen đã giả định về sự tồn tại một dòng điện tích trong vùng không gian giữa hai mặt bản điện. Dòng điện này có chiều và cường độ là chiều và cường độ của dòng điện dẫn, có mật độ dòng là mật độ điện tích trên mặt bản điện. Chính dòng điện dịch này đã đóng vai trò làm kín mạch điện. Nguyên nhân làm xuất hiện dòng điện dịch không thể là cái gì khác ngoài điện trường biến thiên giữa hai bản điện, hay nói đúng hơn, trường điện từ biến thiên theo thời gian đã đóng vai trò như một dòng điện dịch mà Mắcxoen đã giả định.
Chúng ta không thừa nhận sự tồn tại của điện trường nên có cách giải thích khác.
Có thể rằng, khi nối dây dẫn vào hai bản điện của tụ điện đã nạp đầy điện và đóng mạch thì cũng là lúc làm xuất hiện một hiệu ứng hút điện dọc theo dây dẫn giữa hai bản tụ. Nhờ có hiệu ứng này làm xuất hiện hướng ưu tiên lan truyền nổi trội trong dây dẫn về bản cực trái dấu với các điện tích và bản chất cấu tạo của vật dẫn mà trong dây dẫn, dễ dàng xuất hiện một dòng điện có chiều (theo qui ước) từ bản điện dương đến bạn điện âm. Nếu không có cuộn tự cảm thì dòng điện này nhanh chóng bị triệt tiêu, hai bản điện và dây dẫn hơp thành một vật dẫn cân bằng tĩnh điện. Lúc này, hiệu ứng điện trong dây dẫn không còn nữa, hiệu ứng hút điện giữa hai mặt bản tụ trở thành hiệu ứng đẩy điện. Nhờ có cuộn tự cảm mà cường độ dòng điện dẫn phát sinh không tăng trưởng cũng như suy biến đột ngột.
Vật lý học đã giải thích cặn kẽ vai trò của cuộn tự cảm trong việc duy trì dòng điện biến đổi. Chúng ta cũng thừa nhận cảm ứng điện từ là có thật, nhưng hiểu khác đi theo quan niệm của mình. Dù chỉ ở dạng phỏng đoán ngây ngô và thô phác (khả năng của chúng ta chỉ có thế!) thì chúng ta cũng cứ “vẽ vời” ra đây, cố tạo cho được một chiếc cầu vượt (có thể là rất “ọp ẹp”!) để tiếp tục tiến lên phía trước, hoàn thành sứ mệnh mà Tạo Hóa giao phó (thật không đấy?!), hơn nữa, đã tốn biết bao nhiêu trí lực, đổ xuống biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt cho cuộc hành trình và đã đến được tận đây rồi, đã lờ mờ thấy đích rồi, không lẽ lại… giơ tay đầu hàng, lủi thủi quay về? Mà có về được nhà không khi tuổi đã già, sống không còn bao lâu nữa, trước cuộc thoái lui muôn trùng vạn dặm? Không, khôn ngoan nhất là vượt lên phía trước! Lão Tử bảo: ra đi có nghĩa là trở về. Đến được đích thì cũng coi như về nhà. Đích đã thấp thoáng kia rồi. Ngu dại gì mà bỏ dở cuộc hành trình “đi tìm cái gì đó”. (Rõ là lẩn thẩn! Đang trên kệ sách mà làm như… Đúng là đồ Hoang Tưởng rồ dại!)
Ở những tầng phía đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, trừ hạt , còn tất cả các thực thể mang điện tích khác, khi lan truyền, đều có dạng dây và cũng được chúng ta gọi là các dây KG mang điện tích. Các dây mang điện tích bao giờ cũng có khối lượng lớn hơn khối lượng của một số lẻ nguyên lần lớn hơn hoặc chí ít cũng bằng 3. Hiệu ứng điện chỉ có tác dụng đến điện tích mà dây KG mang cho nên khi lan truyền theo hướng của hiệu ứng điện, dù vận tốc lan truyền theo hướng đó rất lớn thì bao giờ cũng nhỏ hơn vận tốc cực đại C. Do yêu cầu chuyển hóa KG không được phép trì trệ mà lúc đó, các phần tử hợp thành gây KG phải đồng thời lan truyền theo một hướng thứ hai nữa sao cho vận tốc tổng hợp của chúng đúng bằng C. Như vậy, dây KG mang điện tích, khi xoay quanh trục của nó nữa. Sự xoay này được gọi là xoáy KG của nội tại dây. Ở tầng nấc sâu trong Vũ Trụ vi mô, trong cấu trúc mang khối phi Ơclit của môi trường không gian, cũng như sự nhận biết của chúng ta về bản chất môi trường ấy còn hết sức mờ mịt, nên khó mà hình dung được sự xoáy KG trong thực tại diễn biến thế nào. Nhưng dựa trên nguyên lý tương tự, tính lan truyền dưới tác động của hiệu ứng điện, trông đại loại như một sợi đơn (hay cáp) có hình lò xo vừa tịnh tiến theo phương trục vừa xoay quanh trục của nó.
Trong một vùng môi trường không gian, khi xuất hiện một thực thể KG mới, giữa chúng sẽ có sự ảnh hưởng nào đó đối với nhau, làm cho vận động của nhau biến thái ở một mức độ nhất định theo hướng ổn định lại hoạt động trong thế cân bằng động mới. Khi xuất hiện một dây KG mang điện tích trong một khu vực chân không nào đó và trong trường hợp dây đó định xứ thì nó được thấy là một giả hạt và xoáy nội tại mạnh mẽ. Trong không gian Ơclit, một cách tương tự, có thể hình dung môi trường không gian là nước tĩnh và giả hạt xoáy nội tại là một khối băng có hình dáng giống hạt prôtôn (không tan chảy) và xoay quanh trục của nó cũng giống như sự xoáy (rất nhanh) của prôtôn mà chúng ta đã diễn tả, dù bản chất của hai hiện tượng là rất khác nhau.
Ngay cả khi khối băng không xoay (đứng yên) thì giữa nó và nước vẫn thường xuyên xảy ra tương tác! Không chú ý đến loại tương tác đó, khi khối băng xoay quanh, nó và nước tương tác nhau dưới hình thức ma sát. Do có sự ma sát mà nước ở lân cận xung quanh khối băng bị “kéo theo” sự xoay của khối băng, đồng thời, ngược lại nước cũng ngăn cản sự xoay của khối băng (bỏ qua hiện được gia nhiệt). Giả sử nguồn lực làm xoay khối băng là không đổi thì do phải chịu một lực cản của nước mà khối băng xoay chậm lại. Chúng ta cho rằng đến một lúc nào đó, sự xoay của khối băng lẫn sự xoáy của vùng nước quanh nó đều trở nên ổn định, nghĩa là giữa chúng đã thiết lập được một tương tác mang tính bất biến và duy trì lâu dài theo thời gian. Có thể thấy, càng xa khối băng và vùng xích đạo của nó thì mức độ xoáy càng yếu đi một cách có qui luật. nếu cho xuất hiện một phần từ băng trong vùng nước xoáy ấy tại vị trí cách tâm khối băng xoay một khoảng r thì nó sẽ bị tác động một lực có độ lớn và phương chiều xác định được trên cơ sở qui luật xoáy của vùng nước. Như vậy, ở một mức độ nhìn nhận nào đó, chúng ta nói rằng, khối băng xoay đã làm xuất hiện một hiệu ứng hút – đẩy và có thể biểu diễn hiệu ứng này một cách toán học.
Quay lại với dây KG mang điện trong chân không. Khi nó định xứ, nó sẽ biến thành giả hạt và xoáy nội tại mạnh mẽ: Tương tự như khối băng, nó cũng làm cho môi trường không gian xung quanh nó biến thái vận động đi. Tuy nhiên, sự khác nhau cơ bản giữa hai hiện tượng là một đằng được nhìn nhận trong Vũ Trụ vĩ mô, khối băng và nước như không còn dính dáng gì đến Không Gian nữa, chúng tồn tại và vận động trong không gian như ở chốn Hư Vô (hư vô tuyệt đối), đằng khác được nhìn nhận trong khoảng đáy cùng của Vũ Trụ vi mô, sự xoáy của dây KG mang điện thực chất chỉ là sự chuyển hóa trạng thái kích thích nội tại của các hạt KG, hay còn gọi là chuyển hóa KG, mà sự ảnh hưởng của giả hạt cùng với xoáy nội tại của nó đến vận động của vùng chân không xung quanh nó không thể nào lại là do ma sát giữa chúng với nhau được.
Cũng có thể hình dung giả hạt KG là dây KG (có dạng lò xo) đã bị nén lại hết cỡ (hoặc cuộn lại theo cách nào đó) và xoay hoặc xoáy quanh trục của nó. Theo chúng ta quan niệm thì giây KG là tập hợp nối tiếp và xen kẽ nhau của ba loại hạt , (hạt KG thông thường). Khi dây KG định xứ thì biến thành giả hạt KG và xoay (hoặc xoáy) mạnh. Lúc đó, tại bất cứ điểm nào thuộc nội tại giả hạt (ở đây phải quan niệm điểm đúng bằng kích cỡ hạt KG) cũng thể hiện một sự chuyển hóa KG liên tiếp và điều đặn qua ba trạng thái: , , , , …, mà về nhịp điệu, có thể coi nó là một giao động điều hòa không tắt. Vì là những phần tử hợp thành giả hạt vận động nội tại cân bằng nên các điểm giao động ấy phải có sự liên kết nào đó với nhau và sự giao động của chúng phải có mối quan hệ nhân quả khăng khít với nhau. Chúng ta cho rằng chính sự vận động mang bản chất giao động nổi trội theo một qui luật xác định, có tính chu kỳ của tập hợp điểm (hạt KG). hợp thành giả hạt xoáy là nguyên nhân gây ra sự biến thái của môi trường không gian xung quanh giả hạt. Vì hạt KG đóng vai trò nút mạng của mạng khối không gian, mà không gian thì không thế “rách” được (Tồn Tại không thể bị tổn thương được!), nên hạt KG tuyệt đối không thể di dời được. Như vậy, chỉ có thể hình dung sự biến thái vận động của vùng không gian quanh giả hạt xoáy là biến thái về nhịp điệu, nghĩa là sự xoáy của giả hạt đã gây ra một hiệu ứng kích thích làm nhịp điệu vận động của các giả hạt KG của môi trường không gian xung quanh giả hạt bị “méo” đi, bị sai lệch về mặt thời gian so với trước, khi xuất hiện giả hạt. (Theo quan niệm của chúng ta, đơn vị thời gian nhỏ nhất tuyệt đối là to=10-38 s . Nhưng điều đó chỉ đúng khi coi thời gian như là một đại lượng hợp thành lực lượng KG hay năng lượng. Thực ra, thời gian là một tồn tại ảo cho nên có thể “chia nhỏ” nó đến vô tận. Khi so sánh thời điểm xảy ra hai biến cố trong Vũ Trụ, khoảng thời gian chênh lệch không thể nhỏ hơn cả to. Do đó, phải coi to là chu kỳ dao động chuyển hóa nội tại của hạt KG. Chỉ như thế thì sự biến đổi nhịp điệu qui ra khoảng cách nhanh nhất về mặt thời gian (vận tốc C) mới có khả năng!).
Do bị biến điệu và vận động ở trạng thái bất thường nên vùng không gian xung quanh giả hạt luôn có xu thế trở về với trạng thái thông thường. Như vậy, vùng không gian đã bị biến điệu được cho là đã ở trạng thái kích thích và trạng thái kích thích này làm tiềm ẩn một hiệu ứng nào đó. Giả sử có một hạt (hạt KG trung hòa điện) xuất hiện ở lân cận giả hạt, trong vùng không gian bị biến điệu, thì nó phải chịu một hiệu ứng đẩy ra xa giả hạt (hướng ưu tiên lan truyền).
Giả sử rằng giả hạt mang điện tích nguyên tố . Sự xoáy nội tại của giả hạt là ổn định nên điện tích này sẽ lan truyền theo một đường cong không đổi và khép kín (chúng ta cho là đường tròn). Nếu có một hệ quan sát “ở đó” quan sát được sự quay của , nhưng khoảng thời gian cảm nhận tối thiểu của thiết bị (độ nhậy) lớn hơn nhiều so với chu kỳ quay của thì có thể coi đó là một dòng điện xoáy. Nếu trong vùng không gian bị biến điệu, lân cận giả hạt và trên cùng mặt phẳng quĩ đạo của , xuất hiện một hạt , thì lập tức, giữa hạt này và  của giả hạt xuất hiện một hiệu ứng hút - đẩy. Vì hạt  có khối lượng nên hiệu ứng đẩy nó ra xa  là do nó ở trong vùng không gian kích thích, mà sâu xa hơn là do sự quay của gây ra. Vì hạt mang điện tích âm nên giữa nó và  (thực ra là hạt ) thiết lập nên một hiệu ứng hút tĩnh điện. Chúng ta phán đoán rằng khoảng cách giữa và hạt càng lớn thì cả lực hút và lực đẩy càng yếu, ngược lại, khoảng cách đó càng nhỏ thì lực hút và lực đẩy càng lớn. Nhưng xét về tốc độ tăng giảm thì giá trị của lực đầy biến thiên nhanh hơn giá trị của lực hút, nghĩa là hiệu ứng hút - đẩy giữa và hạt có tính chất khoảng cách giữa chúng càng nhỏ thì tác dụng đẩu càng trở nên nổi trội, dần lấn át tác dụng hút và ngược lại, khoảng cách giữa chúng càng lớn thì tác dụng hút càng trở nên nổi trội, lấn át tác dụng đẩy. Có thể là trong tình hình như thế, và cũng vì  quay, đồng thời hạt  phải và chỉ có thể lan truyền với vận tốc C, nên hạt , dưới tác dụng của hiệu ứng hút - đẩy, sẽ phải quay tròn trong cùng mặt phẳng chứa “quĩ đạo” của . “Quĩ đạo chuyển động” của hạt  có cùng chu vi với “quĩ đạo chuyển động” của   nhưng chiều “chuyển động” của chúng ngược nhau. Hai quĩ đạo ấy không tiếp xúc nhau mà cách hau một khoảng nhất định.
Sự mường tượng ở trên không hề dựa vào một cơ sở xác đáng nào nên chỉ là một võ đoán không hơn không kém! Dù là võ đoán thì ở chừng mực nào đó về mặt nguyên tắc, chúng ta tin rằng nó cũng mang nét hợp lý, nếu quan niệm vật lý về một trường điện từ tồn tại như một thực tế vật chất “thường trực” trong không gian là sai.
Xen vào một đoạn có tính “tự vấn an” như thế để chúng ta tiếp tục yên tâm mà mường tượng cho… thoải mái!
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét