"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều
vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!" -Albert Einstein
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy
cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu
Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng
để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to
lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng
quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng
ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực
lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy
mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói
khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
“Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn!” Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ" Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo)
Tháng
5-1966, Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn lúc đó là Cabốt Lốt, không hiểu sao lại gửi
về cho Giônsơn một bản báo cáo mà “Tài liệu mật Lầu Năm Góc” gọi là bản
báo cáo gồm 7 số “0”:
1-“0” làm hao tổn Việt Cộng.
2-“0” tiêu diệt được đơn vị chính qui lớn nào của Việt Cộng.
3-“0” ngăn được du kích phát triển.
4-“0” ổn định được hậu phương.
5-“0” giành được chủ động.
6-“0” ngăn được đà suy sụp của quân đội Sài Gòn (ngụy quân).
7-“0” tăng cường và bổ sung kịp được lực lượng của Mỹ.
Trong
khi đó, Cục tình báo trung ương Mỹ đánh giá về cuộc đánh phá Bắc - Việt
Nam bằng không quân: “Ném bom đã tỏ ra ít có tác dụng đối với Bắc -
Việt Nam”. Cuộc họp của 47 nhà bác học đại diện cho những phần tử ưu tú
nhất của nước Mỹ thì đánh giá kết quả của chiến dịch Sấm rền là: “Tính
đến tháng 7-1960, các hoạt động ném bom của Mỹ ở Bắc - Việt Nam đã không
có ảnh hưởng trực tiếp đáng kể nào đến khả năng của Hà Nội trong việc
tiến hành và hỗ trợ các hoạt động quân sự ở Nam - Việt Nam như mức hiện
nay”.
Những "con chuột" đường hầm chui xuống địa đạo Củ Chi.
Để
đánh lừa chó nghiệp vụ của Mỹ, các chiến sĩ cách mạng đã để đồ đạc của
quân đội Mỹ như quần áo ở các lỗ thông gió, lối vào đường hầm... Chính
vì vậy, những con chó đó không phát hiện ra khói nấu ăn và đốt củi từ
dưới lòng địa đạo bốc lên.
Hầm chông gây ra nỗi khiếp đảm cho lính Mỹ
Hầm chông bẫy cọp – GIS (lính Mỹ)
đang cơ động nhẹ nhàng trên đường mòn, bất ngờ đất dưới chân anh ta sụt
xuống và lính Mỹ rơi vào một cái hố đầy chông tre hoặc chông sắt sắc
nhọn. Nếu như anh ta may mắn và không chết ngay, anh ta sẽ gào lên vì
đau đớn, các binh sĩ còn lại sẽ xúm vào tìm cách lôi anh ta lên khỏi cái
hầm chông kinh hoàng đó. Thông thường xung quanh hầm chông đó có những
cửa bí mật, những hỏa điểm đáng sợ của các xạ thủ du kích bắn tỉa.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, địa đạo Củ Chi là một nỗi thất
vọng lớn, câu hỏi khó đối với quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng
hòa. Mỹ và Australia từng
cố gắng phát hiện và xâm nhập địa đạo bằng nhiều cách, song tất cả nỗ
lực đều thất bại. Quân đội Mỹ thậm chí từng dùng máy ủi san bằng những
khoảng rừng, ngôi làng, cánh đồng lớn và rải chất độc da cam, ném bom
napal, rưới xăng để tận diệt động thực vật. Nhưng kỳ lạ thay, Việt Minh
vẫn an toàn và tiếp tục sống, chiến đấu vì đất nước.
Tuy
nhiên, Oétmolen vẫn tự tin. Trong thời kỳ cuối năm 1966 đến đầu năm
1967, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông này, quân Mỹ liên tiếp mở hàng
loạt chiến dịch tiến công qui mô lớn vào khu vực chiến khu C (ở Tây
Ninh), khu “tam giác sắt” Củ Chi (ở phía Bắc Sài Gòn), chiến khu Đ (ở
miền Đông - Nam Bộ). Lúc này, tướng Oétmolen “khiêm tốn, thận trọng”
thuở nào bắt đầu ngạo mạn, huênh hoang, tuyên bố: với chiến lược “Tìm và
diệt” đánh vào tận “hang ổ Việt Cộng”, “chỉ đến giữa năm 1967 là đánh
“gãy xương sống” Việt Cộng”. Tất cả các cuộc hành quân “Tìm và diệt” của
Mỹ vào 5 vùng “đặc biệt ưu tiên” nói trên nhằm tiêu diệt và quét sạch
Việt Cộng ở các vùng bao quanh một khu vực căn cứ quan trọng nhất là Bắc
- Tây Ninh, để thực hiện một chiến dịch lớn nhất có tên là “Gianxơn
Xiti” nhằm tiêu diệt cho được cơ quan đầu não chỉ đạo chiến tranh tại
miền Nam - Việt Nam của Việt Cộng. Đây là một chiến dịch mà Tổng chỉ huy
Oétmolen cho là quyết định cuộc chiến vào cuối năm 1967 như đã dự định.
Côlơ (W. Cagle), phụ tá đặc biệt của Tổng thống Mỹ thì báo cáo cho
Giônsơn sau chuyến đi thực tế ở miền Nam vào tháng 2-1967: “Tôi trở về
lạc quan hơn bao giờ hết… Một cách tốn kém, đắt đỏ, nhưng hiển nhiên
không cần bàn cãi, chúng ta đang thắng ở miền Nam. Chỉ có ít chương
trình của chúng ta - nhân sự hoặc quân sự là đạt nhiều hiệu quả, nhưng
chúng đang nghiền nát kẻ thù dưới sức nặng và số lượng tuyệt đối…”. Vào
tháng 3-1967, Oétmolen điện cho Bộ chỉ huy Thái Bình Dương: “Do kết quả
của việc tăng cường binh lực và do thành công của chúng ta nên chúng ta
đã có thể đề ra kế hoạch và khởi xướng một cuộc tổng phản công. Hiện nay
chúng ta giành được thế chủ động chiến thuật và đang tiến hành các cuộc
hành quân tiến công liên tục, nhỏ bé và đôi khi với qui mô lớn để tiêu
hao lực lượng địch, để phá hủy các căn cứ của địch và làm tan rã hạ tầng
cơ sở của chúng, để ngăn chặn đường giao thông thủy bộ của chúng và
thuyết phục chúng rằng với sức mạnh tiến công của chúng ta kèm theo các
hoạt động tâm lý, chúng nhất định thất bại”.
Kết
quả thực tế đã ngược hẳn với ước mơ dự tính của Oétmolen. Chiến dịch
“Tìm và diệt” lớn nhất là cuộc hành quân Gianxơn Xiti đã không tìm thấy
“kẻ địch”. Thế mà “kẻ địch” lại thường xuất hiện bất ngờ khắp mọi nơi
khi thì lẻ tẻ, khi thì từng đơn vị nhỏ, nhưng cũng có lúc đông cỡ trung
đoàn, sư đoàn giáng cho Mỹ - Ngụy những đòn thất điên bát đảo. Hơn một
vạn lính Mỹ - Ngụy thương vong, gần 1.000 xe quân sự, chủ yếu là xe tăng
và thiết giáp bị phá hủy, hàng trăm máy bay bị bắn rơi, hàng trăm khẩu
pháo bị phá hỏng, và đặc biệt là Đài phát thanh của Mặt trận giải phóng
không hề ngừng phát sóng. Đây là một thất bại vô cùng nặng nề và cũng vô
cùng bất ngờ đối với quân Mỹ. Vào những tháng cuối 1967, tình trạng sa
lầy, bế tắc của quân Mỹ làm cho Đin Rátxcơ, bộ trưởng ngoại giao Mỹ khi
đó phải than thở: “Năm 1967 là năm đau khổ và khốc liệt đối với Mỹ trong
chiến tranh Việt Nam, ngay tại nước Mỹ, tình thế thật rối bời, dư luận
chia rẽ, tiến thoái lưỡng nan”.
Trong
cuốn “Giải phẫu một cuộc chiến tranh”, xuất bản năm 1985 tại Nữu Ước,
nhà sử học có tiếng của Mỹ là Gabrich Côncô viết: “… dù ưu thế nhân lực
của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa cộng lại, đến năm 1967 là 4,7 trên 1 so với
Cách mạng nhưng Cách mạng đã ghìm được Mỹ và đồng minh Mỹ đến mức lực
lượng tiến công của Cách mạng vượt lực lượng tiến công của Mỹ và do đó,
lực lượng Cách mạng nắm được chủ động về chiến thuật và cả chiến lược
nữa”.
Đến
cuối năm 1967, cả chiến dịch “Sấm rền” cũng như hàng rào điện tử
Mác-Namara đều coi như vô hiệu, không ngăn chặn được sự chi viện của Bắc
- Việt Nam cho Tiền tuyến lớn của nó, hơn nữa, chỉ tính riêng năm 1967,
dù đã bị bắn rơi 1067 máy bay và bị bắt sống 161 phi công, không lực Mỹ
vẫn, theo đánh giá của các nhà phân tích cao cấp Mỹ, “không hề làm giảm
sút tinh thần nhân dân miền Bắc”, “không hề làm lung lay ý chí Hà Nội”.
PV Dân trí đã ghi lại một số hình ảnh trong chuyến viếng thăm đầy ý nghĩa đến vùng đất đã đi vào huyền thoại:
Nhấn để phóng to ảnh
Khu
địa đạo Củ Chi là một vùng quê yên bình với những mái nhà tranh nằm sau
bụi tre xanh nhưng bên dưới là hệ thống đường ngầm, công sự, chiến hào
Nhấn để phóng to ảnh
Nhấn để phóng to ảnh
Nhấn để phóng to ảnh
Nhấn để phóng to ảnh
Người dân nơi đây quanh năm bám với ruộng đồng, tăng gia sản xuất, gieo con chữ... nhưng sẵn sàng xung trận khi quân thù đến
Nhấn để phóng to ảnh
Các chiến sĩ tích cực nghiên cứu, chế tạo bom mìn... để đánh giặc
Nhấn để phóng to ảnh
Nhấn để phóng to ảnh
Nhấn để phóng to ảnh
Dựa
vào hệ thống đường ngầm, công sự, chiến hào, chiến sĩ và nhân dân Củ
Chi đã chiến đấu vô cùng anh dũng, lập nên những chiến công thần kỳ.
Quân đội Mỹ lần đầu vào đất Củ Chi gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ
các địa đạo trong vùng căn cứ hiểm yếu, đã phải thốt lên: “Làng ngầm”,
“Mật khu nguy hiểm”…
Nhấn để phóng to ảnh
Sở chỉ huy đặt ngay trong lòng đất
Nhấn để phóng to ảnh
Hệ
thống địa đạo chạy ngoắt ngoéo trong lòng đất, từ đường “xương sống”
(đường chính) tỏa ra vô số nhánh dài ngắn, ăn thông với nhau, hoặc độc
lập chấm dứt tùy theo địa hình. Chung quanh cửa hầm lên xuống được bố
trí nhiều hầm chông, hố đinh, mìn trái (gọi là tử địa), có cả mìn lớn
chống tăng và mâm phóng bom bi chống máy bay trực thăng đổ chụp, nhằm
tiêu diệt ngăn chặn quân địch tới gần
Nhấn để phóng to ảnh
Trong
chiến tranh, giặc thả bom, giết chết trâu bò... khiến Củ Chi như vùng
đất chết. Người cán bộ sống trong vùng địch, ban ngày náu mình dưới hầm
bí mật, ban đêm mới lên khỏi mặt đất, đi hoạt động
Nhấn để phóng to ảnh
Nỗi đau của bà mẹ Củ Chi mất con trong chiến tranh
Nhấn để phóng to ảnh
Mùa
Xuân 1975, nhiều cánh quân lớn của Quân đoàn 3 và nhiều đơn vị chủ lực,
địa phương tiến vào giải phóng thị trấn Củ Chi và dinh lũy cuối cùng
của địch tại Sài Gòn, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, vào
lúc 11 giờ ngày 30/4/1975. Bất chấp các chiến dịch Tìm - Diệt của quân Mỹ, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng tiếp tục mở rộng vùng kiểm soát tại nông thôn. Từ 1964 đến 1965,
vùng do Mặt trận kiểm soát chiếm 3/4 diện tích và 2/3 dân số miền Nam.
Đầu năm 1968, Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã quản lý 4 triệu dân sống
trong vùng giải phóng, 6 triệu rưỡi dân nữa sống trong vùng có cơ sở
hoạt động bí mật của Mặt trận, Mỹ và chính phủ Sài Gòn chỉ kiểm soát
được khoảng 4 triệu dân sống ở vùng đô thị. Qua 3 năm chiến đấu
trực tiếp với quân Mỹ, tuy vẫn đứng vững trên
chiến trường và khiến quân Mỹ sa lầy, nhưng thương vong của quân Giải
phóng cũng tăng lên, nếu cục diện này tiếp tục kéo dài thì không thể
giành được thắng lợi quyết định. Để xoay chuyển tình thế tạo đột phá cho
cuộc chiến tranh, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam tại Hà Nội quyết
định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.
Nhân
dân Mỹ chán ngán, làn sóng chống chiến tranh đối với chính phủ Mỹ ngày
một dâng cao. Bản thân trong nội bộ chính quyền Mỹ cũng rạn nứt, mâu
thuẫn, chia làm hai phe chủ chiến (gọi là phe Diều hâu) và chủ hòa (gọi
là phe Bồ câu). Phe Bồ câu gồm Mắc Namara cùng một số cộng tác viên ở Bộ
quốc phòng Mỹ, một số nhà vạch kế hoạch dân sự cấp cao, thì chủ trương
giảm qui mô cuộc chiến, rút lui khỏi Việt Nam. Phe Diều hâu gồm các
tướng lĩnh, đứng đầu là Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Tư
lệnh Thái Bình Dương và tướng Oétmolen, Tư lệnh Chiến trường Nam - Việt
Nam, thì thúc giục mở rộng chiến tranh cả trên bộ, trên không và ra cả
Đông Dương. Ngày 28 tháng 1 năm 1967, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh tuyên bố lập trường và điều kiện cho việc
đối thoại Việt-Mỹ là:
"Muốn
nói chuyện thì trước hết phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và
mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động
chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và Mỹ mới có thể nói chuyện được".
Giônsơn
hoàn toàn bị động, lúng túng, hoang mang, không dứt khoát được, tiến
cũng sợ mà lui cũng sợ, hoàn toàn bế tắc. Tuy nhiên, như một vớt vát
niềm tin cuối cùng vào Oétmolen, Giônsơn đã quyết định đưa sang Nam -
Việt Nam thêm 100 ngàn quân Mỹ nữa, nâng tổng số ở đó (không kể quân
ngụy Sài Gòn và quân đồng minh (thực chất là chư hầu) lên 430 ngàn quân
vào cuối tháng 12-1967. Trên một diện tích khu vực nhỏ hẹp chỉ có 17 vạn
km vuông (diện tích Nam - Việt Nam) thì số quân Mỹ như thế đã tạo ra
một mật độ chưa có cuộc chiến tranh nào đạt tới.
Kênh
truyền hình Mỹ CNN vừa công bố dánh sách 12 công trình ngầm hấp dẫn du
khách nhất thế giới, trong đó có Địa Đạo Củ Chi của Việt Nam. Một cụm
công trình ngầm đươc mệnh danh là mảnh đất thép đã đi vào lịch sử đấu
tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam như một huyền thoại của thế kỷ 20
và trở thành một địa danh nổi tiếng trên thế giới đồng thời là một lỗi
khiếp đảm của quân Mỹ – Nguỵ…
Địa
đạo được đào trên một khu vực đất sét pha đá ong nên có độ bền cao, ít
bị sụt lở. Nằm cách trung tâm Tp.Hồ Chí Minh khoảng 70 km về hướng đông
bắc. Đây là nơi thu nhỏ trận đồ biến hóa của quân và dân Củ Chi trong
cuộc kháng chiến lâu dài ác liệt suốt 30 năm chống kẻ thù xâm lược giành
độc lập, tự do cho Tổ quốc, là một công trình kiến trúc độc đáo, nằm
sâu trong lòng đất, có nhiều tầng, nhiều ngõ ngách như màng nhện, có nơi
ăn ở, hội họp và chiến đấu với tổng chiều dài hơn 200 km…
Du lịch địa đạo Củ Chi
Hơn
20 năm xây dựng, địa đạo Củ Chi đã được hoàn thành không phải bằng một
kỹ thuật hiện đại mà là từ bàn tay của những con người đất thép quyết
giữ gìn từng tấc đất quê hương. Trong đó có những đôi tay của biết bao
người mẹ, người chị, người em, vốn chỉ là những con người chân chất giản
dị nhưng đã viết nên những trang sử hào hùng biết bao cho dân tộc. Và
từ đó, Củ Chi đã là “ngôi nhà” của biết bao lớp lớp chiến sĩ với lối
đánh du kích thông minh đã bao phen làm giặc Mỹ kinh hồn bạt vía, góp
phần to lớn vào công cuộc giải phóng quê hương.
Hệ
thống địa đạo được chia ra làm 3 tầng, từ đường “xương sống” toả ra vô
số nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau, có nhánh trổ ra tận sông Sài
Gòn. Tầng một cách mặt đất 3m, chống được đạn pháo và sức nặng của xe
tăng, xe bọc thép….Tầng 2 cách mặt đất 5m, có thể chống được bom cỡ nhỏ.
Còn tầng cuối cùng cách mặt đất 8-10m. Ðường lên xuống giữa các tầng
hầm được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo,
nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn với
địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực,
có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu… Còn có
cả hầm lớn, mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn
nghệ.
Quân
đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã liên tục tấn công vào hệ thống
địa đạo bằng đủ phương tiện: bom, bơm nước vào địa đạo, hơi ngạt… nhưng
do hệ thống địa đạo được thiết kế có thể cô lập từng phần nên bị hư hại
không nhiều. Quân đội Mỹ đã áp dụng nhiều biện pháp để phát hiện các cửa
vào (được ngụy trang) và phát hiện các cửa thông gió (thường được đặt
giữa các bụi cây). Biện pháp hữu hiệu nhất là sử dụng chó nghiệp vụ. Ban
đầu có một số cửa vào và lỗ thông gió bị chó nghiệp vụ phát hiện do chó
ngửi được hơi người. Tuy nhiên, sau đó, những người ở dưới địa đạo đã
dùng xà phòng của Mỹ đặt ở cửa hầm và cửa thông gió nên chó nghiệp vụ
không thể phát hiện ra.
Trong
suốt thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, địa đạo Củ Chi là một nỗi thất vọng
lớn, câu hỏi khó đối với quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Mỹ
và Australia từng cố gắng phát hiện và xâm nhập địa đạo bằng nhiều cách,
song tất cả nỗ lực đều thất bại. …. Không thể giành ưu thế bằng chiến
tranh hóa học, quân đội Mỹ bắt đầu cắt cử nhiều binh lính xuống địa đạo.
Những người này được gọi là “chuột đường hầm”. Họ được trang bị súng
máy, dao, đèn pin. Song với sự phức tạp của hệ thống và không có đường
lui, binh sĩ Mỹ hầu hết thiệt mạng.
Một
trong giải pháp tiêu diệt quân địch hiệu quả và gây lên lỗi khiếp đảm
của quân địch mỗi khi chúng tiến đanh Củ Chi đó là hệ thống vũ khi thô
sơ do chính quân và dân Củ Chi tự chế và nó đóng một vai trò quan trọng,
nó bẻ gẫy ý chí xâm lược của kẻ thù. Chúng ta hãy xem những vũ khí tự
chế – sự khiếp sợ mà người Việt Nam dành cho quân xâm lược như: Hầm
Chông Bẫy Cọp, Chông Thò, Chông Hom, Chông cánh, Chông cần cối, Chông
nách, Chông bồ cào, chông cánh cửa, chông tự động ….. Đó là thứ vũ khí
tự tạo không đơn thuần chỉ sát thương, mà còn tạo lên những cơn ác mộng
kinh hoàng cho người còn lại…
Sau
khi chiến tranh kết thúc, khu di tích lịch sử này đã trở thành một khu
du lịch hấp dẫn, thu hút hàng ngàn du khách trong nước và nước ngoài
tham quan mỗi ngày. Ngoài việc len lỏi vào các đường hầm để cảm nhận
được không khí năm xưa, khách du lịch còn được nghe giới thiệu, được xem
lại những đoạn phim tư liệu về thời chiến đấu oanh liệt của du kích Củ
Chi, được thưởng thức món khoai mì chấm muối mè dân dã mà ngon miệng.
Bên cạnh đó, du khách còn được tham gia môn thể thao bắn súng để thử khả
năng tinh nhuệ và chính xác của mình. Và chắc chắn rằng ai cũng cảm
thấy thật dễ chịu khi len lỏi vào những cánh rừng trung quân lá xanh
ngút ngàn, ngồi đong đưa trên những chiếc võng, hoài niệm một chút về
quá khứ, để biết rằng cuộc sống thanh bình ngày hôm nay được đánh đổi
biết bao sự hy sinh của những con người năm xưa trên khắp đất nước Việt
Nam….
Sau
cuộc phản công “tìm diệt” thất bại trong mùa khô năm 1966-1967 của Mỹ,
với lực lượng được tăng cường, Oétmolen lại gấp rút chuẩn bị cuộc phản
công lần thứ 3 vào vùng chiến khu C, Đ, bằng những cuộc hành quân “ngăn
ngừa” ở tỉnh Phước Long, đồng thời dự kiến mở 4 cuộc hành quân mang tên
chung là “York” càn quét vùng biên giới Lào ở 4 tỉnh phía Bắc nhằm lập
lại quyền kiểm soát ở miền tây Trị - Thiên.
Giữa
lúc Oétmolen đang ráo riết triển khai lực lượng để thực hiện ý đồ đó
thì Quân giải phóng Miền Nam mở đợt hoạt động quân sự Thu - Đông nhằm
tiêu diệt, tiêu hao thêm một bộ phận binh lực Mỹ - Ngụy, buộc chúng phải
bị động hơn nữa về chiến lược, tranh thủ mở rộng vùng giải phóng, củng
cố thế trận và quyền chủ động chiến trường, đồng thời mở ra cho Giônsơn
thấy leo thang chiến tranh là phiêu lưu, giành thắng lợi quân sự trên
chiến trường Việt Nam là vô vọng.
Trước
cuộc tiến công dồn dập của Quân giải phóng từ Quảng Trị cho đến đồng
bằng sông Cửu Long (chiến sự ác liệt nhất trong mùa mưa năm 1967 là ở
Tây Nguyên và Trị Thiên), cùng lúc với tin tức tình báo cho thấy Quân
giải phóng đang di chuyển những đơn vị lớn từ vùng biên giới về đồng
bằng, các trung tâm dân cư, kể cả Sài Gòn, Oétmolen hốt hoảng ra lệnh
hủy bỏ kế hoạch phản công lần 3, điều phối lại lực lượng chuyển sang
phòng ngự bị động theo 2 hướng chính là xung quanh Sài Gòn và Trị Thiên.
Đến
đây, một thời cơ mới cho công cuộc giải phóng miền Nam của Cách mạng
Việt Nam đã xuất hiện. Bộ chính trị và Ban chấp hành Đảng Lao động Việt
Nam nhận định: “Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ
chiến lược lớn, đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về
chiến lược”, “tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách
mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ Tổng tiến
công và nổi dậy để giành thắng lợi quyết định”, do đó “Nhiệm vụ trọng
đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của
ta lên bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích - tổng
khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định” (Nghị quyết Hội nghị lần thức
14 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, tháng 1-1968).
Sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam gia tăng cường độ bắt đầu
vào ngày 02.03 với chiến dịch “Sấm rền” “Operation Rolling Thunder”,
tiến hành không kích miền Bắc Việt Nam với cường độ cao. Chiến dịch
Rolling Thunder kéo dài 3 năm rưỡi ở nhiều cấp độ khác nhau.
Căn cứ và sân bay của Mỹ trở thành mục tiêu tấn công thường xuyên
của quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Trong ảnh là kết quả của một vụ
pháo kích của Quân Giải phóng vào căn cứ không quân Biên Hòa 11. 1964;
bốn quân nhân Mỹ thiệt mạng , một số máy bay bị phá hủy. (Ảnh: USAF)
Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến viễn chinh số 9 đổ bộ lên bờ biển Đà Nẵng
nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công của Quân Giải Phóng vào các lực lượng
của quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn.
Sự gia tăng với cường độ lớn các cuộc tấn công vào lực lượng quân sự
Mỹ và tình hình bất ổn chính trị của chính quyền Sai Gòn đã khiến cho
Tổng tư lệnh lực lượng viễn chinh Mỹ ở Việt Nam, tướng 4 sao William
Westmoreland chính thức yêu cầu triển khai lực lượng bộ binh vào tháng
01..
Thủy quân lục chiến được triển khai !: 08.03, khoảng 4,000 yards
(3,6 km) cách bờ biển Việt Nam, thủy quân lục chiến Mỹ chuẩn bị tiến vào
đất liền từ các tàu đổ bộ thuộc lực lượng Amphibious Task Force 76.
Trong ảnh là Lính thủy đánh bộ Mỹ trên tàu USS Vancouver. (USMC)
Lực lượng đổ bộ đường biển bao gồm các tàu chỉ huy USS Mount
McKinley, tàu vận tải USS Henrico, tàu chở hàng USS Union, tàu vận tải
đổ bộ có đà tàu USS Vancouver. (USMC).
Sau thời gian chậm trễ do thời tiết gây ra sóng lớn, 06:00 ngày hôm
sau, hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn Thủy quân lục chiến viễn chinh số 9
cập bờ tại bàn đạp RED Beach 2, phía bắc của căn cứ không quân. (USMC)
Thủy quân lục chiến mang vũ khí và trang thiết bị trên bờ.
Các xe thiết giáp cũng đổ bộ tự hành từ tàu đổ bộ hạng nặng
Xe tăng đổ bộ lên bờ biển
Những chiếc xe tăng lần lượt cập bờ biển
Một góc quan sát lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ lên bờ biển (USMC)
Lính Mỹ triển khai trận địa phòng ngự ven bờ biển nơi đổ bộ(USMC)
Hai binh sĩ Mỹ đào đặp trận địa súng máy M60 (USMC)
Chuẩn Tướng Frederick K. Karch (bên phải), chỉ huy trưởng lực lượnglữ
đoàn 9 Thủy quân Lục chiến Mỹ bàn bạc ngay trên bãi biển với các tướng
quân đội Sài Gòn Thi và Lâm ngay trong khi đổ bộ. (USMC)
Lính thủy đánh bộ Mỹ hành quân về vị trí trú quân. Quân đội Sải Gòn
đảm nhiệm bảo vệ các tuyến đường hành quân xung quan căn cứ không quân
Đà Nẵng
Hành quân về căn cứ
Chính quyền Sài Gòn đã tổ chức cho các học sinh địa phương chào đón
lực lượng viễn chinh đến Đà nẵng - Việt Nam, băng cờ khẩu hiệu dăng trên
những tuyến đường hành quân. Trong hình, cổng chào với khẩu hiệu "Chào
mừng đến Việt Nam", trẻ em địa phương tò mò và hiếu kỳ nhìn ngắm những
xe quân sự Mỹ ở ngoại ô Đà Nẵng. (USMC)
Lực lượng tăng cường và trang thiết bị được trực thăng vận từ Okinawa
và các căn cứ khác ở Việt Nam vào thành phố Đà Nẵng . Những phân đội
đầu tiên của tiểu đoàn Thủy quân lục chiến số 3 đến căn cứ không quân
sau buổi chiều hôm đó.
Lực lượng triển khai ban đầu được giới hạn nghiêm ngặt về phương thức
tác chiến và chỉ thực hiện nhiệm vụ phòng thủ, mệnh lệnh từ Bộ tổng
tham mưu trưởng liên quân xác định "các lực lượng Hải quân Hoa Kỳ sẽ
không tham gia vào các trận đánh tấn công VC trong thời gian kế tiếp."
Trong hình là hoàn thành việc xây dựng trận địa bazooka gần bãi biển
ngày D-Day. (USMC)
Lĩnh thủy đánh bộ nhanh chóng xây dựng trận địa phòng thủ trong và
xung quanh sân bay, thiết lập các đồn, các trận địa pháo, định vị
cáctrận địa tên lửa đất -đối-không HAWK. Trong hình, một vị trí súng
bazoka 120mm trên Đồi 327 phía tây nam sân bay. (USMC)
Trận địa lựu pháo 105 mm của lính thủy đánh bộ (USMC)
Một chiếc xe ủi hạng nhẹ đang mở đường vào vị trí phòng ngự trên đồi 327. (USMC)
Lính thủy đánh bộ chất hàng lên hai chiếc trực thăng vận tải tại sân bay Đà Nẵng
Hai trực thăng vận tải hạ cánh xuống cao điểm 327
Lực lượng Lính thủy đánh bộ Mỹ có nhiệm vụ bảo vệ sân bay, lực lượng
quân lực ARVN có nhiệm vụ bảo vệ thành phố Đà Nẵng và các khu vực dân cư
các cuộc tấn công của Quân Giải Phóng tiếp tục gia tăng, Mỹ đã buộc
phải gia tăng số lượng bộ binh tham chiến. các lực lượng Thủy quân lục
chiến tiếp tục được yêu cầu bổ sung được yêu cầu để củng cố tuyến phòng
ngự tại Đà Nẵng và ở gần sân bay Huế / Phú Bài. (USMC)
Tháng 4, Tổng thống Mỹ Johnson đã dỡ bỏ các hạn chế hoạt động tác
chiến, các tiểu đoàn bộ binh Mỹ có thể mở rộng phạm vị hoạt động, tiến
hành các chiến dịch truy quét xa căn cứ nhằm mục đích "Tìm và diệt" Quân
Giải Phóng
Những cuộc hành quân càn quét "Tìm và diệt" của Lính thủy đánh bộ Mỹ được triển khai bắt đầu từ tháng Sáu.
Cuộc đổ bộ Lính thủy đánh bộ Mỹ vào Đà Năng là mở đầu cho gần 10 năm
nước Mỹ ngập sâu vào vũng lầy "chiến tranh cục bộ", gia tăng cường độ
chiến tranh và cũng gia tăng số lượng lính Mỹ tử thương trên chiến
trường Việt Nam, một sai lầm khủng khiếp trong "chiến lược viễn chinh"
của Washington trong khu vực địa chính trị Đông Nam Á.
Nghị
quyết cũng nhận định rằng: “Ta tiến hành tổng công kích - tổng khởi
nghĩa không phải trong điều kiện kẻ địch đã kiệt quệ trong một cuộc
chiến tranh thế giới (như trường hợp Cách mạng Tháng Mười Nga, hay Cách
mạng Tháng Tám) mà là trong khi địch còn trên 1 triệu quân và một tiềm
lực chiến tranh lớn”.
Nghị quyết còn dự kiến 3 khả năng là:
“1
- Ta giành được thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, công
kích và khởi nghĩa vùng yếu, ở các đô thị lớn và đập tan được mọi phản
kích của địch, làm địch thất bại đến mức không thể gượng lại được, đè
bẹp được ý chí xâm lược của địch, bắt chúng phải chịu thua, phải thương
lượng đi đến kết thúc chiến tranh theo mục đích, yêu cầu của ta.
2
- Tuy ta giành được thắng lợi ở nhiều nơi nhưng địch cố gắng tập trung
và tăng viện thêm lực lượng từ ngoài vào, giành lại những vị trí quan
trọng, các đô thị lớn, nhất là thủ đô, và dựa vào các căn cứ để tiếp tục
chiến đấu với ta.
3
- Mỹ động viên và tăng viện thêm nhiều lực lượng, mở rộng chiến tranh
thêm một bước ra miền Bắc Việt Nam, sang Lào, Cămpuchia, hòng xoay cục
diện chiến tranh và gỡ thế thua của chúng.”
“Chúng
ta phải nỗ lực phi thường, đem hết tinh thần và lực lượng quyết tâm
chiến đấu giành cho kỳ được thắng lợi cao nhất theo khả năng thứ nhất”.
Dù “… khả năng thứ 3 có rất ít, nhưng chúng ta cũng phải luôn sẵn sàng
chủ động đối phó mọi tình huống có thể xảy ra”.
Bộ
chính trị Trung ương Đảng kêu gọi: “Đạp bằng mọi gian khổ, hy sinh,
vượt qua mọi thử thách khó khăn, dũng cảm và mưu trí tiến hành tổng công
kích - tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước đặng hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến tới
thống nhất nước nhà”, đồng thời giao cho Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng
tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng phương án hành động. Phương án hành động đó đã
được Quận ủy Trung ương và Bộ tổng tư lệnh xác định cụ thể là: “Cùng với
đòn thế tiến công của bộ đội chủ lực mà chiến trường chính là đường 9 -
Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, là đòn
tiến công chiến lược đánh vào thị xã, thành phố qui mô trên toàn miền
Nam kết hợp với nổi dậy của quần chúng nông thôn và đô thị, mở đầu cho
tổng công kích - tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam
Bộ, Trị - Thiên, Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế và các thành phố lớn”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét