TT&HĐ III - 32/*
Quân Úc trong chiến tranh Việt Nam. Trận Tân Long
CHƯƠNG XI (XXXII): ANH HÙNG
Heroism
on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that
goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
Heroism
on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that
goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều
vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
-Albert Einstein
-Albert Einstein
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy
cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu
Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng
để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
“Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn!”
Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
Phạm Khắc Hòe
Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo)
Bước
ngoặt bi kịch đối với cuộc đời binh nghiệp của đại tướng Oétmolen “bắt
đầu từ một thung lũng nhỏ mang tên Khe Sanh” và “kết thúc bằng cú Tết
Mậu Thân năm 1968”.
Khe
Sanh nằm trên một cao nguyên, mỗi bề gần 10km, thuộc miền núi phía tây
tỉnh Quảng Trị, gần chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm Làng Vây và
Tà Cơn. Các tướng tá Mỹ trực tiếp điều khiển chiến tranh xâm lược Việt
Nam đều nhất trí cho rằng Khe Sanh là vị trí chiến lược hết sức quan
trọng, vừa có thể ngăn chặn sự xâm nhập từ Bắc vào Nam qua giới tuyến
quân sự tạm thời (vĩ tuyến 17), vừa có thể là tấm bình phong che chở an
toàn cho khu vực phía Đông đường 9. Năm 1964, sang Nam - Việt Nam đảm
nhận quyền chỉ huy lực lượng Mỹ, Oétmolen liền đi thị sát Khe Sanh và
lập tực cho đó là vị trí lý tưởng để ngăn chặn Việt Cộng xâm nhập từ Bắc
vào hoặc từ Lào sang theo đường 9; là “cái mỏ neo” ở phía Tây của hệ
thống phòng thủ phía Nam khu phi quân sự và là bàn đạp cho các cuộc hành
quân trên bộ để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Bỏ Khe Sanh tức là bỏ
mất tất cả những lợi thế đó, cũng là chấp nhận cho Việt cộng đưa chiến
tranh vào vùng dân cư ven biển tỉnh Quảng Trị và tạo ra một hành lang
dọc bờ biển cho Việt Cộng tiến xuống phía Nam. Bởi tầm quan trọng như
thế nên Khe Sanh được Mỹ chú tâm xây dựng thành một khu vực phòng thủ
cực mạnh với lực lượng đồn trú tới 6.000 quân do đại tá Đêvít Laođơ chỉ
huy, có đầy đủ xe, pháo và ngoài ra còn được 16 khẩu pháo 175 mm (có hỗn
danh là “Vua chiến trường”) của lục quân Mỹ đặt ở căn cứ 241 cùng
20.000 quân trên tuyến phòng thủ đường 9, đặc biệt là được một lực lượng
không quân hiện đại to lớn yểm trợ, chi viện.
Gần đây mạng Tencent của Trung Quốc đã đăng một loạt ảnh màu về chiến dịch Khe Sanh. Mạng này viết: Trận Khe Sanh
là một trận chiến lớn trong chiến tranh Việt Nam, địa điểm tại tỉnh
Quảng Trị từ tháng 1 năm 1928 đến tháng 4/1968. Trong trận chiến này, 3
sư đoàn của quân đội nhân dân Việt Nam đã bao vây và pháo kích lực lượng
thủy quân lục chiến của Hải quân Mỹ.
h
Chiến dịch Khe Sanh thường được mô tả như một trận đánh với lực lượng thủy quân lục chiến
Mỹ thuần khiết nhưng thực chất nó không phải như vậy. Lực lượng Mỹ trong
chiến dịch này bao gồm cả sư đoàn 1 kỵ binh được phái đến Khe Sanh để
giảm áp lực cho thủy quân lục chiến.
Bên cạnh đó còn có cả các đơn vị biệt kích Mỹ và binh sỹ Sài Gòn tham
gia. Thêm nữa còn có cả sự yểm hộ từ không quân Mỹ, không quân hải quân
Mỹ và không quân chính quyền Sài Gòn trong các phi vụ oanh tạc và trinh
sát và tải thương...
Sau khi giải vây Khe Sanh, quân Mỹ đã điều chỉnh lại bố phòng ở đây. Chỉ
huy lực lượng Mỹ ở đây là Thiếu tướng William. B. Rosen và Thiếu tướng
Thủy quân lục chiến Robert. E. Cashman đã đề xuất kế hoạch rút quân khỏi
Khe Sanh. Ngày 5/7/1968, quân Mỹ chính thức đóng cửa căn cứ này.
Lính Mỹ trên trận địa Khe Sanh. Theo Wikipedia, ước tính trong toàn
chiến dịch, phía Mỹ đã thương vong trên 12000 người còn phía Việt Nam
tổn thất khoảng 9000 người.
Binh lính bị thương đang nằm trên cáng chờ trực thăng tải thương.
Cũng theo Wikipedia, việc rút khỏi Khe Sanh đã được chính quyền Mỹ giữ bí mật nhưng cuối cùng nó vẫn bị lộ ra dư luận.
Hình ảnh binh lính bị thương tại trận địa Khe Sanh.
Tháng
12-1967, Oétmolen nhận được tin tình báo phát hiện 2 sư đoàn bộ binh và
2 trung đoàn pháo cùng xe tăng quân Bắc - Việt Nam tập trung quanh Khe
Sanh. Ông ta nhận định sắp có cuộc tiến công của Việt Cộng nhằm chiếm
khu vực này và các điểm tựa khác dọc đường 9 từ Đông Hà sang Lào. Bị ám
ảnh, Oétmolen còn cho rằng Việt Cộng định biến Khe Sanh thành một “Điện
Biên Phủ” thứ hai, do đó đã yêu cầu nhà sử học công tác trong Bộ tư lệnh
là đại tá Rimơ Ácgô nghiên cứu Điện Biên Phủ và các trận bao vây trên
thế giới để so sánh với Khe Sanh nhằm kiện toàn công tác phòng ngự cho
nó. Ácgô cho biết, qua nghiên cứu thì sở dĩ quân phòng ngự thất bại là
do mất hết mọi thế chủ động. Theo Oétmolen thì quân Mỹ ở Khe Sanh có lợi
thế hơn nhiều so với quân Pháp ở Điện Biên Phủ bởi được chi viện dồi
dào bằng máy bay và pháo binh từ phía ngoài và Mỹ có đầy đủ khả năng chở
quân ứng cứu kịp thời bằng đường không để giành thế chủ động đánh bại
đối phương. Trước khi trận đánh xảy ra, Oétmolen còn cho chuyển toàn bộ
các máy dò điện tử định dùng kéo dài hàng rào Mắc Namara sang Lào, về bố
trí xung quanh Khe Sanh.
Sau
khi đã dồn những nỗ lực quan trọng cho Khe Sanh với tính toán, cân nhắc
kỹ lưỡng, Oétmolen “tin tưởng Khe Sanh có thể đứng vững trong lịch sử
như một tấm gương cổ điển về thách thức đánh bại một lực lượng bao vây
đông hơn nhiều lần bằng việc sử dụng hỏa lực có phối hợp”.
Tại
Oasinhtơn, bị sự suy diễn theo chiều hướng coi Khe Sanh như một Điện
Biên Phủ của các tướng lĩnh Mỹ chi phối, Giônsơn cũng quan tâm đặc biệt
đến Khe Sanh, theo dõi sát sao diễn biến tình hình ở đó trên một sa bàn
trận địa đặt trong tầng hầm Nhà Trắng và đòi các tướng lĩnh phải có lời
cam kết bằng máu không được để mất khu vực phòng thủ đó.
Trong
một cuộc họp Ban tham mưu của mình, Oétmolen tuyên bố: “Chúng ta sẽ
không bị đánh bại ở Khe Sanh. Tôi sẽ không tha thứ cho ai nói hoặc suy
nghĩ điều ngược lại”.
Giữa
lúc liên quân Lào - Việt đang truy quét quân địch ở Nậm Bạc thì ngày
20-1-1968, quân Giải phóng bất ngờ tiến công tập đoàn cứ điểm Khe Sanh.
Sau khi làm chủ quận lỵ Hướng Hóa, đêm 31-1, quân Giải phóng tiêu diệt
cứ điểm Huội San và ngày 7-2, diệt cụm cứ điểm Làng Vây, làm cho Tà Cơn
bị hở sườn phía tây. Quân Giải phóng chọc thủng luôn tuyến phòng thủ tây
đường 9 của địch, làm chủ đoạn đường đó từ biên giới Việt - Lào đến Cà
Tu, mở rộng bàn đạp vây hãm Tà Cơn. Lính thủy đánh bộ Mỹ trong Tà Cơn
phản kích ra liên tục, nhưng đều bị đánh bại, đành phải cố thủ trong
công sự, chờ viện binh.
Từ
khoảng giữa tháng 2 trở đi, máy bay chiến thuật Mỹ trung bình mỗi ngày
xuất kích 300 lần chiếc, ném 35.000 tấn bom, máy bay chiến lược B52
trong gần 2 tuần thả 75.000 tấn bom xuống quanh Khe Sanh. Trong những
ngày Khe Sanh bị bao vây, trung bình mỗi ngày, đại bác 175 mm của lục
quân Mỹ bắn đến 1.500 quả đạn. Lượng bom đạn dội xuống dày đặc đó làm
cho quân tướng Mỹ - Ngụy ở Khe Sanh cũng phải kinh hoàng. Oétmolen nhìn
nhận đó là “một cuộc phô trương hỏa lực khủng khiếp… một trong những
trận ném bom nặng nề nhất, tập trung nhất trong lịch sử chiến tranh”.
Thế nhưng quân Giải phóng vẫn anh dũng siết chặt vòng vây Tà Cơn từ hai
hướng Tây và Nam. Cuối tháng 2-1968, các đường hào vây lấn của quân Giải
phóng chỉ còn cách tiền duyên địch khoảng 50 m…
Lính Mỹ bị thương nằm la liệt giữa khung cảnh nhà cửa đổ nát, khói lửa ngập trời ở Huế
Thủy quân lục chiến Mỹ ẩn nấp sau xe tăng trong chiến sự Tết Mậu Thân ở Huế năm 1968. Hình ảnh nằm trong loạt ảnh về cuộc chiến tranh Việt Nam do Kyoichi Sawada - phóng viên chiến trường nổi tiếng của hãng thông tấn UPI (United Press International) - thực hiện.
Lính Mỹ di chuyển giữa những đống đổ nát trong cuộc chiến ở Huế 1968.
Một lính bắn tỉa Mỹ nấp sau bức tường đổ nát ở Huế.
Lính Sài Gòn tham gia cuộc hành quân Pegasus mở lại đường 9 đến căn cứ Khe Sanh, 1968.
Lính Sài Gòn trên đường Phú Thọ trong chiến sự Mậu Thân 1968.
Lính Mỹ di chuyển giữa những đống đổ nát trong cuộc chiến ở Huế 1968.
Mãi
đến tháng 4-1968, quân Mỹ - Ngụy gồm sư đoàn kỵ binh không vận số 1, ba
tiểu đoàn dù, một tiểu đoàn biệt động ngụy mới tổ chức được hai cuộc
hành quân “Ngựa bay” và “Lam Sơn 207” để giải tỏa Khe Sanh. Trong những
ngày này, Mỹ dùng máy bay chiến thuật ném bom chỉ cách Trung tâm Tà Cơn
có 400 m, còn máy bay chiến lược B52 thì phong tỏa vòng ngoài từ 2 đến 3
km. Những cuộc giao tranh ác liệt đã diễn ra ở các khu vực: điểm cao
471, 400, 542, 479, Động Ché Riên, làng Khoai, làng Vây, xung quanh Tà
Cơn. Bị đánh thiệt hại nặng nhưng Mỹ - Ngụy cũng chiếm được một số vị
trí có lợi. Vòng vây Tà Cơn của quân Giải Phóng bị nới lỏng, địch thay
được quân (lúc này hình thái phòng ngự của Mỹ ở Khe Sanh vẫn lấy Tà Cơn
làm trung tâm và nơi đây được tăng cường lực lượng, gồm 2 trung đoàn
lính thủy đánh bộ, 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận). Tuy nhiên toàn bộ
hướng Tây - Tà Cơn vẫn bị trống, Mỹ không chiếm được vị trí khống chế
nào.
Sau
khi mặt trận Khe Sanh được tăng cường sư đoàn 308 và trung đoàn 246,
quân Giải phóng mở hàng loạt trận tiến công chiếm lại làng Cát, Động Ché
Riên, cắt đường 9 đoạn từ Rào Quán đến Cu Bốc, đẩy địch ở Tà Cơn vào
thế cô lập.
Ngày
1-6-1968, sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ mở cuộc hành quân “Xcốtlen”
đánh ra khu vực Tà Ri, Tà Quan, Húc Cốc Giang, Pa Trang nhằm thu hút lực
lượng quân Giải phóng đang vây hãm Tà Cơn ra đối phó, đồng thời đóng
thêm các chốt bảo vệ phía Đông và Nam đường 9. Cuộc hành quân này, ngay
từ đầu đã bị đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn tại Húc Cốc Giang. Ở phía
Tây - Tà Cơn, trung đoàn 246 quân Giải phóng tiếp tục kiềm chế, đánh
tiêu hao địch ở các điểm cao 832, 845, 689. Lực lượng vây hãm Tà Cơn
ngày một siết chặt vòng vây. Một loạt các vị trí án ngữ phía Tây - Tà
Cơn và dọc đường 9 bị quân Giải phóng tiến công tiêu diệt. Đường bộ bị
cắt đứt, đường không bị khống chế mạnh mẽ, Tà Cơn có nguy cơ bị tiêu
diệt. Trước tình hình đó, quân Mỹ phải dừng cuộc hành quân “Xcốtlen”, co
lực lượng về giữ đường 9, khu Nam - Tà Cơn và điều 2 tiểu đoàn lính
thủy đánh bộ về giữ Đông Hà, Cửa Việt đang bị quân Giải phóng uy hiếp.
Quân đội ta pháo kích vào hầm chứa đạn tại căn cứ Mỹ, Khe Sanh năm 1968. Ảnh: Pháp luật TP.HCM.
Quân đội ta pháo kích vào hầm chứa đạn tại căn cứ Mỹ, Khe Sanh năm 1968. Ảnh: Pháp luật TP.HCM.
Trước
sức tiến công mạnh mẽ của quân Giải phóng trên toàn tuyến đường 9, đặc
biệt là ở Tà Cơn, ngày 26-6-1968, Oétmolen tuyên bố rút khỏi Khe Sanh.
Một cuộc tháo chạy hỗn loạn khỏi Tà Cơn của quân Mỹ - Ngụy đã diễn ra
dưới làn đạn truy kích mãnh liệt của đối phương. Mãi đến ngày 15-7-1968,
quân Mỹ - Ngụy mới rút hết được ra khỏi Khe Sanh.
Sau
170 ngày đêm tiến công, vây hãm, bám trụ kiên cường, quân Giải phóng đã
cắm lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam - Việt Nam lên trung tâm
căn cứ Khe Sanh chứng tỏ ý chí, tinh thần quả cảm và nghệ thuật quân sự
Việt Nam đã thắng đế quốc Mỹ. Quân Giải phóng đã tiêu diệt 17.000 địch,
trong đó có 13.000 quân Mỹ, bắn rơi và phá hủy 400 máy bay các loại,
giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hóa, đập tan một mảng lớn và trọng yếu
của tuyến phòng thủ đường 9.
Cuộc
chiến đấu ở Khe Sanh là một thử thách phi thường đối với quân đội nhân
dân Việt Nam trước một đội quân chính qui, trang bị hiện đại bậc nhất,
có ưu thế áp đảo về sức mạnh hỏa lực của cường quốc số 1 thế giới là đế
quốc Mỹ, hơn nữa còn đánh cho đội quân hùng mạnh ấy phải chịu thua, rút
chạy hỗn loạn, làm cho “cả thế giới như vừa chứng kiến một câu chuyện
thần kỳ: Quân giải phóng miền Nam vây hãm một lực lượng lớn quân Mỹ ở
Khe Sanh ròng rã 170 ngày đêm và cuối cùng thắng chúng… Hai tiếng Khe
Sanh ngân cao và vang xa mãi như tiếng kèn chiến thắng hùng tráng của
thời kỳ mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước” (Xã luận báo “Nhân dân”
số ra ngày 27-6-1968).
Đối
với đế quốc Mỹ, đây là lần đầu tiên những đơn vị tinh nhuệ của quân đội
Mỹ bị bao vây lâu ngày nhất trong lịch sử chiến tranh và mặc dù đã dùng
hết sức mạnh áp đảo của phi pháo, xe tăng để giải vây vẫn không chống
cự nổi, cuối cùng để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn đã phải tháo chạy dưới
làn mưa đạn của đối phương, làm cho “uy tín nước Mỹ suy sụp, Mỹ rốt
cuộc bị mất thể diện” (Tin điện hàng ngày, 28-6-1968), bởi vì: “Sự rút
lui khỏi căn cứ Khe Sanh không phải đơn giản chỉ là bỏ rơi một điểm xung
yếu mà là sự bỏ rơi cả một ảo tưởng và một chính sách được tất cả cố
gắng chiến tranh của Mỹ dựng lên. Cái chiến lược “Tìm và diệt” cũng tan
ra tro như pháo đài xi măng cốt thép ở Khe Sanh…” (Tin điện hàng ngày,
30-6-1968).
Tại cứ điểm 31, binh sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đứng trên đỉnh hầm chỉ huy đã bị đánh sập của Lữ 3 Dù QLVNCH
Tại cứ điểm 31, binh sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đứng trên đỉnh hầm chỉ huy đã bị đánh sập của Lữ 3 Dù QLVNCH
Trong
cuốn hồi ký “Một quân nhân tường trình” (A soldier reports) của mình,
Oétmolen có viết: “Không có sự kiện nào trên chiến trường Việt Nam gây
ra nhiều điều dèm pha, phỉ báng của công chúng Mỹ đối với cách thức tiến
hành cuộc chiến tranh Việt Nam bằng quyết định đứng trụ lại và chiến
đấu ở Khe Sanh.”
***
---------------------------------------------------------------
Với mục đích buộc Hoa Kỳ ngồi vào bàn đàm phán và tạo ra cái nhìn mới về
cuộc chiến theo hướng có lợi cho mình, vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, trong khi chiến sự ở Khe Xanh đang diễn ra ác liệt, thì quân Giải phóng lại bất ngờ
tung ra trận Tổng tiến công và nổi dậy khắp miền Nam, đánh vào hầu hết
các thành phố, thị xã và các căn cứ quân sự của đối phương. Đây là một
sự kiện gây chấn động trên thế giới và có một vai trò bước ngoặt trong
cuộc chiến tranh này.
Nắm được điểm yếu của phía Mỹ là dư luận của cả nhân dân và chính giới tại Mỹ ngày càng trở nên thiếu kiên nhẫn và phong trào phản chiến ngày càng lên mạnh khi mà quân đội Mỹ tham chiến quá lâu tại nước ngoài mà không có được một tiến bộ rõ rệt khả dĩ cho phép rút quân về nước, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam hoạch định một chiến dịch nhằm gây tiếng vang lớn ("Một cú đập lớn để tung toé ra các khả năng chính trị") – Lê Duẩn, nhằm buộc Mỹ xuống thang chiến tranh đi vào đàm phán.
Trong thực tế, vào tháng 1 năm 1968, tình báo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã thu thập được các tài liệu nói về cuộc tổng tấn công sắp tới của Quân Giải phóng. Tuy vậy, họ cho rằng đây chỉ là tài liệu do đối phương tung ra để làm nghi binh và không đáng tin cậy. William Westmoreland, tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam, nhận định Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ tấn công vào mùa khô với các trọng điểm là Thừa Thiên, Quảng Trị và Khe Sanh. Hầu hết người Mỹ và đồng minh Việt Nam Cộng hòa của họ hoàn toàn bất ngờ và bị động trước cuộc tấn công này.
Mười ngày sau khi mở cuộc tấn công mạnh vào Khe Sanh (20-1-1968) nhằm thu hút số lớn lực lượng Mỹ - Ngụy vào vùng hẻo lánh nhưng quan trọng này, vào đêm 30 rạng sáng ngày 31-1-1967, quân dân miền Nam mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, đánh vào 5 trong 6 thành phố lớn, 37 thị xã trong 44 tỉnh lỵ ở miền Nam và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, căn cứ địch, giáng đòn sấm sét xuống đầu Mỹ - Ngụy. Để khuếch đại tiếng vang đến mức tối đa, các lãnh đạo Quân Giải phóng đã lựa chọn phương án mạo hiểm nhất là đánh thẳng vào hậu phương của đối phương. Ngay đêm đầu tiên, lực lượng biệt động Sài Gòn đã nhằm vào các mục tiêu khó tin nhất trong thành phố: Toà Đại sứ quán Mỹ, dinh Tổng thống, Đài phát thanh, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất... Sau đó quân tiếp ứng thẩm thấu vào thành phố tiếp quản các mục tiêu và tham gia chiến đấu. Cuộc tiến công đã tạo bất ngờ lớn và làm tổn thất đáng kể cho quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, cũng như gây chấn động dư luận thế giới. Cuộc tổng công kích này được tiến hành làm 3 đợt: đợt I diễn ra từ 30-1-1968 đến 28-3-1968, đợt II từ 5-5-1968 đến 18-6-1968, đợt III từ 17-8-1968 đến 30-8-1968.
Những người dân bị sát hại và lính Bắc Việt hy sinh trong cuộc chiến.
Những người Lính VNCH bảo vệ TP Sài Gòn năm Mậu Thân 1968
Biệt Động Quân đang giao tranh tại TP Sài Gòn.
Một chiếc xe tăng Mỹ tham gia càn quét quân vc
Ngày 10 tháng 5 năm 1968, tại Cholon, một toán lính đang gọi
không quân yểm trợ khi vấp phải hỏa lực dữ dội của quân vc
Xác một vc bị bắn trên mái nhà đang được
lính Biệt động quân đưa xuống đất
Lính VNCH giao tranh ác liệt trên từng mái nhà , building :
Và thời khắc cuối cùng của 1 VC
Một người lính VNCH tử thương trên đường
Hai người lính Mỹ trong cuộc chạm súng với toán vc trên đường phố SG
Lính BĐQ-VNCH và người lính Mỹ với đạn và súng đầy trên mình
Phòng tuyến vùng ven đô
Trận tuyến ven đô
Xác chết một vc
Một vc bị bắt khi đang trốn trên sân thượng 1 tòa nhà 2 tầng
Một vc với khuôn mặt trẻ em
Bác sĩ đang cấp cứu tại chổ cho 1 số binh sĩ bị thương
Hai vc bị bắt, người ở trần với bộ mặt còn rất trẻ
Những người Lính VNCH đấu súng trong từng con phố, ngõ nhỏ chật hẹp
Và toán Lính Biệt động đang giúp đưa một người dân ra khỏi nhà để cấp cứu do trúng
mảnh đạn cối bên cạnh là đứa con đang hớt hải chạy theo người dính đầy máu .
Người Lính Mỹ trợ giúp Lính VNCH đọ súng với vc trên mái nhà, sân thượng
Một vc bị thương
Lính VNCH đang trấn giữ trên đường phố khu Chợ Lớn
Những người Lính VNCH giải quyết xong ổ đề kháng
của vc, tiếp theo là phần việc của người lính cứu hỏa
Những người Lính cứu hỏa dọn dẹp xác chết vc
Những thời khắc khó quên
Truy quét vc cố thủ trên một góc phố
Xe bọc thép M-113 , xe tăng của sư đoàn bộ binh số 25 Hoa kỳ tăng cường hỏa lực
và yểm trợ giúp quân đội VNCH đẩy lùi vc ở chợ Lớn và các vùng lân cận
là nơi xảy ra chiến sự ác liệt nhất trong trận chiến Mậu Thân 1968
Mậu Thân 1968 - cầu Nhị Thiên Đường nối Quận 8 với trung tâm Sài Gòn
Trên đường từ quận 8 vô trung tâm Sài Gòn
Gọi là cầu Nhị Thiên Đường là do lúc đó có bảng quảng cáo dầu Nhị Thiên Đường ở ngay đầu cầu. Sau đợt Tổng tấn công năm Mậu Thân, nhịp sống sinh hoạt của Sài Gòn đã nhanh chóng trở lại bình thường, nhưng Quân đội VNCH vẫn phải tăng cường, thiết giáp luôn túc trực ở những nơi trọng yếu..
Những người Lính VNCH đang bảo vệ xóm làng, quê hương miền Nam Việt Nam vào những ngày Tết Nguyên Đán 1968
Xác của đặc công vc sau cuộc tấn công bất thành vào sân bay Tân Sơn Nhứt
Người dân đổ ra xem hai xác chiến sĩ đặc công vc đã chết ngay dốc cầu Thị Nghè
Lính cứu hỏa tìm cách vào toà nhà đài phát thanh SG bị vc phá hoại đang bốc cháy , cạnh đó là tử thi chiến sĩ vc
Chiến sĩ VC đã bị bắt và đang bị Quân Cảnh áp tải đi, tháng 2 năm 1968
Hoang tàn sau đợt giao tranh dữ dội với quân VC
Người dân dừng xe lại nhìn ngôi nhà to trong khu phố giờ đã là đống đổ nát tại Chợ Lớn ngày 10 tháng năm 1968
không ảnh chụp từ trực thăng trong đợt 2 tấn công SG của vc.
Khu vực lân cận cầu Chữ Y Saigon: nơi có hàng ngàn ngôi nhà bị phá hủy .
Những người lính VNCH giúp đồng đội vừa bị thương trong đợt 2 tấn công của vc vào Sài Gòn .
Người Lính BĐQ VNCH sau một cuộc chạm súng dữ dội với vc gần Sân vận động và
anh đã bị thương một chiến hữu đồng minh bế tới xe cứu thương ngày 6 tháng 2 năm 1968.
Ngày 6 tháng 5 năm 1968, tại Tân Sơn Nhất
Ngày 14 tháng 2 năm 1968, tại Sài Gòn
Sài Gòn - Tổng tấn công Mậu Thân, đợt 2, khu vực cầu Chữ Y của vc
Cảnh chạy loạn trên cầu chữ Y Sài Gòn ngày 9 tháng 5 năm 1968,
Dân chúng lũ lượt qua Cầu chữ Y để thoát khỏi khu vực giao
tranh đợt 2 cũa vc từ phía Chợ Lớn, ngày 9 tháng 5 năm 1968
Cảnh chạy loạn ở Chợ Lớn, ngày 7 tháng 5 năm 1968,
Ngày 15 tháng 5 năm 1968, tại Chợ Lớn
Cả một vùng rộng lớn đổ nát ngổn ngang là những gì còn lại của khu nhà này là chùa Ấn Quang, nơi vc đặt bộ chỉ huy trong thời gian giao tranh tổng tấn công Mậu Thân, nằm phía trên cùng trong bức ảnh, và sau những trận giao tranh dữ dội, các tên lửa và lựu đạn, cùng với ngọn lửa, đã tàn phá khu vực này vào ngày 5 tháng 2 năm 1968,
Nắm được điểm yếu của phía Mỹ là dư luận của cả nhân dân và chính giới tại Mỹ ngày càng trở nên thiếu kiên nhẫn và phong trào phản chiến ngày càng lên mạnh khi mà quân đội Mỹ tham chiến quá lâu tại nước ngoài mà không có được một tiến bộ rõ rệt khả dĩ cho phép rút quân về nước, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam hoạch định một chiến dịch nhằm gây tiếng vang lớn ("Một cú đập lớn để tung toé ra các khả năng chính trị") – Lê Duẩn, nhằm buộc Mỹ xuống thang chiến tranh đi vào đàm phán.
Bị
Quân giải phóng bao vây tiêu diệt, lính thủy đánh bộ Mỹ tranh nhau lên
máy bay rút chạy khỏi Khe Sanh, Quảng Trị (tháng 7/1968) Ảnh: Tư liệu
TTXGP
Trong thực tế, vào tháng 1 năm 1968, tình báo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã thu thập được các tài liệu nói về cuộc tổng tấn công sắp tới của Quân Giải phóng. Tuy vậy, họ cho rằng đây chỉ là tài liệu do đối phương tung ra để làm nghi binh và không đáng tin cậy. William Westmoreland, tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam, nhận định Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ tấn công vào mùa khô với các trọng điểm là Thừa Thiên, Quảng Trị và Khe Sanh. Hầu hết người Mỹ và đồng minh Việt Nam Cộng hòa của họ hoàn toàn bất ngờ và bị động trước cuộc tấn công này.
Mười ngày sau khi mở cuộc tấn công mạnh vào Khe Sanh (20-1-1968) nhằm thu hút số lớn lực lượng Mỹ - Ngụy vào vùng hẻo lánh nhưng quan trọng này, vào đêm 30 rạng sáng ngày 31-1-1967, quân dân miền Nam mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, đánh vào 5 trong 6 thành phố lớn, 37 thị xã trong 44 tỉnh lỵ ở miền Nam và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, căn cứ địch, giáng đòn sấm sét xuống đầu Mỹ - Ngụy. Để khuếch đại tiếng vang đến mức tối đa, các lãnh đạo Quân Giải phóng đã lựa chọn phương án mạo hiểm nhất là đánh thẳng vào hậu phương của đối phương. Ngay đêm đầu tiên, lực lượng biệt động Sài Gòn đã nhằm vào các mục tiêu khó tin nhất trong thành phố: Toà Đại sứ quán Mỹ, dinh Tổng thống, Đài phát thanh, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất... Sau đó quân tiếp ứng thẩm thấu vào thành phố tiếp quản các mục tiêu và tham gia chiến đấu. Cuộc tiến công đã tạo bất ngờ lớn và làm tổn thất đáng kể cho quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, cũng như gây chấn động dư luận thế giới. Cuộc tổng công kích này được tiến hành làm 3 đợt: đợt I diễn ra từ 30-1-1968 đến 28-3-1968, đợt II từ 5-5-1968 đến 18-6-1968, đợt III từ 17-8-1968 đến 30-8-1968.
Những người dân bị sát hại và lính Bắc Việt hy sinh trong cuộc chiến.
Những người Lính VNCH bảo vệ TP Sài Gòn năm Mậu Thân 1968
Biệt Động Quân đang giao tranh tại TP Sài Gòn.
Một chiếc xe tăng Mỹ tham gia càn quét quân vc
Ngày 10 tháng 5 năm 1968, tại Cholon, một toán lính đang gọi
không quân yểm trợ khi vấp phải hỏa lực dữ dội của quân vc
Xác một vc bị bắn trên mái nhà đang được
lính Biệt động quân đưa xuống đất
Lính VNCH giao tranh ác liệt trên từng mái nhà , building :
Và thời khắc cuối cùng của 1 VC
Một người lính VNCH tử thương trên đường
Hai người lính Mỹ trong cuộc chạm súng với toán vc trên đường phố SG
Lính BĐQ-VNCH và người lính Mỹ với đạn và súng đầy trên mình
Phòng tuyến vùng ven đô
Trận tuyến ven đô
Xác chết một vc
Một vc bị bắt khi đang trốn trên sân thượng 1 tòa nhà 2 tầng
Một vc với khuôn mặt trẻ em
Bác sĩ đang cấp cứu tại chổ cho 1 số binh sĩ bị thương
Hai vc bị bắt, người ở trần với bộ mặt còn rất trẻ
Những người Lính VNCH đấu súng trong từng con phố, ngõ nhỏ chật hẹp
Và toán Lính Biệt động đang giúp đưa một người dân ra khỏi nhà để cấp cứu do trúng
mảnh đạn cối bên cạnh là đứa con đang hớt hải chạy theo người dính đầy máu .
Người Lính Mỹ trợ giúp Lính VNCH đọ súng với vc trên mái nhà, sân thượng
Một vc bị thương
Lính VNCH đang trấn giữ trên đường phố khu Chợ Lớn
Những người Lính VNCH giải quyết xong ổ đề kháng
của vc, tiếp theo là phần việc của người lính cứu hỏa
Những người Lính cứu hỏa dọn dẹp xác chết vc
Những thời khắc khó quên
Truy quét vc cố thủ trên một góc phố
Xe bọc thép M-113 , xe tăng của sư đoàn bộ binh số 25 Hoa kỳ tăng cường hỏa lực
và yểm trợ giúp quân đội VNCH đẩy lùi vc ở chợ Lớn và các vùng lân cận
là nơi xảy ra chiến sự ác liệt nhất trong trận chiến Mậu Thân 1968
Mậu Thân 1968 - cầu Nhị Thiên Đường nối Quận 8 với trung tâm Sài Gòn
Trên đường từ quận 8 vô trung tâm Sài Gòn
Gọi là cầu Nhị Thiên Đường là do lúc đó có bảng quảng cáo dầu Nhị Thiên Đường ở ngay đầu cầu. Sau đợt Tổng tấn công năm Mậu Thân, nhịp sống sinh hoạt của Sài Gòn đã nhanh chóng trở lại bình thường, nhưng Quân đội VNCH vẫn phải tăng cường, thiết giáp luôn túc trực ở những nơi trọng yếu..
Những người Lính VNCH đang bảo vệ xóm làng, quê hương miền Nam Việt Nam vào những ngày Tết Nguyên Đán 1968
Xác của đặc công vc sau cuộc tấn công bất thành vào sân bay Tân Sơn Nhứt
Người dân đổ ra xem hai xác chiến sĩ đặc công vc đã chết ngay dốc cầu Thị Nghè
Lính cứu hỏa tìm cách vào toà nhà đài phát thanh SG bị vc phá hoại đang bốc cháy , cạnh đó là tử thi chiến sĩ vc
Chiến sĩ VC đã bị bắt và đang bị Quân Cảnh áp tải đi, tháng 2 năm 1968
Hoang tàn sau đợt giao tranh dữ dội với quân VC
Người dân dừng xe lại nhìn ngôi nhà to trong khu phố giờ đã là đống đổ nát tại Chợ Lớn ngày 10 tháng năm 1968
không ảnh chụp từ trực thăng trong đợt 2 tấn công SG của vc.
Khu vực lân cận cầu Chữ Y Saigon: nơi có hàng ngàn ngôi nhà bị phá hủy .
Những người lính VNCH giúp đồng đội vừa bị thương trong đợt 2 tấn công của vc vào Sài Gòn .
Người Lính BĐQ VNCH sau một cuộc chạm súng dữ dội với vc gần Sân vận động và
anh đã bị thương một chiến hữu đồng minh bế tới xe cứu thương ngày 6 tháng 2 năm 1968.
Ngày 6 tháng 5 năm 1968, tại Tân Sơn Nhất
Ngày 14 tháng 2 năm 1968, tại Sài Gòn
Sài Gòn - Tổng tấn công Mậu Thân, đợt 2, khu vực cầu Chữ Y của vc
Cảnh chạy loạn trên cầu chữ Y Sài Gòn ngày 9 tháng 5 năm 1968,
Dân chúng lũ lượt qua Cầu chữ Y để thoát khỏi khu vực giao
tranh đợt 2 cũa vc từ phía Chợ Lớn, ngày 9 tháng 5 năm 1968
Cảnh chạy loạn ở Chợ Lớn, ngày 7 tháng 5 năm 1968,
Ngày 15 tháng 5 năm 1968, tại Chợ Lớn
Cả một vùng rộng lớn đổ nát ngổn ngang là những gì còn lại của khu nhà này là chùa Ấn Quang, nơi vc đặt bộ chỉ huy trong thời gian giao tranh tổng tấn công Mậu Thân, nằm phía trên cùng trong bức ảnh, và sau những trận giao tranh dữ dội, các tên lửa và lựu đạn, cùng với ngọn lửa, đã tàn phá khu vực này vào ngày 5 tháng 2 năm 1968,
Theo
thượng tướng Trần Văn Trà (trong bài viết “Tết Mậu Thân - Chiến công
hiển hách” của ông) thì trận tổng công kích ấy “là một sự kiện lịch sử
lớn, là một cái mốc chiến lược quan trọng của cuộc chiến tranh thần
thánh (của nhân dân Việt Nam)”, nó thực sự hiển hách dù “Rất tiếc rằng
những công tác chuẩn bị theo kế hoạch này không được liên tục tiến hành
trong những năm, 1966-1967 theo yêu cầu thiết thân của chiến trường vì
trên cho rằng hãy tập trung lo đánh Mỹ đã. Vì vậy, đến khi có Nghị quyết
Bộ chính trị quyết định tổng công kích - tổng khởi nghĩa thì chiến
trường như bị bất ngờ, vội vàng giở lại kế hoạch cũ và khẩn trương duyệt
lại mọi mặt, tiếp tục hoàn thành một khối lượng công tác lớn lao trong
vòng 3 tháng… Lực lượng Đảng lãnh đạo và tổ chức quần chúng nội thành
còn yếu, Trung ương cục phải điều động từ các tỉnh đồng bằng để tăng
cường trực tiếp những nơi quan trọng… Có một trục trặc “kỹ thuật” trong
việc hợp đồng chiến lược: ở chiến trường Trị Thiên và khu 5 (bao gồm Tây
Nguyên) đánh trước chiến trường B2 (gồm Nam Trung Bộ và Nam Bộ) 24
tiếng đồng hồ. Sở dĩ như vậy vì B2 theo âm lịch cũ… còn khu 5 và Trị
Thiên được Trung ương trực tiếp chỉ đạo thì theo âm lịch mới tại Hà Nội
đã tính toán lại cho đúng hơn… Với 24 tiếng đồng hồ ấy, địch đã kịp thời
thông báo đi khắp nơi để phòng bị, chống lại cuộc tiến công… trọng điểm
số 1 là thủ đô Sài Gòn của Ngụy, đáng lý được giành ưu tiên đã không
còn hoàn toàn, và tất nhiên có gây thêm khó khăn cho người tiến công về
mặt chiến thuật. Về hợp đồng chiến lược, trong toàn miền nổ súng trước
sau một ít ngày vẫn là một cuộc hợp đồng tuyệt diệu. Chúng ta đã đưa
cuộc chiến tranh vào khắp hậu phương địch, vào tận hang ổ đầu não của Mỹ
- Ngụy”. Cũng theo Thượng tướng Trần Văn Trà, do “lực lượng đã bị tiêu
hao không bổ sung kịp thời kể cả quân số lẫn đạn dược, Trung ương cục và
Bộ chỉ huy Miền đã ra lệnh kết thúc thời kỳ Tổng công kích tổng khởi
nghĩa mà không tổ chức đợt IV nữa”.
(Còn tiếp)
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt năm 1968; bắt đầu từ Tết Mậu Thân của quân dân miền Nam đã thu được chiến quả:
- Giết, làm bị thương và bắt sống 63000 tên địch (có hơn 23000 tên Mỹ và chư hầu), làm tan rã hàng chục vạn quân Ngụy.
- Bắn rơi, phá hủy, làm khoảng 6000 máy bay các loại.
- Phá hủy, làm hỏng 13500 xe quân sự (có hơn 7000 xe tăng và xe bọc thép).
- San bằng, bức rút, bức hàng hơn 1500 đồn bốt và chi thu quân sự.
-
Giành quyền làm chủ hoàn toàn nhiều xã, ấp gồm hơn 2 triệu dân (riêng
miền Tây lúc đó đã giành quyền làm chủ 88 xã và gần 2000 ấp và với 1,5
triệu dân).
Đặc
biệt, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đó đã đánh gục hoàn toàn ý chí leo
thang chiến tranh của chính quyền Giônsơn. Trong bức điện của Chủ tịch
Hồ Chí Minh gửi đồng bào miền Nam ngày 4-2-1968 có đoạn: “Thắng lợi đầu
xuân của quân và dân miền Nam đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của toàn dân ta đến một tình thế mới rất có lợi. Không có gì cứu vãn
nổi sự sụp đổ hoàn toàn của giặc Mỹ và tay sai.”
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968,
quân đội ta đã cùng lúc tấn công bất ngờ vào nhiều trụ sở cơ quan đầu
não chính trị, các căn cứ quân sự, các trung tâm chỉ huy của Mỹ ở nhiều
thành phố ở khắp miền Nam Việt Nam.
Hãy cùng xem lại những bức ảnh kinh điển về chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 của các phóng viên quốc tế.
Binh sĩ Mỹ nấp tại một khu vực bên trong thành Huế năm 1968.
Lính Mỹ kéo đồng đội bị thương trong một trận chiến ở Huế năm 1968.
Phóng viên báo Stars and Stripes John
Olson đã chụp được nhiều bức ảnh về chiến tranh Việt Nam, đặc biệt là
chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968.
Lính quân y Mỹ băng bó vết thương cho một lính thủy quân lục chiến Mỹ tại Huế khi đồng đội vẫn cầm súng chiến đấu. Bức ảnh này được chụp trong thời gian diễn ra chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968.
Lính thủy quân lục chiến Mỹ giữ khẩu súng trường M-16 tại khu vực chiến đấu ở Huế năm 1968.
Lính thủy quân lục chiến Mỹ cố thủ tại một cửa hàng may ở Huế năm 1968.
Lính Mỹ đeo mặt nạ, cầm đèn pin chui xuống một đường hầm được cho là có dấu vết của bộ đội Việt Nam. Ảnh chụp tháng 11/1967.
Phương tiện chiến đấu của quân đội Mỹ tại Bù Đốp, miền Nam Việt Nam tháng 12/1967.
Trung sĩ Raymond Scherz mang theo một con gà tây để chuẩn bị cho Lễ tạ ơn khi tham chiến tại chiến trường Việt Nam. Ảnh chụp tháng 11/1967.
Một lính Mỹ nằm đọc tài liệu, bên cạnh là một người đàn ông bị trói tay do tình nghi là bộ đội Việt Nam. Ảnh chụp tại thung lũng Quế Sơn tháng 1/1968.
Một trực thăng cất cánh tại Khe Sanh trong thời gian diễn ra Chiến dịch Ngựa bay (Operation Pegasus) năm 1968.
Lính Mỹ tiếp tục chiến đấu trong tình trạng quân phục bị rách do ảnh hưởng của vụ nổ khi chiến đấu ở thung lũng Quế Sơn.
Lính Mỹ nằm sát mặt xuống đất khi xảy ra giao chiến dữ dội với bộ đội Việt Nam ở Quế Sơn, Việt Nam năm 1968.
Lính quân y Mỹ băng bó vết thương cho một lính thủy quân lục chiến Mỹ tại Huế khi đồng đội vẫn cầm súng chiến đấu. Bức ảnh này được chụp trong thời gian diễn ra chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968.
Lính thủy quân lục chiến Mỹ giữ khẩu súng trường M-16 tại khu vực chiến đấu ở Huế năm 1968.
Lính thủy quân lục chiến Mỹ cố thủ tại một cửa hàng may ở Huế năm 1968.
Lính Mỹ đeo mặt nạ, cầm đèn pin chui xuống một đường hầm được cho là có dấu vết của bộ đội Việt Nam. Ảnh chụp tháng 11/1967.
Phương tiện chiến đấu của quân đội Mỹ tại Bù Đốp, miền Nam Việt Nam tháng 12/1967.
Trung sĩ Raymond Scherz mang theo một con gà tây để chuẩn bị cho Lễ tạ ơn khi tham chiến tại chiến trường Việt Nam. Ảnh chụp tháng 11/1967.
Một lính Mỹ nằm đọc tài liệu, bên cạnh là một người đàn ông bị trói tay do tình nghi là bộ đội Việt Nam. Ảnh chụp tại thung lũng Quế Sơn tháng 1/1968.
Một trực thăng cất cánh tại Khe Sanh trong thời gian diễn ra Chiến dịch Ngựa bay (Operation Pegasus) năm 1968.
Lính Mỹ tiếp tục chiến đấu trong tình trạng quân phục bị rách do ảnh hưởng của vụ nổ khi chiến đấu ở thung lũng Quế Sơn.
Lính Mỹ nằm sát mặt xuống đất khi xảy ra giao chiến dữ dội với bộ đội Việt Nam ở Quế Sơn, Việt Nam năm 1968.
Tổng
thống Giônsơn “bị kinh ngạc vì cuộc tiến công Tết của địch và bối rối
vì trận Khe Sanh”, đã “tỏ ra mệt mỏi và tư thế bắt đầu chao đảo” (Một
quân nhân tường trình). Còn Oétmolen, trong nỗi ám ảnh về một Điện Biên
Phủ ở Khe Sanh, lại choáng váng bởi đòn tổng tấn công bất ngờ Tết Mậu
Thân của Việt Cộng, đã hốt hoảng, mất bình tĩnh tới mức đòi có ngay thêm
206.000 quân trong khi các lực lượng sẵn sàng tác chiến của Mỹ đã bị
“vét tận đáy” và nông nổi tới mức đề nghị sử dụng cả bom nguyên tử chiến
thuật là điều không thể thực hiện được trong cuộc chiến tranh mà quân
lực hai bên xen kẽ nhau, không phân rõ trận tuyến, càng không thực hiện
được về mặt chính trị. Thế là Giônsơn cay đắng cách chức luôn Oétmolen,
xuống thang chiến tranh và sau đó rút lui khỏi chính trường Mỹ. Báo chí
Mỹ, trước kia ca ngợi Oétmolen bao nhiêu thì lúc này lại chỉ trích bấy
nhiêu, chê là “một người cầm quân hữu dũng vô mưu”, “làm cả một việc rất
trái khoáy” là điều động lính
thủy đánh bộ chuyên tác chiến ở vùng đồng bằng ven biển “lên tận vùng
núi rừng nhiệt đới, căng nọc ra ăn đạn pháo của quân đội Bắc Việt”. Báo
chí Mỹ còn nhận xét mỉa mai, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ có
một vị đại tướng “ngày 28-4-1967 vừa được Quốc hội Mỹ long trọng tuyên
dương công trạng thì đến ngày 23-3-1968 đã bị cách chức tư lệnh chiến
trường và phải ra điều trần trước Quốc hội”, đồng thời “một Tổng thống
kiêm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang nước Mỹ phải “tự cách chức”
giữa lúc chiến tranh đang tiếp diễn”.
Sau
này, trong hồi ký của mình, Oétmolen tìm cách đổ vấy rằng vì Lầu Năm
Góc và Nhà Trắng mà ông ta thua trận, và còn nói: “Tôi không có gì phải
ân hận. Tôi là người mà ai cũng nhòm ngó. Cuộc chiến tranh đã làm mất
lòng dân khá nhiều; không cần phải nói, rất nhiều điều của cuộc chiến đó
được qui cho tôi. Là một người lính thì phải chuẩn bị đương đầu với sự
gian khổ của chiến tranh. Ở cương vị tôi, tôi đã gánh lấy vết nhơ của
nó”.
Quân giải phóng miền Nam tấn công sân bay Tân Sơn Nhất trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Ảnh: Tư liệu
---------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét