"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều
vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!" -Albert Einstein
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy
cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu
Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng
để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to
lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng
quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng
ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực
lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy
mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói
khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
“Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn!” Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ" Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo)
Theo
đánh giá của phía Mỹ, có luồng ý kiến chủ yếu là giới cầm quyền như
Oétmolen, Bâncơ (Bunker), Kitxingo (Kissinger)… cho rằng “cuộc tiến công
Tết là một sự thất bại to lớn về quân sự của Cộng sản, về mặt tâm lý
thì là một sự đảo ngược có tính quyết định”. Họ dẫn giải: “… họ (tức
Việt Cộng) đã bị tiêu hao lực lượng tinh túy nhất của họ. Sự suy thoái
một cách nhanh chóng về số quân đưa vào Nam trong mùa xuân và mùa hạ
cùng với các yêu cầu cấp bách về nhân lực để chống lụt ở miền Bắc là sự
chứng minh cụ thể về những khó khăn mà chính quyền Hà Nội đã vướng
phải sau khi mất quân năm 1968…”. Tuy nhiên số đông ý kiến nghiêng về
phía nhìn nhận sự thất bại của Mỹ. Mắcxoen Taylo cho biết: “Những tin
tức chính thức từ Việt Nam phát đi sau cuộc tiến công (tức là tin nói
rằng Cộng sản bị thất bại về quân sự) không làm ai tin cả mà còn bị lên
án như định che dấu, biện bạch cho kẻ phản bội hoặc không được để ý
đến”. Leslie Gelb và Richard H. Betts cũng nói: cuộc tiến công Tết là
“bước rẽ trên đường đi”, là “một đòn chí mạng đánh vào chính sách kiên
trì của Hoa Kỳ, bắt buộc Giônsơn phải xem lại chính sách đó”, là “ một
chiến thắng có tính chất quyết định của Cộng Sản”, “Về chính trị, đây là
một đòn sấm sét, một thắng lợi vô cùng to lớn, họ đã làm sụp đổ sự tín
nhiệm đối với Giônsơn”. Mc Carthy nói một cách hài hước: “nếu chiếm
một phần lớn sứ quán Mỹ, một phần thành phố Huế, Đà Lạt và các tỉnh lớn
khác ở Vùng 4 có nghĩa là thất bại hoàn toàn thì theo kiểu lôgic đó,
tôi cho rằng nếu Việt Cộng chiếm toàn miền Nam, chính quyền sẽ tuyên bố
họ (Việt Cộng) sụp đổ hoàn toàn.”.
Trang bìa cuốn "Huấn thị điều hành căn bản Kế hoạch Phụng Hoàng" Tập số 3, bản kín (mật) số hiệu 2211
Tờ bướm tuyên truyền của chính quyền Việt Nam Cộng hòa về chiến dịch
Đội SEAL 1 trên thuyền tấn công xuôi dòng sông Hậu (ảnh chụp tháng 11/1967). Ảnh: J. D. Randall.
Tuy
nhiên, bên cạnh những thành công, quân Giải phóng cũng mắc phải
những sai lầm trong kế hoạch tác chiến. Trong việc lập kế hoạch cho cuộc
tổng tiến công, họ đã có những đánh giá không đúng với thực tế tình
hình và duy ý chí. Kế hoạch trên dựa trên nhận định thấp về khả năng của
đối phương và đánh giá quá cao khả năng của họ, nên Quân Giải phóng đã
phải chịu thương vong lớn. Một số tướng lĩnh của Hoa Kỳ dự đoán trước đó
rằng cuộc tấn công của Quân Giải phóng sẽ không nhận được sự ủng hộ của
người dân. Tuy nhiên, theo quan sát của giới báo chí trên chiến trường,
diễn biến của các đợt tấn công đã chứng minh điều ngược lại.
Trong việc lập kế hoạch tiến công Mậu Thân 1968, các cấp chỉ huy chiến
đấu của Quân Giải phóng miền Nam đã không tách bạch đâu là mục tiêu
chính trị thực chất của cuộc tiến công và đâu là mục tiêu được phổ biến
rộng rãi trong quân để cổ vũ khí thế chiến đấu.Mục tiêu thực chất là đánh lớn gây tiếng vang hướng tới dư luận và
chính giới Mỹ để buộc đối phương xuống thang, đàm phán. Còn mục tiêu
được phổ biến tuyên truyền trong cán bộ binh sĩ để nâng cao sĩ khí là
trận cuối cùng "đánh dứt điểm" đối phương. Các cán bộ chiến trường khi
lập kế hoạch tác chiến cũng tin tưởng vào quyết tâm đánh dứt điểm của
cấp trên nên họ lập kế hoạch và tiến hành đánh theo kiểu trận đánh cuối
cùng. Điều sai lầm nữa cho Quân Giải phóng là họ đã không linh hoạt thay
đổi tuỳ theo tình hình.
Khi thấy chưa đạt được mục tiêu trong đợt tấn công đầu tiên họ đã phát
động tiếp đợt 2 vào tháng 5, đợt 3 vào tháng 8 khi mà kế hoạch đã bại lộ
và đối phương đã đề phòng và chuẩn bị đón đánh, làm cho thiệt hại của
họ càng lớn. Nếu
đánh giá thật khách quan thì,
theo ý kiến chúng ta, trong chiến dịch Mậu Thân, chỉ nên thực hiện đợt I và đợt II. Vì chỉ với hai đợt tấn công đó cùng với chiến thắng Khe Xanh, Quân Giải phóng cũng đạt được những mục tiêu chính trị đề ra theo như ý Lê Duẩn. Xét riêng trên lĩnh vực quân sự thuần túy, tổng tiến công
tết Mậu Thân không phải là một chiến thắng đúng nghĩa và thiếu tính nhân đạo vì nó đã được
tiến hành một cách duy ý chí, không đến nơi đến chốn và nặng ảo tưởng về
một cuộc nổi dậy cướp chính quyền của quần chúng cách mạng! Không khí sục sôi cách mạng của quần chúng trong những ngày của tháng 8 - 1945 đã qua lâu rồi!
Nhưng trên
bước
đường đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, sự vấp váp, phán đoán sai lầm gây nên tổn thất là
chuyện thông cảm được!...
Trung đội SEAL tên là “X-quang” chụp ảnh trên bến tàu gần tỉnh Bến Tre. Ảnh: National Archives’.
Một
lính biệt kích hải quân Mỹ ôm súng máy hạng nhẹ Stoner 63A Commando
đang quan sát động tĩnh (ảnh chụp tháng 10/1968 ở Đồng bằng sông Cửu
Long). Ảnh: National Archives.
Sau
Tổng tiến công Mậu Thân, Quân Giải phóng bị đánh bật khỏi các đô thị:
Các đơn vị quân sự chịu thương vong lớn, nhiều lực lượng chính trị nằm
vùng ở đô thị bị bộc lộ và bị triệt phá, thương vong cao hơn hẳn những
năm trước. Thậm chí đã có ý kiến trong giới lãnh đạo Quân Giải phóng là
cho giải tán các đơn vị cỡ sư đoàn, quay trở về lối đánh cấp trung đoàn
trở xuống. Họ tránh giao chiến lớn tại miền Nam và rút lui về các chiến
khu tại vùng nông thôn, miền núi hoặc đi ẩn náu tại bên kia biên giới
Lào và Campuchia, phải tới năm 1970 lực lượng của họ mới hồi phục lại
được. Tình thế chiến trường yên tĩnh hơn giúp Quân lực Việt Nam Cộng hòa
có thời gian bổ sung lại những thiệt hại lớn trong năm 1968, đồng thời
tiến hành các chiến dịch bình định nông thôn, đặc biệt là chiến dịch Phượng hoàng
nhằm triệt phá phong trào chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam ở nông thôn và thành thị. Đó là cơ sở để giới quân sự Mỹ và
Việt Nam Cộng hòa cho rằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
đã thất bại. Mặt
khác, Quân Giải phóng cũng có cơ sở để cho rằng Mậu Thân 1968 là một
thắng lợi chiến lược trong chiến tranh của họ, bởi họ đã đánh
bại ý chí xâm lược của Mỹ và buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán, công nhận
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam có vị thế ngang
với Việt Nam Cộng hòa (tình trạng miền Nam tồn tại song song hai chính
quyền),
bắt buộc Mỹ phải xuống thang và bắt đầu rút khỏi Việt Nam. Lực lượng
quân Giải phóng suy yếu thì sẽ hồi phục lại, còn Mỹ một khi đã ra đi thì
khó mà trở lại được. Cuộc
tổng tiến công đã làm dư luận Mỹ thấy rằng việc đưa quân tham chiến
với nỗ lực cao đã gây căng thẳng quá mức trong xã hội Mỹ, kinh tế giảm
sút, gây nhiều hệ lụy xấu cho xã hội... mà vẫn không dứt điểm được đối
phương. Chiến tranh kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc. Điều
này đưa đến kết luận là Mỹ không thể thắng được trong cuộc chiến này.
Các chính trị gia trong Quốc hội Mỹ
gây sức ép lên chính phủ đòi xem xét lại cam kết chiến tranh, đòi hủy
bỏ ủy quyền cho chính phủ tiến hành chiến tranh không cần phê chuẩn,
thúc ép giải quyết chiến tranh bằng thương lượng.
Kéo dài từ năm 1968 cho tới tận khi chiến tranh Việt Nam kết
thúc vào năm 1975, chiến dịch Phụng Hoàng (phượng hoàng) ban đầu được
thực hiện bởi cơ quan tình báo CIA của Mỹ và cơ quan tình báo CIO của
ngụy quyền Sài Gòn. Nguồn ảnh: Fatt.
Đây là
một chiến dịch tình báo, ám sát, bắt cóc, tra tấn và thủ tiêu nhằm vào
các cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Mặc dù vậy, Mỹ và tay
sai lại tra tấn và giết hại dã man rất nhiều đồng bào ta cho dù họ chỉ
là dân thường. Nguồn ảnh: Alexia.
Ban
đầu, chiến dịch này do lực lượng tình báo Mỹ và tình báo Sài Gòn thực
hiện. Tuy nhiên, vì sự leo thang của cuộc Chiến tranh Việt Nam mà quy mô
của chiến dịch Phụng Hoàng đã phải mở rộng ra và được thực hiện bằng
mọi lực lượng quân sự mà Mỹ có trong tay. Nguồn ảnh: Pinterest.
Điều
này đồng nghĩa với việc, từ một chiến dịch tình báo, chiến dịch Phụng
Hoàng đã biến tướng trở thành một chiến dịch quân sự. Với sự tham gia
của quân đội Mỹ, và quân đội Sài Gòn, hai lực lượng này đã tiến hành
nhiều cuộc càn quét, bắt bớ rất vô lý nhắm vào người dân thường vô tội.
Nguồn ảnh: Evolution.
Do
Quân đội Mỹ có rất ít cơ sở tình báo trong dân và lực lượng Quân đội Sài
Gòn cũng vậy nên thông tin tình báo của họ phần lớn là thiếu chính xác
và thậm chí là mâu thuẫn nhau. Cách hành xử của các lực lượng này cũng
hoàn toàn khác, thay vì chỉ bắt bớ, tra khảo và ám sát thủ tiêu, họ sẵn
sàng đốt phá cả một ngôi làng, bắt giữ và tra khảo từ trẻ em tới người
già chỉ vì "nghi" có cán bộ ta nằm vùng. Nguồn ảnh: Daily.
Chỉ
tính riêng trong năm 1970, năm cao điểm nhất của chiến dịch Phụng Hoàng
đã có tới 8119 đồng bào ta bị Mỹ và đồng minh giết hại trong các vụ bắt
bớ, ám sát liên quan tới chiến dịch này. Nguồn ảnh: Getty.
Được
coi là một phần trong chiến lược "Việt Nam hóa Chiến tranh", chiến dịch
Phụng Hoàng đã đưa dân tộc Việt Nam vào cảnh "nồi da xáo thịt" khi sử
dụng chính Quân đội Sài Gòn để bắt bớ, giết hại người dân và phá hoại
làng mạc. Nguồn ảnh: Xth.
Cũng
trong thời gian diễn ra chiến dịch Phụng Hoàng, CIA, Quân đội Mỹ và cả
Quân đội Sài Gòn cũng như lực lượng tình báo của chúng luôn bị dư luận
cả nước cũng như quốc tế chỉ trích về việc sử dụng những hình thức tra
tấn dã man, mang tính chất ép cung khi tra khảo những người mà chúng
tình nghi. Nguồn ảnh: Fast.
Theo
lời K. Barton Osborn, một sĩ quan tình báo của Quân đội Mỹ tham gia vào
chiến dịch, các hình thức tra tấn thường được sử dụng khi ép cung bao
gồm đóng đinh vào tai, trích điện vào chỗ kín,... và nhiều hình thức dã
man khác. Trong suốt 18 tháng viên sĩ quan này tham gia chiến dịch, anh
ta không thấy bất cứ ai sống sót sau quá trình bị hỏi cung. Nguồn ảnh:
Southern.
Thậm
chí, từng có thông tin phía CIA trao thưởng tới 11.000 USD cho mỗi cán
bộ nằm vùng bị bắt sống, một nửa số đó cho mỗi cán bộ nằm vùng của ta bị
giết hại. Chính vì việc treo giải "săn đầu người" này mà rất nhiều
người dân thường vô tội đã phải chết một cách oan uổng chỉ để lực lượng
thi hành chiến dịch "vơ tiền đầy túi". Nguồn ảnh: Theglobe.
Một phụ nữ 21 tuổi đang hấp hối sau khi bị lính Thủy quân Lục chiến Nam
Triều (Hàn Quốc) cắt vú tại làng Phong Nhi, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam
ngày 12 tháng 2 năm 1968
Ngày
8-2-1968, R. Kenedy (em trai cố tổng thốngKennedy) đã đọc một bài diễn
văn. Có đoạn: “Đối phương của chúng ta đang tự do đánh phá trên khắp
miền Nam Việt Nam và cuối cùng họ đã phá vỡ chiếc mặt nạ ảo tưởng mà
chúng ta đã dùng để che dấu tình hình thực sự của chúng ta, thâm chí đối
với chính chúng ta”. Quy mô của cuộc tiến công làm dư luận Hoa Kỳ mất kiên nhẫn và sự tin
tưởng với giới quân sự, họ đòi chấm dứt chiến tranh và rút quân về nước.
Một mặt họ thiếu niềm tin vào hiệu quả của quân đội, mặt khác, các hành
động bạo liệt mất nhân tính được trình chiếu trên TV đánh vào lương tâm
công chúng. Họ đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh ngay lập tức. Họ coi
chiến tranh là bẩn thỉu.
Nói
về thất bại của Mỹ, rõ ràng hơn là trích dẫn lời nói của chính Giônsơn
trong hồi ký của ông ta: “Kết thúc năm 1968, sau nhiều năm tiến hành
cuộc chiến tranh gay cấn nhất ở Việt Nam, tôi thực sự không tin mình có
thể sống sót nếu ở lại Nhà Trắng một nhiệm kỳ nữa, vì tình hình đen tối
của chúng ta (tức Mỹ) ở Việt Nam đã làm tôi phải căng thẳng suốt 1.886
đêm, ít khi được ngủ trước 2 giờ sáng”
Cơlipphớt
được Giônsơn bổ nhiệm làm Bộ trưởng quốc phòng thay Mắc Namara từ ngày
1-3-1968, kể: “Tôi sửng sốt khi nhận ra rằng chúng ta không có kế hoạch
quân sự nào để thắng cuộc chiến. Chúng ta trông đợi cuối cùng địch sẽ
kiệt quệ trầm trọng vì bị tiêu hao đến độ rồi họ sẽ đầu hàng. Và đấy là
chính sách của chúng ta trong cuộc chiến tranh”, “thế rồi tôi trình bày
quan điểm cá nhân của tôi cho tổng thống Giônsơn rằng tôi thấy rõ ràng
là một đường lối mà Hoa Kỳ nên áp dụng là rút khỏi Việt Nam. Hoa Kỳ
chính là kẻ thất bại thực sự”. Ngay các nhà lãnh đạo chính phủ Hoa Kỳ cũng chia rẽ trong quan điểm sẽ làm gì tiếp theo.
Các cố vấn hàng đầu của tổng thống và ngay Tổng thống Johnson thoái chí
đi đến kết luận không thể tăng quân thêm nữa theo yêu cầu của giới quân
sự mà phải xuống thang, đàm phán. Johnson cách chức Bộ trưởng quốc
phòng McNamara và tướng Westmoreland, tổng chỉ huy quân Mỹ tại Việt Nam,
bản thân ông cũng tuyên bố sẽ không ra tranh cử nhiệm kỳ tiếp theo.
Nước Mỹ đã "khủng hoảng niềm tin" sau Chiến dịch Mậu Thân 1968
Kết quả là ngày 31 tháng 3 năm 1968, lần đầu tiên kể từ đầu cuộc chiến,
chính phủ Hoa Kỳ buộc phải xuống thang chiến tranh. Tổng thống Lyndon B.
Johnson
tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, sẵn sàng đàm phán để chấm
dứt chiến tranh, không tăng thêm quân theo yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến
trường, và từ chối tranh cử nhiệm kỳ tới. Tân tổng thống Richard M.
Nixon, thắng cử vì hứa chấm dứt chiến tranh, tuyên bố sẽ dần rút quân về
nước và đàm phán với Quân Giải phóng. Chiến lược Chiến tranh cục bộ
được kỳ vọng sẽ đem lại chiến thắng cho Mỹ giờ bị loại bỏ. Vấn đề của
Mỹ bây giờ không còn là chiến thắng cuộc chiến nữa mà là rút ra như thế
nào.
Sự
thật lịch sử do tác động to lớn của cuộc tổng tiến công và nổi dậy tạo
ra được Trần Văn Trà tóm lược cũng trong “Tết Mậu Thân - chiến công hiển
hách” như sau:
“Tiến
công và nổi dậy tại chiến trường kết hợp chặt chẽ với đấu tranh ngoại
giao và tất nhiên, kết quả của đấu tranh ngoại giao tùy thuộc hiệu quả
chiến đấu tại chiến trường. Sau đợt I, gần 2 tháng sấm sét ở các đô thị
miền Nam, tổng thống Mỹ cách chức Tư lệnh quân Mỹ Oétmolen và thay thế
bằng Abram, phụ tá của Oétmolen; Chiến lược “Tìm và diệt” bị thay thế
bằng chiến lược “Quét và giữ” phù hợp với chủ trương “Việt Nam hóa” và
xuống thang chiến tranh. Ngày 31-3-1968, Giônsơn ra lệnh cho không quân
hạn chế oanh tạc miền Bắc Việt Nam, tuyên bố: “Tôi sẽ không tìm cách và
sẽ không chấp nhận việc Đảng đề cử tôi” (ra tranh cử Tổng Thống) và ngỏ ý
với ta thương lượng hòa bình. Ngày 3-4, ta trả lời chấp nhận và hai bên
bắt đầu trao đổi chọn địa điểm các cuộc họp cũng như thành phần các bên
hòa đàm. Mỗi ngày trong chiến tranh không phải đi qua nhanh chóng và
thường là cả trăm, cả ngàn người phải ngã xuống. Thế mà phải sau đợt II
rồi đợt III, ngày 1-11-1968, Mỹ mới phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn các
cuộc ném bom bắn phá miền Bắc Việt Nam và ngày 13-11, Bộ Ngoại giao Mỹ
ra tuyên bố một cách lắt léo: “Hoa Kỳ tán thành họp 2 phía: Hoa Kỳ và
Việt Nam Cộng Hòa (Ngụy quyền) một bên, Bắc Việt nam với bất kỳ ai một
bên”. Thật là đến lúc buộc phải ngậm bồ hòn mà nhận đối thủ còn cố tránh
tiếng, nói “bất kỳ ai”, nếu ai đó không phải là người đã tung ra những
đòn hiểm hóc nhớ đời. Ngày 10-12-1968, phái đoàn Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam đã đến Pari để dự cuộc đàm phán hòa bình 4 bên”.
Xác máy bay rơi trên cánh đồng Định Công-Hoàng Mai - ảnh: Chu Chí Thành
1 trung đội quân chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam năm 1968
Liên
quan đến chiến dịch “Sấm rền” của Mỹ có biết bao nhiêu câu chuyện về
tinh thần chiến đấu hy sinh, kiên cường bất khuất đến phi thường của
quân dân miền Bắc Việt Nam. Tiêu biểu cho cái tinh thần ấy là tiếng hô
dõng dạc của Nguyễn Viết Xuân trên trận địa pháo cao xạ trong chiến đấu
dưới sự đánh phá của máy bay Mỹ: “Nhắm thẳng quân thù mà bắn!”; là những
khẩu hiệu của một thời khói lửa: “Tiếng hát át tiếng bom”, “Đánh địch
mà đi, mở đường mà tiến”… Trong vô số những câu chuyện đó, có một câu
chuyện hết sức kỳ lạ: câu chuyện đứng vững một cách bền bỉ của cầu Hàm
Rồng dưới mưa bom bão đạn của không lực Mỹ và đã trở thành biểu tượng
của sự gan góc.
Ngay
từ đầu, cầu Hàm Rồng (ở địa phận tỉnh Thanh Hóa) đã là mục tiêu quan
trọng phải oanh kích của máy bay Mỹ vì đường giao thông huyết mạch 1A và
đường xe lửa dọc theo biển Đông, theo hướng Bắc - Nam đều qua cây cầu
thép này. Năm 1965 có 277 lần chiếc cất cánh đi đánh phá cầu Hàm Rồng,
năm 1966 có 135 lần chiếc, năm 1967 là 204 lần chiếc. Hơn 1.250 tấn bom
đã được thả xuống đó với 8 chiếc máy bay đã bị bắn rơi, nhưng cầu Hàm
Rồng tuy có bị hư hại song vẫn cứ đứng trơ trơ ra đó và vẫn sử dụng
được. Người ta có cảm giác rằng hình như đó là một mục tiêu không thể
tiêu diệt nổi.
Thiếu
tướng David C. Richardson, tư lệnh lực lượng đặc nhiệm 77 nói: “Đối
phương từ lâu đã xây dựng nhiều đường vòng quanh cầu Hàm Rồng và chiếc
cầu này đã giảm hẳn tầm quan trọng đối với nỗ lực cấm vận của Mỹ. Vì lý
do đó, tôi liệt chiếc cầu này vào loại mục tiêu không được đánh và chỉ
thỉnh thoảng mới thông qua những trận oanh tạc nó. Đối với các phi công
của lực lượng đặc nhiệm 77 thì tầm quan trọng tâm lý của cây cầu đó đã
vượt xa tầm quan trọng chiến thuật của nó. Mọi liên đội không quân Tây -
Thái Bình Dương đều muốn được cái vinh dự đánh sập cầu Hàm Rồng và nó
gây cho các phi công sự kích thích thực sự…!”.
Tháng
11-1966, đô đốc Richardson đồng ý cho thử lần cuối cùng đối với cầu Hàm
Rồng, trước khi về nước. Người ta đã hy vọng chứa chan vào những báo
cáo đầu tiên sau trận đánh về các cột khói, bụi che lấp mục tiêu đã mở
ra khả năng là chiếc cầu tượng trưng của mạng lưới giao thông ở Bắc -
Việt Nam cuối cùng rồi cũng bị hủy diệt. Đại tá Bill Houser đã vội vã
trình cho Richardson một bản báo cáo lạc quan của phi công và kêu lên:
“Chúng tôi đánh trúng cầu rồi!”. Nhưng thật không may cho ông này, những
bức ảnh chụp sau đó cho thấy cầu Hàm Rồng vẫn đứng vững.
Cầu Hàm Rồng cũ
Trong suốt thời kỳ chiến đấu chống lại âm mưu phá cầu Hàm Rồng, quân và dân Thanh Hóa đã tiêu diệt 117 máy bay của địch
Cuộc chiến tranh kéo dài đã phá hoại cầu Hàm Rồng không biết bao nhiêu lần.
Đến năm 1955, Đảng và Chính phủ đã có chủ trương khôi phục lại đường xe lửa,
đường ô tô, đường sông… giữ vai trò quan trọng bậc nhất.
Cầu Hàm Rồng đã hoàn thành
Ngày 14/3/1964, UBCH tỉnh Thanh Hóa quyết định thành lập hệ thống tổ chức,
chỉ đạo phòng không nhân dân các cấp để chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ.
Trận địa của dân quân Nam Ngạn – Yên Vực bám sát mục tiêu, quyết trừng trị
- bắn rơi máy bay Mỹ ngay từ loạt đạn đầu.
Nữ anh hùng Ngô Thị Tuyển một mình vác trên vai hai hòm đạn pháo cao xạ nặng
98kg đưa xuống thuyền cho đồng đội chèo ra tàu tiếp ứng cho các pháo thủ bắn trả
máy bay Mỹ.
Tên giặc lái Chu-si đang qua cầu Hàm Rồng để được chứng kiến sự thất bại và
tội ác của chúng đối với nhân dân ta.
Khẩu đội pháo cao xạ chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng trong các ngày 3,4/4/1965
Thanh niên xung phong san lấp hố bom Mỹ bên cầu Hàm Rồng.
Trận địa pháo cao xạ bảo vệ Hàm Rồng
Những
Cơ động bắn máy bay địch trên vùng biển cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa
Bộ đội và nhân dân kéo pháo vào trận địa Hàm Rồng
Tháng
1-1968, Mỹ tiến hành 5 cuộc đánh phá nữa vào chiếc cầu này. Ngày 28-1,
những quả bom 900 kg đã rơi trúng cầu, mặt cầu bị 2 lỗ, trụ cầu ở đầu
phía đông bị hư hại và đường lên cầu ở phía tây bị tắc. Nhưng cầu Hàm
Rồng vẫn không sập và đến ngày 8-2-1968 nó lại được đưa vào sử dụng.
Theo
W. Cagle thì đại tá W. B. Muncie có đưa ra một cách giải thích kỳ bí về
sự bất diệt của cầu Hàm Rồng như thế này: Quả đất này gồm hai bán cầu
khổng lồ hình elíp gắn với nhau bằng bản lề lò xo đâu đó ở dưới đáy vùng
Nam - Đại Tây Dương, còn phía bên kia thì gài chắc bằng cầu Hàm Rồng;
nếu như cầu này bị phá hủy thì thế giới sẽ bị bật mở, người và vật sẽ bị
quăng cả vào đó và thế cân bằng của Vũ Trụ bị đảo lộn. Đó chính là
nguyên nhân làm cho cầu Hàm Rồng trở thành một mục tiêu ở Bắc - Việt Nam
mà không ai có thể tiêu diệt được…
Một số bức ảnh tại triển lãm “Phóng viên chiến trường” (kéo dài từ ngày 14/4- 10/5):
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một...
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm...
Nỗi Buồn Hoa Phượng - Ý Linh (Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] NGẬM SẦU Sầu ta chẳng biết sầu gì Cứ như cơn sốt li bì mê man Lê la đã khắp trần gian Mà nào gặp thuốc uống tan nỗi sầu... Sầu ta chẳng biết tại sao Càng cười ha hả càng đau thấu tình Đã từng trải hết phiêu linh Tưởng là bệnh khỏi, hóa trên đỉnh sầu. Ai ơi cứu được ta nào Ta xin hậu tạ một chầu sầu riêng... Trần Hanh Thu Hạ Thương - Hồ Phương Liên (Á Quân Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] 【Top】Những Hình Ảnh Buồn Về Tình Yêu Hay Và Ý Nghĩa Nhất By Hoàng Trung Văn Nghĩa - 26 Tháng Mười, 2019 0 1595 Share ...
Nhận xét
Đăng nhận xét