"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều
vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!" -Albert Einstein
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy
cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu
Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng
để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to
lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng
quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng
ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực
lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy
mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói
khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
“Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn!” Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ" Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo)
Sau Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi giải phóng Sài Gòn.
Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, sáu ngày sau quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu.
Tức giận vì hành vi gây hấn của Khmer Đỏ, Hà Nội phản công giành lại
các đảo này.
Địa hình biên giới Tây Nam bằng phẳng, chỉ chia cắt bằng kênh rạch, thuận lợi cho đối tượng
xâm nhập và khó khăn trong việc quản lý của Biên phòng
Tuần tra, bảo vệ đường biên, cột mốc biên giới Tây Nam
Bộ đội C5, Công an nhân dân vũ trang An Giang trên trận địa đánh trả quân Pol Pot xâm lược,
năm 1978 - Ảnh do ông Nguyễn Ngọc Chiến cung cấp
Ban Chỉ huy C5 Cơ động, CANDVT An Giang tháng 5.1978
- Ảnh: cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Chiến cung cấp
C5, CANDVT An Giang nhận danh hiệu “Tuổi trẻ anh hùng bảo vệ Tổ quốc”
- Ảnh: cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Chiến cung cấp
Trận đánh ở Phú Quốc làm nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam mới thành lập lo ngại, vì cùng thời gian đó, quan hệ Việt Nam
và Trung Quốc
đang xấu đi. Mối lo ngại này càng tăng thêm vì sự hiện diện của cố vấn
Trung Quốc ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho lực
lượng vũ trang Khmer Đỏ. Tiếp theo cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh
nhiều cuộc đột kích nhỏ, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập quy mô lớn
vào Việt Nam. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977,
quân chính quy Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một
số vùng ở tỉnh An Giang
và tàn sát một số lớn dân thường. Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào
ngày 25 tháng 9 cùng năm, lần này 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm
nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích. Để trả đũa, ngày 31 tháng 12 năm 1977, sáu sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào sâu trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978, mang theo một số nhân vật quan trọng bên phía Campuchia, trong đó có cả Thủ tướng tương lai Hun Sen.
Cuộc tấn công này được xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ. Phía Việt
Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự
dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao tranh tiếp diễn. Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết của họ có ghi: "Chỉ
cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài
ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2
triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam".
Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa
phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 5–20 km.
{ Thanh niên xung phong Thành phố tham gia chiến đấu trên chiến trường
biên giới Tây Nam, năm 1978 (Nguồn: Tư liệu Trung tâm Thông tin Triển
lãm).}
Nguyễn Ngọc Chiến và đồng đội năm 1978 (Ảnh Phóng viên Báo QĐND)
Nguyễn Ngọc Chiến tại mặt trận biên giới An Giang năm 1978 (Ảnh Phóng viên Báo QĐND)
Trong các đợt tấn công đó, Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc
vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại. Từ năm 1975 cho
tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị Khmer Đỏ sát hại trong
các cuộc tấn công dọc biên giới.
Việt Nam cố gắng giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình thông qua
đàm phán ngoại giao, nhưng Khmer Đỏ từ chối đàm phán, Trung Quốc không
chịu làm trung gian hòa giải, còn Liên Hợp Quốc không có biện pháp gì
phản hồi lại các phản đối của chính quyền Việt Nam về các hành động gây
hấn của Khmer Đỏ. Việt Nam phải chuyển sang sử dụng vũ lực để giải quyết cuộc xung đột. Từ tháng 12 năm 1977 đến 14 tháng 6 năm 1978, hơn 30 vạn thường dân
Việt Nam phải tản cư vào sâu trong nội địa, bỏ hoang 6 vạn ha đất sản
xuất. Theo cuốn "Cuộc chiến tranh bắt buộc" của Đại tá Quân đội Nhân dân
Việt Nam Nguyễn Văn Hồng, trong các trận đánh dọc biên giới trong giai
đoạn này, Việt Nam bị thương vong 8.500 bộ đội, trong đó số chết là gần
3.000 người. Ngày 13 tháng 12 năm 1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc,
Khmer Đỏ đã huy động 19 trong 23 sư đoàn (khoảng 80.000 đến 100.000
quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn
đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Tà Teng (xã Phú Mỹ huyện Giang Thành tỉnh Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.
Xe tăng Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (ảnh: giaoducnet)
Tình cảm quyến luyến giữa bộ đội Việt Nam và nhân dân Campuchia (ảnh: vnmilitaryhistory)
Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến,
đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer đỏ. Các hướng tiến quân của
Khmer Đỏ bị chặn lại và không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên
bị chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị
chiếm. Theo thống kê từ Việt Nam, từ tháng 6-1977 đến tháng 12-1978, họ
đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống 5.800 lính khác. Theo Tạp chí Time,
quân Việt Nam tiến hành các cuộc không kích và giao tranh trên bộ, đánh
vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới nhằm làm suy yếu quân Khmer
Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt khoảng 17
ngàn quân Khmer Đỏ. Tới đầu tháng 12 năm 1978, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số tiểu
đoàn Khmer thân Việt Nam đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong
lãnh thổ Campuchia, từ Mimot đến Snuol ở các tỉnh Kampong Cham và Kratié. Ở phía Bắc, quân Việt Nam cũng kiểm soát một vùng rộng thuộc lãnh thổ Campuchia dọc theo đường 19.
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, sau khi được tăng viện, với 80.000 quân,
quân đội Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi
quân Khmer Đỏ. Sư đoàn 2 cùng trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh mở cuộc
tấn công nhằm đánh bật các Trung đoàn 23 thuộc Sư đoàn 304 và Trung đoàn
13 thuộc Sư đoàn 221 của Campuchia ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ
13 sát biên giới. Tuy nhiên chiến cuộc chưa chấm dứt, quân đội Việt Nam
quyết định mở cuộc tấn công phòng ngừa vào Campuchia.
Những đại diện vùng đông bắc
Campuchia, tháng 10-1977. Bu Thoong - người mặc sơmi trắng - sau này trở
thành bộ trưởng quốc phòng Campuchia - Ảnh: tư liệu Trần Tiến Cung
Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đã lùi xa nhưng chắc chắn
nhiều người vẫn sẽ phải lạnh sống lưng khi đọc lại những toan tính thâm
độc và rất phiêu lưu của tập đoàn Pol Pot năm nào. Bản đồ các mũi tiến công của QĐND Việt Nam tiêu diệt tập đoàn Pol Pot.
Hàng trăm binh sĩ Khmer Đỏ bị quân ta bắt khi
chúng xâm lấn biên giới Việt Nam ở 2 huyện Bảy Núi và Tịnh Biên, tỉnh An
Giang 19/1/1978
Lính Khmer Đỏ bị thương trong các cuộc giao tranh ở biên giới.
Sau khi đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, các lực lượng Việt
Nam thuộc Quân khu 5 nhanh chóng hành tiến theo đường 19, sư đoàn 309
quét sạch tỉnh Ratanakiri, phía Bắc tỉnh Mondolkiri và tiến vào phía Bắc tỉnh Stung Treng. Sư đoàn 307 tiến theo đường 19, dùng cầu phao vượt sông Srepok và sông Mekong. Tới ngày 1 tháng 1 năm 1979, lực lượng Quân khu 5 tiến dọc sông Mekong chiếm được Stung Treng. Cùng thời gian, Sư đoàn 5 thuộc Quân khu 7 tiến từ hướng đông, cùng
Sư đoàn 303 tiến theo hướng tây bắc từ Snuol cùng đánh vào Kratié do Sư
đoàn 260 và 2 trung đoàn địa phương của đặc khu 505 phòng thủ. Các sư
đoàn này gặp phải sức kháng cự quyết liệt từ phía quân Khmer Đỏ. Trong
cuộc tiến quân, hai Tiểu đoàn 1 và 2 Trung đoàn 316 Sư đoàn 303 bị tập
kích bất ngờ nên bị tiêu diệt. Trung đoàn này, cũng như Trung đoàn 33,
sau một tháng hành quân, quân số hao hụt mất một nửa.
Các đơn vị quân Khmer Đỏ tấn công Sư đoàn 303 gây nhiều tổn thất và
suýt chiếm được sở chỉ huy sư đoàn. Tuy nhiên, sau khi không chặn được
quân Việt Nam, quân Khmer Đỏ phải rút lui, và tới ngày 29 tháng 12,
thành phố Kratié
rơi vào tay quân đội Việt Nam. Cùng lúc, Sư đoàn 302 tiến về phía Tây
đã chiếm được Kampong Cham. Sau đó, hai Sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại
đánh chiếm thị xã Chhlong
do Sư đoàn 603 Khmer Đỏ chống giữ. Ngày 4 tháng 1, họ chiếm được
Chhlong. Kể từ lúc đó, toàn bộ lãnh thổ Campuchia ở phía đông sông
Mekong coi như bị mất. Sáng ngày 31 tháng 12, được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăng và bộ binh
Quân đoàn 3 Việt Nam tiến công và nhanh chóng đánh tan 5 sư đoàn quân
Khmer Đỏ trên toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh Kampong
Cham. Tới cuối ngày, trừ sở chỉ huy quân Khmer Đỏ, toàn bộ các cứ điểm
còn lại thất thủ, quân Khmer Đỏ rút chạy về thị trấn Kampong Cham ở bờ
tây sông Mekong, bị quân Việt Nam truy kích ráo riết. Không quân Việt Nam cũng tham chiến, tấn công vào tuyến phòng thủ của Khmer Đỏ và ném bom phá hủy một sân bay mà từ đó máy bay T-28
Khmer Đỏ xuất kích ném bom vào các toán quân tiền phương Việt Nam. Sáng
ngày 1 tháng 1 năm 1979, sau khi tập hợp lại lực lượng, Quân đoàn 3
đánh chiếm sở chỉ huy Khmer Đỏ sau một giờ giao chiến quyết liệt. Tướng
Kim Tuấn hạ lệnh cho các đơn vị dưới quyền truy quét và tiêu diệt các
lực lượng Khmer Đỏ còn sót lại. Tới ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 320 đã tiến
tới bờ đông của bến phà Kampong Cham bên bờ sông Mekong. Tại đây sư đoàn
dừng lại, rồi dùng 2 đại đội xe bọc thép mở đường, đánh về phía nam chiếm thủ phủ tỉnh Prey Veng.
Pônpốt - Pol Pot (/pɒl pɒt/; Khmer: ប៉ុល ពត; 19/05/1925 – 15/04/1998)
Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia;
Thủ tướng Chính phủ Campuchia Dân chủ
Kẻ chủ mưu tàn sát dân tộc Campuchia và trực tiếp gây ra cuộc chiến tranh
biên giới Tây - Nam, giết hại đồng bào Việt Nam tại biên giới.
Biệt danh anh Cả Khmer Đỏ
Người Khmer gốc Hoa
Nuon Chea (Khmer: នួន ជា; 07/07/1926).
Phó tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia;
Biệt danh anh Hai Khmer Đỏ
Người Khmer gốc Hoa, tên tiếng Hoa là Lau Ben Kon 劉平坤 Lưu Bình Khôn
Ieng Sary (Khmer: អៀង សារី; 24/10/1925 – 14/03/2013)
Phó Thủ tướng; Bộ trưởng Ngoại giao chế độ Khmer đỏ
Biệt danh anh Ba Khmer Đỏ
Tên khác là Thạch Rẹm, Kim Trang. Con ông Thạch Trân (Kim Riem -
người Khmer Nam Bộ) và bà Trần Thị Lợi (người Việt lai Hoa), sinh ở xã
Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
Ta Mok 塔莫 (Khmer: តាម៉ុក; tên lúc nhỏ Chhit Choeun 切春 Thiết Xuân, 1926 – 21/07/2006)
Tổng Tư lệnh mặt trận Đông - Nam quân đội Khmer đỏ.
Tổng tư lệnh quân đội
Biệt danh anh Tư, Đồ Tể
Người Khmer gốc Hoa. Tên tiếng Hoa là Ta Mok 塔莫 Tháp Mạc, có thể là cách gọi của 莫爺 Mạc Gia, ông Mạc, (thằng) cha họ Mạc.
Khieu Samphan (tiếng Khmer: ខៀវ សំផន; sinh năm 1931)
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Campuchia Dân chủ
Biệt danh anh Năm
Người Khmer gốc Hoa. Tên tiếng Hoa là 乔森潘 Kiều Sâm Phan.
Duch (sinh 17 tháng 11 năm 1942)
Chỉ huy nhà tù Tuol Sleng giết hại 16.000 tù nhân Campuchia
Người Khmer gốc Hoa, tên tiếng Hoa là Khang Khek Ieu, Kaing Guek Eav
康克由 Khang Khắc Do hoặc 江玉耀 Giang Ngọc Diệu (កាំង ហ្គេកអ៊ាវ), còn gọi là
Đồng chí D[e]uch (មិត្តឌុច); hay Hang Pin
Nhà mồ Ba Chúc, thuộc xã Ba Chúc, huyện Bảy Núi, tỉnh An Giang
Thiết giáp chở quân M-113 - thiết vận xa M-113
Xe tăng lội nước Type-63, do Trung quốc chế tạo, tuy nhiên Việt Nam thường gọi chung loại này là PT-85.
A-37 Dragonfly là máy bay cường kích phản lực hạng nhẹ 2 động cơ với tổ bay hai người.
Trực thăng quân sự đa năng Bell UH-1 Iroquois UH-1 Huey UH-1A
61-K
(tiếng Nga: 37-мм автоматическая зенитная пушка образца 1939 года
(61-К)) là một loại pháo phòng không có cỡ nòng 37 mm do Liên Xô sản
xuất từ năm 1939
Trong thời gian đó, ngày 28 tháng 12, ở hạ lưu đồng bằng sông Mekong,
lực lượng Khmer Đỏ thuộc Quân khu Đông Nam mở cuộc tấn công phòng ngừa
dọc biên giới. Quân Khmer Đỏ tiêu diệt một số đơn vị Quân khu 9 bảo vệ
biên giới và chiếm một vùng rộng lãnh thổ Việt Nam dọc theo kênh Vĩnh Tế. Cuộc tấn công này làm cho tình hình Quân đoàn 2 của tướng Nguyễn Hữu An
trở nên rất khó khăn. Quân Khmer Đỏ đã chiếm được khu vực đầu cầu mà
Quân đoàn 2 và lực lượng Quân khu 9 định dùng để tiến vào Campuchia,
đồng thời giành được một chiến lũy tự nhiên cản đường tiến của quân Việt
Nam. Sau khi nhận được sự chấp thuận từ Bộ chỉ huy, sáng ngày 31 tháng 12,
sư đoàn 4 của Quân khu 9 và Trung đoàn 9 của Sư đoàn 304 phối thuộc mở
cuộc phản công. Sau 24 giờ giao tranh kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh
lui quân Khmer Đỏ khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế.
Chiều ngày 1 tháng 1, được pháo binh và không quân yểm trợ, Lữ đoàn
công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao vượt sông. Sư đoàn 304 và
Lữ đoàn xe bọc thép 203 mở đường tiến vào đất Campuchia. Tới trưa ngày 3
tháng 1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu diệt hoặc đánh tan tất cả
các lực lượng Khmer Đỏ ở hạ lưu sông Mekong dọc biên giới. Sở chỉ huy
Quân khu Tây Nam của Khmer Đỏ phải rút về Takéo. Sau ba ngày tấn công, tại hướng chủ yếu Tây Ninh, Quân đoàn 4 với sự
yểm trợ của không quân, trực thăng, pháo binh, hải quân, thiết giáp...
quân Việt Nam đánh bật được quân Khmer Đỏ khỏi các vị trí Năm Căn, Hòa Hội
dọc theo tỉnh lộ 13, và các đơn vị của các Sư đoàn 703, 340, 221 của
Khmer Đỏ phải rút về thành lập một tuyến phòng thủ mới tại Svay Rieng, tập trung ở cầu Don So. Được 15 xe tăng và xe bọc thép mở đường, cùng với pháo 105mm, 155mm
bắn yểm trợ, Sư đoàn 7 của Quân đoàn 4 mở cuộc tấn công vào quân Khmer
Đỏ ở Don So. Tuy nhiên sau hai ngày giao chiến với nhiều tổn thất, Sư
đoàn 7 vẫn chưa chọc thủng được tuyến phòng phủ của Khmer Đỏ. Tới đêm
ngày 1 tháng 1, tướng Hoàng Cầm hạ lệnh cho Sư đoàn 7 tung hết lực lượng
dự bị vào trận. Quân Khmer Đỏ kháng cự dữ dội, nhưng sau khi bị đánh thua ở Tây Ninh,
quân Khmer Đỏ đã bị mất tinh thần, hơn nữa, do phải chấp nhận một trận
đánh quy ước với một địch thủ có hoả lực, quân số và kinh nghiệm chiến
trường trội hơn quá nhiều, nên quân Khmer Đỏ bị tan rã. Tuyến phòng thủ
Svay Rieng bị vỡ ngày 2 tháng 1 năm 1979, quân Khmer Đỏ phải rút về Prey Veng và Neak Luong, chỉ để lại một số đơn vị đánh cầm chân Quân đoàn 4. Tới ngày 2 tháng 1 năm 1979, quân đội Việt Nam đánh tan các sư đoàn chủ lực của Khmer Đỏ án ngữ các trục đường số 1, 7 và 2 ở lối vào Phnom Penh.
Chiều ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 7 chiếm được cầu Don So và tới ngày 4
tháng 1 đã làm chủ toàn bộ vùng phía đông sông Mekong. Tới ngày 5 tháng
1, Sư đoàn 7 tiến đến Neak Luong. Ngày 6 tháng 1, các đơn vị Việt Nam vượt sông Mekong qua ngả Neak
Luong và bắc Kompong Cham. Chín sư đoàn quân Việt Nam làm thành hai gọng
kìm tiến vào Phnom Penh từ phía Đông Nam và phía Bắc: Sư đoàn 7 và Sư
đoàn 2 di chuyển theo quốc lộ 1, Sư đoàn 9 tiến song song bảo vệ sườn phía nam và Sư đoàn 341 bảo vệ sườn phía bắc. Một toán đặc công nhảy dù xuống Phnom Penh để giải cứu Hoàng thân Sihanouk nhưng bị Khmer Đỏ phát hiện và tiêu diệt hết, chỉ duy nhất một người sống sót. Tại Kompong Cham, Quân đoàn 3 của tướng Kim Tuấn
cũng giao tranh quyết liệt với quân Khmer Đỏ để vượt sông. Quân Khmer
Đỏ thiết lập trận địa phòng ngự dọc bờ tây sông Mekong với nhiều ổ súng máy, súng cối
bắn trùm lên mặt sông để ngăn thuyền chở quân Việt Nam đổ bộ. Xa hơn
một chút, quân Khmer Đỏ bố trí xe tăng, xe bọc thép, pháo 105mm, 122mm
và 155mm để bắn vào quân Việt Nam đang tập trung ở bờ đông sông Mekong.
Đêm ngày 5 tháng 1, một toán quân gồm lính trinh sát, công binh và bộ
binh định vượt qua bờ sông chiếm một đầu cầu nhỏ, nhưng quân Khmer Đỏ
đánh bật họ lại. Tướng Kim Tuấn
quyết định dùng hỏa lực áp đảo bắn vào trận địa phòng thủ của quân
Khmer Đỏ, rồi cho thả khói mù, dùng thuyền chuyển quân sang bờ tây. Mặc
dù rất nhiều thuyền bị trúng đạn của quân Khmer Đỏ, Quân đoàn 3 cuối
cùng cũng đã thiết lập được một đầu cầu. Một đại đội xe lội nước vượt
sông và tỏa ra để đánh vào thị trấn; 2 tiểu đoàn bộ binh cũng vượt được
sông, đến 8:30 sáng, Kampong Cham thất thủ.
Phạm Sỹ Sáu thời mặc áo lính ở chiến trường Campuchia, năm 1982 tại chiến trường Đông Poipet - Ảnh tư liệu
Huyết tâm thư của thanh niên
TP.HCM tình nguyện lên đường bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp nước bạn
Campuchia - Ảnh tư liệu Tuổi Trẻ
Điểm danh đồng đội
Hãy sắp hàng vào cho tao điểm danh Những thằng lính ở miền xa rất trẻ Hãy sắp hàng vào để nghe tao kể. Chuyện đánh nhau và chuyện... yêu nhau A! Có thằng nào còn mang băng trắng trên đầu Tiến một bước, nếu thấy còn chỗ trống Đừng băn khoăn nếu có thằng hi sinh và thằng... chạy trốn Còn lại tụi mình thì vẫn cứ thương nhau Hãy vì nhau mà đừng để lòng sầu Bởi cái chết chẳng thể nào tự đến Đêm vượt Mê-kông có thằng nào ngờ tới bến Nhưng vẫn qua rồi lại... vẫn qua Thằng Vinh, thằng Hùng, thằng Dũng đi xa Cho những Thắng, những Thân vào đội ngũ Khi ở Sài Gòn bọn đỏ đen bày trò ăn thua đủ Thì tụi mình nhịn khát hành quân Có thằng mới từ thành phố lên khóc vì rộp bàn chân Lâu cũng quen và tự chê mình yếu đuối Giặc bao vây mỗi thằng được dành dăm quả cối Vài trái B.40 và hàng ngàn đạn AK Bình yên thì xa và chiến tranh thì gần trong ngón tay cò súng Vì chẳng thể bỏ nhau nên tụi mình mưu dũng Hết khói đạn rồi điểm mặt vẫn đủ tên Có thể có thằng cho đó là điều hên Mà số phận chẳng thằng nào biết được Cha mẹ nhớ thương con, người yêu nhớ người yêu - phía trước Còn tụi mình nhớ nhất số quân Mất hay còn chỉ là một dấu chân Trên bãi cát băng từ của cô nhân viên điện toán Tụi mình sống với nhau có phút nào thấy chán Những gương mặt phong trần mà rất đỗi dễ thương Lính 76, lính 78, lính 80 rồi cũng bình thường Cũng là lính với trái tim tràn nỗi nhớ Hãy để chỗ sâu lắng trong tim trong những thằng xanh cỏ Tụi mình còn mắc nợ đời, mắc nợ với nhau Hành quân điểm danh không có trực ban báo cáo Không có Có, không có Vắng, chỉ có tiếng cười Rồi tụi mình ôm nhau cho rõ mặt bạn đời Dẫu có đứa chưa từng ôm một người con gái Chưa từng yêu nên nói chuyện tình yêu: nói đại Thằng nào không tin cứ về thành phố kiểm tra Bị phát hiện bèn mở miệng cười khà: - Tao không biết thì rồi tao sẽ biết Và mầy hi sinh không còn thời gian để biết Ai sẽ tiếc thương mầy ngoài đồng đội, mẹ cha Điểm danh xong hãy uống ít đế và ca Những bài lý mênh mông mùa nước lớn Xuống câu xề trầm hơn tiếng nấc Và khua bình-tông khi hát nhạc trẻ, nhạc già Hát múa cho đã đi rồi vào uống trà Để chống ngủ vì đêm còn phải gác Tụi mình sinh ra vào thời trận mạc Nên núi rừng bè bạn có sao đâu Nên sương gió tụi mình dãi dầu Mặc áo lính phải sống cho ra là lính
Ni-mít, tháng 3-1981
Tác giả: Phạm Sĩ Sáu
Ngay trong sáng ngày 6 tháng 1, lực lượng đột kích Phnom Penh, gồm
Trung đoàn 28 của Sư đoàn 10 và các đơn vị phối thuộc, dẫn đầu bởi 6 xe lội nước và một số xe thiết giáp M-113
vượt sông, tổng cộng lực lượng lên đến 120 xe quân sự. Lực lượng đột
kích vừa hành quân vừa giao chiến với các ổ phục kích của quân Khmer Đỏ,
tới chiều tối đã tới bờ sông Tonglé Sap và tổ chức đánh vượt sông để tiến vào Phnom Penh. Trong khi đó, ngày 6 tháng 1 năm 1979, những đơn vị đầu tiên của Sư
đoàn 7 Quân đoàn 4 được 1 tiểu đoàn UFNSK hỗ trợ chiếm được bờ phía đông
của bến phà Neak Luong. Quân Campuchia
trong khi rút lui vội vã đã không kịp thiết lập công sự phòng thủ.
Trong đêm, cách bến phà khoảng hai cây số về phía nam, Trung đoàn 113
cùng Trung đoàn 14 của Sư đoàn 7 được tàu đổ bộ đưa sang bên kia sông,
tiến chiếm bờ phía tây của bến phà. Ngày 7 tháng 1, toàn bộ đội hình
Quân đoàn 4 tiến hành vượt sông. Do sự tan rã nhanh chóng của lực lượng
phòng thủ biên giới và sự chủ quan của Pol Pot, quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh từ Neak Luong mà không gặp sức chống cự đáng kể nào. Trưa ngày 4 tháng 1, Quân đoàn 4 đã có thể bắt tay với Quân đoàn 3 ở ngoại ô phía bắc Phnom Pênh. Tuy nhiên Quân đoàn 3 đã đến muộn, không kịp chặn đường Chính phủ Polpot rút chạy khỏi Phnom Penh. Việc quân Việt Nam tiến quá nhanh khiến cho Khmer Đỏ chỉ kịp sơ tán bộ máy lãnh đạo. Son Sen
chạy xuyên qua mặt trận ngược về phía Việt Nam để tập hợp tàn quân của
các sư đoàn thuộc quân khu miền Đông. Pol Pot, Nuon Chea và Khieu
Samphan được vài xe Jeep chở quân bảo vệ chạy về Pursat.
Ieng Sary chạy về Battambang trên một chuyến xe lửa đặc biệt chở vài
trăm nhân viên Bộ ngoại giao. Việc rút lui khẩn khiến nhiều Bộ khác cùng
hàng ngàn nhân viên không được thông báo về cuộc rút lui. Các chuyến xe
tiếp theo sơ tán Phnom Penh bị tắc nghẽn bởi quá nhiều người tìm cách
bỏ chạy. Như vậy với việc ban lãnh đạo sơ tán, khoảng 40 ngàn dân chúng
và binh lính Khmer Đỏ tại Phnom Penh, cũng như các đơn vị quân phòng thủ
các mục tiêu lân cận bị bỏ mặc tự thân vận động. Ngày 7 tháng 1, quân Việt Nam chiếm sân bay Kampong Chonang và bắt được mười máy bay A-37, ba C-123K, sáu C-47, ba Alouette III
cùng một số T-28. Ngoài ra Khmer Đỏ cũng bỏ lại hàng trăm xe tăng và xe
bọc thép, rất nhiều đạn dược và lương thực dự trữ chiến lược mà họ không kịp mang theo. Ngày 8 tháng 1, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập với sự hậu thuẫn của Việt Nam. Ở phía Bắc, các sư đoàn của Quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom Penh, sau đó Sư đoàn 320 theo quốc lộ 4 xuống bình định các tỉnh phía nam. Các sư đoàn còn lại theo các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng Tây và hướng Bắc. Họ gặp sức chống cự đáng kể của quân Khmer Đỏ tại Battambang và Siem Reap. Tại mặt trận phía nam, từ An Giang,
quân Việt Nam bắt đầu vượt biên giới vào ngày 3 tháng 1 năm 1979 và tấn
công theo hai hướng. Hướng thứ nhất, Sư đoàn 325 và Sư đoàn 8 tiến về
phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 5 tháng 1 năm 1979, trong khi lực
lượng Quân khu 9 tiến đánh Takéo, sư đoàn 325 bắt đầu hành tiến theo hướng Tây Bắc. Lực lượng Khmer Đỏ của Quân khu Tây Nam do Ta Mok chỉ huy khét tiếng cuồng tín đã chuẩn bị công sự phòng thủ ở Tuk Meas trên đường 16, ở khoảng giữa biên giới và Chhuk.
Phải mất hai ngày giao chiến, Sư đoàn 325 mới có thể đánh tan tuyến
phòng ngự của Khmer Đỏ và chiếm được khu vực Tuk Meas. Cùng lúc đó tướng
Nguyễn Hữu An cũng tung Sư đoàn 8 theo hướng tây để đánh chiếm quận lỵ Kampong Trach, nằm ở giao điểm với đường quốc lộ ven biển.
Hình 2: Chủ tịch Mao Trạch Đông tiếp đón cấp lãnh đạo Khmer Đỏ tại
Bắc Kinh, từ trái: Mao Trạch Đông, Pol Pot và Ieng Sary. Khmer Đỏ rập
khuôn theo Mao, được hậu thuẫn và viện trợ tối đa của Bắc Kinh, đã tiến
chiếm Nam Vang 17.04.1975 khởi đầu một chế độ diệt chủng với 2 triệu
người chết, trong đó không ít nạn nhân là người Việt, người Chăm Islam
trong khoảng thời gian từ 1975-1979. [nguồn: photo AFP]
Hình 3: Bộ trưởng Quốc Phòng Khmer Đỏ Son Sen (giữa), đứng bao
quanh bởi các cố vấn Trung Quốc 1977 [nguồn: Trung tâm Tài liệu
Cambodia].
Hình 5: Cán bộ Khmer Đỏ Um Sarun đứng giữa, cùng với các cố vấn
quân sự Trung Quốc, đám cố vấn TQ cũng mặc pyjama đen cổ quấn khăn rằn
và hiện diện rất kín đáo [nguồn: Trung tâm Tài liệu Cambodia]
nạn diệt chủng của Khmer Đỏ
Đó
là một cuộc chiến mà quân đội Việt Nam, lúc đầu được triển khai như
những vị cứu tinh nhưng ngay sau đó lại bị xem là những kẻ xâm lược,
đã trả một cái giá cao ngất về nhân mạng trong một cuộc chiến du
kích tàn khốc kéo dài cả chục năm.
Việt
Nam bắt đầu đưa quân vào Campuchia vào cuối tháng 12 năm 1978 để lật
đổ Pol Pot. Hai triệu người Campuchia đã chết dưới tay Khmer Đỏ.
Đơn
vị của ông Hiếu đã truy đuổi quân Khmer Đỏ đến biên giới với Thái
Lan. Ông nhớ lại ông đã nhìn thấy người dân Campuchia nằm chết đói bên
vệ đường.
Việt
Nam không muốn lãng quên hoàn toàn cuộc chiến với Campuchia, ông Nhân
nói, mà Việt Nam chỉ muốn nhớ cuộc chiến này như là một cuộc tấn
công thần tốc, thắng lợi để lật đổ Pol Pot.
Nắm quyền chỉ huy trực tiếp trung đoàn xung kích 24, tướng Nguyễn Hữu
An dẫn trung đoàn tiến từ Tuk Meas về Chhuk. Các quân xa của Việt Nam
gồm xe tăng hạng nặng, xe tải và trọng pháo di chuyển khó khăn trên
đường đất và ruộng lúa nên đã bị quân Khmer Đỏ phục kích phá hủy một số
xe và pháo, sở chỉ huy của tướng An cũng bị tổn thất và tạm thời mất
liên lạc với các lực lượng còn ở phía sau. Tới chiều ngày 7 tháng 1, lực
lượng xung kích đã ra đến đường số 3, và trong quá trình tiến công đã
đánh tan sư đoàn quân Khmer Đỏ phòng ngự Chhuk. Trong hai ngày 4, 5 tháng 1 năm 1979, từ đảo Phú Quốc, hai phân đội
Hải quân Việt Nam gồm một số tàu tuần tiễu loại lớn của Mỹ, hai tàu khu
trục Petya của Nga, cùng nhiều tàu chiến nhỏ chuẩn bị chuyển Lữ đoàn Hải
quân 101 và 126 đổ bộ. Hải quân cũng lập trận địa pháo 130mm ở mũi đảo
Phú Quốc để yểm trợ cho lực lượng đổ bộ. Sẩm tối ngày 6 tháng 1, toán quân đặc công gồm 87 người bí mật đổ bộ
và tấn công chiếm một trận địa pháo Khmer Đỏ bảo vệ bờ biển, cùng lúc,
pháo 130mm bắt đầu bắn phá các vị trí quân Khmer Đỏ. Lập tức các thuyền
tuần tiễu loại nhỏ của Khmer Đỏ xuất kích từ quân cảng Ream
và các bến cảng nhỏ tấn công vào Hải quân Việt Nam. Sau một trận giao
chiến trên biển, do có ưu thế về số lượng và hỏa lực, Hải quân Việt Nam
đẩy lùi hoặc đánh chìm hầu hết các tàu Khmer Đỏ, nhưng một tàu của Việt
Nam cũng bị trúng đạn, khiến nhiều thủy thủ bị thương vong. Số tàu phóng lôi
Khmer Đỏ chạy thoát khỏi cuộc hải chiến và các cuộc không kích của
không quân Việt Nam, đến ngày 16 tháng 1 lại bị Hải quân Việt Nam chặn
đánh trong vịnh Thái Lan và bị tiêu diệt gần hết. Tối ngày 7 tháng 1, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tiến hành đổ bộ ở chân núi Bokor, nằm ở khoảng giữa thị xã Kampot và cảng Sihanoukville.
Lữ đoàn đổ bộ được toàn bộ 3 tiểu đoàn và số xe lội nước, xe bọc thép,
nhưng do thủy triều lên cao, không có đủ chỗ triển khai đội hình, nên
không đổ bộ được số xe tải, và đến tối, 3 tiểu đoàn nữa theo dự định
cũng sẽ đổ bộ lại phải rút ra ngoài.
Người
lính Nguyễn Thành Nhân ở hàng ngồi thứ hai từ trái qua
Lực lượng Quân đội tình nguyện Việt Nam phản kích quân Pôn -Pốt. (Ảnh: TTXVN)
Theo kế hoạch, lực lượng Hải quân đánh bộ phải triển khai một lực
lượng lớn, theo vùng ven biển đánh chiếm cùng lúc hai cây cầu quan trọng
và giao điểm Veal Renh dẫn về bán đảo Kampong Som.
Tuy nhiên, một chỉ huy lực lượng lính thủy đánh bộ do nóng vội, đã tập
hợp tiểu đoàn của mình, chở trên 12 xe tăng và xe bọc thép tiến về
Sihanoukville trước khi trời sáng. Đơn vị này bị một lực lượng lớn Khmer
Đỏ vây đánh từ chiều, qua đêm đến suốt ngày hôm sau và cuối cùng bị
tiêu diệt gần như hoàn toàn. Đến đêm ngày 7 tháng 1, Hải quân mới đổ bộ
thêm được 3 tiểu đoàn của Lữ đoàn 126 và 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn 101 lên
bãi biển, nhưng số xe tải phải đến ngày 8 tháng 1 mới lên bờ được. Sư đoàn 304 vốn được dùng làm dự bị để tham gia đánh về Phnom Penh,
nhưng do Quân đoàn 3 và 4 đã đánh được Phnom Penh từ ngày 7 tháng 1, nên
tướng An dùng sư đoàn này để nhanh chóng giải cứu lực lượng lính thủy
đánh bộ và đánh chiếm Sihanoukville. Dẫn đầu bởi một đơn vị xe M-113,
Trung đoàn 66 của sư đoàn, kế tiếp là Trung đoàn 9 hành quân suốt đêm
ngày 9. Ngày 9 tháng 1, Trung đoàn 66 sau khi gặp lực lượng Hải quân đánh bộ,
chuẩn bị giao chiến: không lặp lại sai lầm của Hải quân, Trung đoàn 66
tổ chức chiếm cao điểm xung quanh thành phố trước khi phối hợp với hải
quân đánh bộ đánh vào thành phố. Sau khi đánh tan được Sư đoàn 230
Campuchia, quân Việt Nam chiếm được Kampot.
Trung đoàn 9 không đến kịp vì một cây cầu sụp đổ khi xe tăng dẫn đầu
trung đoàn đi qua. Khi Trung đoàn 9 và Lữ đoàn xe tăng 203 đến thành phố
thì Kampot đã rơi vào tay quân Việt Nam, nên lực lượng này được đưa đi
đánh quân cảng Ream. Được sự trợ lực của pháo hải quân bắn từ bến cảng
lên, cánh quân này chiếm được quân cảng Ream và hải cảng Kampong Som. Tuy nhiên, vì không chuẩn bị kịp về tiếp liệu, quân Khmer Đỏ đã có thể phản công chiếm lại Kampong Som ngày 14 tháng 1, nhưng quân Việt Nam tái chiếm lại vào ngày hôm sau. Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh chiếm hai thị xã Tan và Takéo. Các sư đoàn Khmer Đỏ trấn giữ quân khu Tây Nam như Sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng. Cuối tháng 1 năm 1979 cuộc phản công kết thúc thắng lợi. Đến ngày 17 tháng 1 thị xã cuối cùng là Ko Kong
rơi vào tay quân đội Việt Nam và chính quyền mới của Campuchia. Cho tới
cuối tháng 3, quân đội Việt Nam coi như chiếm được hết những thành phố
và tỉnh lỵ quan trọng của Campuchia và tiến sát tới biên giới Thái Lan.
Tuy nhiên tàn quân Pol Pot vẫn tiếp tục chống cự và quấy nhiễu, gây ra
nhiều thương vong cho quân đội Việt Nam đồn trú tại Campuchia. Trên chiến trường Campuchia, vì quân Việt Nam tiến quá nhanh chóng, nên
quân Khmer Đỏ chỉ bị tan rã chứ chưa bị tiêu diệt hẳn. Nhiều đơn vị đã
tập trung lại thành những đơn vị nhỏ, tiếp tục đánh du kích và quấy phá.
Ông Phạm Văn Đắc: "Khmer Đỏ là lũ ác thú mất hết tính người"
Xương người và sọ người được cất giữ đền tưởng niệm nạn nhân bị Khmeđỏ thảm sát tại Ba Chúc
Sau khi Quân đoàn 4 chiếm được Phnom Penh, các đơn vị của Quân đoàn
3, Quân khu 5 và Quân khu 7 cũng vượt sông Mekong tiến chiếm và bình
định lãnh thổ phía bắc Biển Hồ và sông Tonlé Sap. Quân Khmer Đỏ đã cố gắng kháng cự gần tỉnh Battambang nhưng cũng chỉ có thể làm chậm đà tiến quân của Việt Nam. Họ đã phân tán thành nhiều đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích. Quân đoàn 2 và các sư đoàn của Quân khu 9 sau khi chiếm được vùng
duyên hải cũng tiến dọc theo quốc lộ 4 về hướng Bắc. Mấy ngày sau khi
Trung Quốc tiến đánh biên giới Việt-Trung, Quân đoàn 2 rút về bảo vệ Hà Nội. Việt Nam bắt đầu tổng động viên, một số các trung đoàn độc lập được tăng cường lên thành cấp sư đoàn, như các trung đoàn Gia Định
1 và 2, Quyết Thắng 1 và 2, trở thành các Sư đoàn 317, 318 để gửi sang
tăng cường mặt trận Campuchia. Trách nhiệm chính trong công tác hành
quân vẫn là các đơn vị của Quân đoàn 4. Ngày 8 tháng 1, Sư đoàn 10 theo lệnh của tướng Kim Tuấn thực hiện
cuộc hành quân chớp nhoáng truy kích quân Khmer Đỏ. Tới ngày 9, Trung
đoàn 24 đã chiếm được Kampong Thom, Trung đoàn 26 cũng đã kiểm soát được đường 6 nối Kampong Thom và Phnom Penh, Trung đoàn 66 được lệnh vượt lên trước hai đơn vị này đánh chiếm thành phố Siem Reap
ở phía tây bắc biển hồ Tongle Sap. Dùng 36 xe tải chở quân, được xe
tăng yểm trợ, trung đoàn nhanh chóng hành quân, tiến được 100 km chỉ
trong vòng 2 giờ, đồng thời đánh tan các trạm kiểm soát của Khmer Đỏ dọc
đường. Trên đường đi, một đoàn xe chở quân Khmer Đỏ cũng nhập vào đội
hình trung đoàn do tưởng nhầm là tàn quân Khmer Đỏ tháo chạy. Do trời
tối, không ai phát hiện ra sự nhầm lẫn này. Mãi đến khi hai bên nhận ra
nhau thì một trận đánh khốc liệt mới nổ ra, quân Việt Nam tiêu diệt và
chiếm toàn bộ đoàn xe gồm 23 xe tải chở quân Khmer Đỏ. Rạng sáng ngày
10, quân Việt Nam đến Siem Reap, quân Khmer Đỏ bị bất ngờ, phải tháo
chạy ra bốn phía. Tới khi trời tối thì Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 và
Sư đoàn 5 của Quân khu 7 cũng đã tới nơi.
Tro
cốt của những ngườ lính Việt Nam cũng được đem về nước khi Việt Nam
rút quân khỏi Campuchia
Ngày hôm sau, Trung đoàn 24 lại hành quân 100 km nữa đánh chiếm thị xã Sisophon nằm cách biên giới Thái Lan
50 km. Ngày 12 tháng 1, (sau khi trao lại thị xã cho lực lượng Quân khu
5) trung đoàn 24 một tiểu đoàn của Trung đoàn 66 cùng một đại đội xe
M-113, pháo phòng không và trọng pháo theo theo đường 5 phía nam
Sisophon đánh vào các lực lượng Khmer Đỏ đang tập trung về Battambang và
chiếm thành phố ngay trong ngày hôm đó. Ngày 13 tháng 3 năm 1979, tướng Kim Tuấn
di chuyển Bộ chỉ huy Quân đoàn 3 đến Battambang để trực tiếp chỉ huy
chiến dịch truy quét tàn quân Pol Pot tập trung ở vùng tây nam gần biên
giới Thái Lan. Ba ngày sau, ông rời Battambang để đi Siem Reap, trên
đường đi khoảng 40 km về hướng bắc Battambang, đoàn xe của ông bị Khmer
Đỏ phục kích. Mặc dù lực lượng phục kích bị đè bẹp,
chiếc com-măng-ca thứ 3 có Tư lệnh Kim Tuấn ngồi bên cạnh người lái xe
bị trúng đạn M79 khiến ông bị thương nặng vùng cột sống và mất ngày hôm
sau, ngày 17 tháng 3. Ông là sĩ quan cao cấp nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam
hy sinh khi tham chiến ở Campuchia. Ba tháng sau, tháng 6 năm 1979,
Quân đoàn 3 của ông rời Campuchia để tham gia phòng thủ biên giới phía
bắc với Trung Quốc. Trận đánh quan trọng đầu tiên trong chiến dịch bình định diễn ra tại Kampong Speu, nằm trên quốc lộ 4
nối hải cảng Kampong Som với Phnom Penh, cách Phnom Penh khoảng 50 km.
Thị xã này, sau khi quân Khmer Đỏ di tản vội vã, do Trung đoàn 10 thuộc
Sư đoàn 339 Việt Nam chiếm đóng. Nhưng ít ngày sau, các lực lượng còn
lại của các Sư đoàn 703, 340, 221 từ tuyến phòng thủ Svay Rieng chạy về
đã tập trung lại và dự định tái chiếm thị xã. Được tin, Bộ tư lệnh Quân
đoàn 4 điều động Sư đoàn 341 đến tăng cường. Trận đánh bắt đầu ngày 21
tháng 1 năm 1979 đến ngày 7 tháng 2 mới kết thúc. Dù bị tổn thất nặng,
quân Việt Nam vẫn giữ được Kampong Speu, các lực lượng của 3 sư đoàn
Campuchia bị tan rã, chỉ còn là những nhóm nhỏ hoặc tiếp tục đánh du
kích, hoặc rút về biên giới Thái Lan. Giữ vững được Kampong Speu, bảo đảm được giao thông trên quốc lộ 4,
quân Việt Nam tiến đánh căn cứ Amleng, nơi mà bộ chỉ huy quân sự của Pol
Pot từ Phnom Penh rút về trú đóng. Căn cứ này nằm trong một vùng rừng
núi hiểm trở, cách Phnom Penh khoảng 100 km về phía tây nam. Lực lượng
tấn công gồm Sư đoàn 2, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9, Sư đoàn 341 của Quân đoàn
4, được tăng cường thêm Sư đoàn 5 của Quân khu 7. Vì lực lượng tấn công
quá hùng hậu, quân Khmer Đỏ rút lui, bỏ lại căn cứ Amleng,
nhưng họ tìm đủ cách để gây khó khăn và tổn thất cho quân Việt Nam khi
họ rút lui khỏi căn cứ bằng đủ mọi cách như phục kích, bắn tỉa, gài mìn,
đốt rừng... Chiếm xong được Amleng, quân Việt Nam mở chiến dịch đánh chiếm thị xã Leach.
Leach là một thị xã nhỏ nằm gần quốc lộ số 5 là con đường từ Phnom Penh
đi Battambang, cách biên giới Thái Lan khoảng 80 km. Trước ngày 7 tháng
1, Leach được Khmer Đỏ sử dụng làm căn cứ tiếp liệu. Sau khi Phnom Penh
thất thủ, khi quân Việt Nam chưa có đủ thì giờ để chiếm đóng hết các vị
trí, Khmer Đỏ dự định biến Leach thành một căn cứ phản công. Một phần
lớn những lực lượng còn lại được tập trung tại đây. Tuy quân số gồm
nhiều sư đoàn (104, 210, 260, 264, 460, 502), nhưng trên thực tế, mỗi sư
đoàn chỉ còn chưa tới một ngàn quân. Lực lượng phòng thủ cũng có vài khẩu pháo 105 ly và vài xe thiết giáp. Để tấn công Leach, quân Việt Nam đã sử dụng một lực lượng lớn và tấn
công làm bốn hướng. Hướng thứ nhất, do Sư đoàn 341 thay thế Sư đoàn 330
đã bị hao hụt quân số quá nhiều khi giải toả quốc lộ số 5, đánh chiếm
thị xã Pursat
để từ đó đánh vào mặt bắc của Leach. Hướng thứ hai do Sư đoàn 9 từ căn
cứ Amleng mới chiếm được đánh vào phía đông. Hướng thứ ba do Quân khu 9
phụ trách được tàu đổ bộ chở đến tỉnh Kokong,
rồi từ đó, tấn công mặt nam. Hướng thứ tư, do Sư đoàn 31, Quân đoàn 3,
từ biên giới Thái Lan theo tỉnh lộ 56 đánh ngược về mặt tây của Leach. Vì đây là một trận quyết định, nên trận đánh đã kéo dài trên một
tháng. Tất cả các sư đoàn tham chiến đều bị tổn thất nặng. Cuối cùng, vì
hoả lực thua kém, bệnh tật, bị hao hụt lực lượng mà không được bổ sung
nên căn cứ Leach của Khmer Đỏ bị Sư đoàn 9 chiếm được ngày 29 tháng 4
năm 1979. Trận đánh tại căn cứ Leach là trận đánh có quy mô lớn cuối
cùng trên đất Campuchia. Sau khi Leach bị mất, các đơn vị còn lại của
Khmer Đỏ rút về các mật khu ở Pailin và Tasanh sát biên giới Thái Lan. Một số khác phân tán thành những đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích.
Quân dân An Giang bám chốt ngăn chặn quân Polpot xâm lược.Hình ảnh do Kiến Thức chụp lại tại Nhà trưng bày Tội ác Khmer Đỏ ở Ba Chúc (thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, An Giang).
Trung đoàn 6 pháo binh Quân khu 9 chi viện cho bộ binh, giáng những đòn sấm sét vào kẻ thủ
Bộ binh Sư đoàn 330 phối hợp đội hình xe tăng với Trung đoàn 26 cao xạ đánh trận Phú Cường, An Giang năm 1978.
Lực lượng vũ trang của ta áp giải 20 tù binh Khmer Đỏ tại núi Phú Cường ngày 18/1/1978.
Campuchia được giải phóng khỏi chế độ diệt chủng ngày 7-1-1979 - Ảnh tư liệu
Giữa tháng 3, quân Việt Nam mở chiến dịch mới đánh chiếm căn cứ
Tasanh, nằm ở phía nam Pailin. Tới 28 tháng 3, căn cứ này thất thủ,
khiến cho "đại sứ quán" Trung Quốc đóng tại đây phải sơ tán về vùng núi
cao. Ban lãnh đạo Khmer Đỏ tại đây cũng bỏ chạy, bỏ lại một phần tài
liệu, xe cộ, vũ khí, lương thực dự trữ và 3.000 tấn đạn dược. Các đơn vị của Việt Nam bắt đầu phân nhiệm để hành quân bình định.
Nhiều sư đoàn thiện chiến đã bị hao hụt nặng được rút về nước. Những sư
đoàn tân lập được gửi qua tăng cường hay thay thế. Phía Việt Nam cho
biết, tới cuối tháng 1 năm 1979, quân Việt Nam đã có tới 8.000 thương
vong. Về phía quân Khmer Đỏ dù bị thiệt hại nặng vẫn còn khoảng 30.000
quân có còn khả năng quấy phá, phục kích, gây mất ổn định khiến Việt Nam
phải duy trì một lực lượng quân sự lớn tại Campuchia. Ngày 5 tháng 1 năm 1979, 66 đại biểu Campuchia được triệu tập họp ở
Mimot để bàn về việc thành lập một đảng cộng sản Campuchia mới. Đảng này
lấy lại tên Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia có từ thời 1951. Pen Sovann, một cán bộ Campuchia tập kết về Hà Nội năm 1954, được đề cử giữ chức chủ tịch đảng. Những Uỷ viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thang, Chan Kiri, Heng Samrin và Chia Soth. Ngày 8 tháng 1 năm 1979, đài phát thanh Phnom Penh loan báo Phnom
Penh đã được giải phóng bởi những lực lượng cách mạng và nhân dân
Campuchia. Một Hội đồng cách mạng được thành lập do Heng Samrin làm chủ
tịch. Khoảng mười ngày sau, hội đồng này ký một hiệp ước với Việt Nam,
hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia. Tới mùa xuân 1981, hiến pháp
mới của Campuchia được thông qua, sau đó là cuộc bầu cử toàn quốc để
chọn ra 117 đại biểu quốc hội. Hun Sen được bầu làm Bộ trưởng Ngoại
giao, Heng Samrin làm Chủ tịch nước. Ba sư đoàn mới được thành lập và
đặt dưới Bộ Quốc phòng, nhưng an ninh vẫn được duy trì chủ yếu dựa vào
sự hiện diện của 180.000 quân Việt Nam (mà lực lượng chủ chốt là Quân
đoàn 4) do thượng tướng Lê Đức Anh chỉ huy. Chính quyền mới của Campuchia chỉ được một số nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa công nhận. Chính phủ của Pol Pot tiếp tục được các nước phương Tây, Trung Quốc và khối ASEAN công nhận và vẫn là thành viên Liên hiệp quốc. Campuchia bị mất, Thái Lan
trở nên một địa bàn chiến lược quan trọng để Trung Quốc có thể giúp đỡ
cho Khmer Đỏ tiếp tục cuộc chiến. Sau khi họp xong với Ieng Sary, Đặng Tiểu Bình bí mật cử Cảnh Biểu, Ủy viên Bộ Chính trị, cùng Thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long sang Bangkok hội đàm với Thủ tướng Thái Kriangsak Chomanan tại căn cứ không quân Utapao.
Sau khi Việt Nam liên minh với Liên Xô và tấn công Campuchia, Thái Lan
không còn giữ thái độ trung lập nữa, Kriangsak đồng ý để Trung Quốc dùng
lãnh thổ Thái Lan tiếp tế cho Khmer Đỏ. Thủ tướng Thái Kriangsak cũng tìm kiếm hỗ trợ từ Washington nhằm ngăn
ngừa Hà Nội. Để biểu thị sự ủng hộ Thái Lan, Hoa Kỳ chuyển giao cho
Thái số lượng đạn dược trị giá $11.3 triệu dollar tồn kho tại Thái từ
thời chiến tranh Việt Nam.
Chính quyền Carter cũng hứa hẹn thúc đẩy việc chuyển giao chiến đấu cơ
F-5E và các loại vũ khí hiện đại khác mà Thái đã đặt mua, và tăng lượng
vũ khí bán cho Thái từ mức 30 triệu dollar một năm lên 50 triệu. Tuy
vậy, trong trường hợp chiến tranh nổ ra, quân Thái vẫn không phải là đối
thủ của Việt Nam. Với lực lượng 141.000 quân, số lượng quân Thái chỉ
bằng 1/4 quân Việt Nam, và họ không có được kinh nghiệm chiến đấu như
quân Việt Nam. Việt Nam hy vọng có thể nhanh chóng truy quét và tiêu diệt tàn quân
Khmer Đỏ trước khi mùa khô 1979-1980 kết thúc, nhưng tàn quân Khmer Đỏ
đã phân tán rải rác trong các trại tị nạn dọc biên giới Thái
Lan-Campuchia. Tổ chức cứu trợ khẩn cấp Campuchia
của Mỹ, dựa vào đại sứ quán Mỹ tại Bangkok, đã nuôi dưỡng và hỗ trợ
Khmer đỏ để tiếp tục chống lại chính phủ mới của Campuchia do Việt Nam
hậu thuẫn. Dưới sức ép của Mỹ, Chương trình Lương thực thế giới
đã cung cấp lương thực cho 20.000 đến 40.000 lính Khmer đỏ. Suốt một
thập kỷ sau đó, cơ quan tình báo quân đội Mỹ đã giúp Khmer đỏ do thám
qua vệ tinh, đồng thời các lực lượng đặc nhiệm của Mỹ và Anh hướng dẫn
quân Khmer đỏ đặt hàng triệu quả mìn bộ binh khắp miền Tây Campuchia Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng dùng quyền của mình ở Liên Hiệp quốc để giữ
ghế đại diện cho Khmer Đỏ. Chính quyền Pol Pot dù chỉ còn là một nhóm
du kích trong rừng nhưng lại được coi là đại diện hợp pháp duy nhất của
người dân Campuchia.
Đại tướng Phạm Văn Trà (thứ tư từ trái sang) trong một lần đi kiểm tra
tình hình đảo Thổ Chu - Ảnh tư liệu gia đình đại tá Đào Phúc Lâm,
nguyên đảo trưởng Thổ Chu
Đọc cuốn sách Đời chiến sĩ của đại tướng Phạm Văn Trà, chúng tôi cứ ám
ảnh mãi bởi một câu chuyện bi thương nhắc lại trong hồi ký của ông: “Với tâm trạng rất buồn, anh Ba Trung (phó tư lệnh Quân khu 9, chỉ
huy trưởng chiến dịch giải phóng các đảo thuộc vùng biển Tây Nam)
truyền đạt nhiệm vụ mà như tâm sự, như giãi bày một phẫn uất: “Tình hình
xấu quá rồi. Quân Pol Pot đã chiếm một số đảo của ta hơn một tháng nay.
Chúng tàn sát đồng bào ta rất dã man. Được Tư lệnh Quân khu phân công
trực tiếp giải quyết tình hình các đảo, vừa rồi tôi đã sử dụng một lực
lượng của quân khu, có hải quân tăng cường đổ bộ bí mật lên đảo Thổ Chu,
bất ngờ tiêu diệt gọn một tiểu đoàn Pol Pot, bắt 300 tên. Nhưng điều
đáng buồn là khi ta giải phóng đảo, quân Pol Pot đã sát hại trên 500 bà
con ta sinh sống lâu đời ở đây”.
Huy hiệu vì nghĩa vụ quốc tế.
Những ngày tiến đánh bè lũ Pol Pot tại KamPong Chhnang.
Truy quét tàn dư của chế độ diệt chủng.
Máy bay trực thăng Mi-8 của không quân Việt Nam
Máy
bay vận tải An- 26 không quân Việt Nam, trong cuộc chiến tranh bảo vệ
đất nước Campuchia đã từng là máy bay ném bom gây khiếp đảm cho lực
lượng diệt chủng Khmer Đỏ
Trung Quốc tích cực hỗ trợ Khmer Đỏ với ngân khoản 80 triệu dollar hàng năm, và vận động Hoa Kỳ viện trợ cho các phe đối lập.
Hoa Kỳ tiếp tục tiến hành cấm vận kinh tế với Việt Nam, và từ khi quân
Việt Nam tiến vào Phnom Penh, hủy bỏ đàm phán bình thường hóa quan hệ
với Việt Nam. Các khoản viện trợ cho Việt Nam và chính quyền Phnom Penh
đều bị ngưng lại. Hoa Kỳ và đồng minh gây áp lực để cả Ngân hàng phát
triển châu Á (Asian Development Bank) và Ngân hàng thế giới (World Bank) ngưng các khoản vay cho Việt Nam và Campuchia. Thái Lan
đồng ý cho lực lượng Khmer Đỏ thiết lập căn cứ tại vùng biên giới. Để
hỗ trợ Khmer Đỏ, liên minh không chính thức giữa Trung Quốc và Thái Lan
đã thiết lập một tuyến đường bí mật trên đất Thái tiếp tế cho Khmer Đỏ.
Tàu Trung Quốc chở vũ khí đạn dược đến các cảng Sattahip và Klong Yai,
từ đó, quân đội Thái chuyển hàng đến cho các trại đóng quân của Khmer
Đỏ dọc theo biên giới Thái Lan - Campuchia. Sứ quán Trung Quốc tại
Bangkok phối hợp với các thương gia người Thái gốc Hoa cùng quân đội
Thái chịu trách nhiệm cung cấp lương thực, thuốc men, và hàng dân dụng
cho Khmer Đỏ. Đổi lại, Trung Quốc trả phí vận chuyển cho quân đội Thái
và cho phép quân đội Thái giữ lại một phần vũ khí. Trung Quốc cũng
chuyển giao cho Thái công nghệ chế tạo vũ khí chống tăng với điều kiện
một phần sản lượng sẽ được chuyển cho Khmer Đỏ. Ngoài hỗ trợ khổng lồ mà Bắc Kinh dành cho Khmer Đỏ, Trung Quốc cũng
cung cấp viện trợ cho các phe phái đối lập khác ở Campuchia như KPNLF. Nhờ đó, lực lượng quân sự của các phái này có lúc đã phát triển lên gần 30 ngàn. Lực lượng Việt Nam vừa phải chống lại Khmer Đỏ, vừa phải chống lại quân đội của các phe phái đối lập này. Nhờ có sự giúp đỡ về vũ khí, lương thực của Trung Quốc, Hoa Kỳ và các căn cứ do Thái Lan
cung cấp, từ tình trạng chỉ còn là những nhóm du kích hồi cuối năm
1979, đến cuối năm 1980 lực lượng Khmer Đỏ đã hồi phục sức mạnh, với
quân số tăng lên khoảng 20.000 tới 40.000. Đến cuối năm 1981, chiến
tranh du kích của Khmer Đỏ thực hiện tại Campuchia đã lan rộng mạnh mẽ
tại những khu vực rộng lớn. Được Việt Nam hậu thuẫn, ngày 8 tháng 1 năm 1979 Hội đồng Nhân dân Cách mạng nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin
làm Chủ tịch đã được thành lập. Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia về
danh nghĩa là đảng cầm quyền tại Campuchia. Nhưng tổ chức này mới được
thành lập nên chưa đủ sức bảo vệ chính phủ mới khỏi trước sức mạnh quân
sự của Khmer Đỏ. Hàng ngàn công chức và kỹ thuật viên Việt Nam đã được đưa sang
Campuchia để khôi phục hệ thống điện, nước ở Phnom Penh, đưa hệ thống
đường sắt vào hoạt động trở lại. Các bệnh viện và trạm xá được mở lại
với các bác sĩ dân y và quân y Việt Nam cùng một số bác sĩ Campuchia còn
sống sót qua thời Khmer Đỏ. Hàng trăm người Campuchia được gửi sang
Việt Nam học các khóa cấp tốc về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, ngân hàng,
ngoại thương, và an ninh. Từ năm 1979 đến giữa năm 1985, quân đội Việt Nam thực hiện các chiến
dịch quân sự truy quét đánh phá các căn cứ của Khmer Đỏ. Tháng 1 năm
1980, chiến dịch quân sự nhằm vào Khmer Đỏ tại Phnom Chhat bắt đầu. Các
cuộc đụng độ giữa các lực lượng NCR và quân Việt Nam cũng diễn ra và lan
sang cả lãnh thổ Thái Lan. Thời gian này, Khmer Đỏ bắt đầu tái xâm nhập
Campuchia từ Thái Lan với khoảng 3-4 ngàn quân. Khi mùa mưa tới, Khmer
Đỏ đã tái tổ chức lực lượng, chỉ huy và huấn luyện, bắt đầu các cuộc
giao tranh quy mô nhỏ như đánh du kích, phục kích, pháo kích quấy rối. Lực lượng Việt Nam và chính phủ Phnom Phênh tiếp tục truy đuổi và
giáng những đòn nặng nề vào các nhóm chống đối. Năm 1982, trong một
chiến dịch dữ dội nhất kể từ khi quân Việt Nam tiến vào lật đổ Khmer Đỏ,
sư đoàn 7 Việt Nam đánh vào trại Sokh San của KPNLF, buộc họ phải bỏ
chạy vào Thái Lan. Tới tháng 7 năm 1982, Việt Nam tuyên bố sẽ rút quân
từng phần khỏi Campuchia đơn phương và vô điều kiện. Ngay lập tức, các lực lượng đối lập tăng cường các hoạt động quân sự. Quân Khmer Đỏ tăng cường hoạt động vũ trang tại các tỉnh Kampot, Takeo, Kampong Cham và Kampong Thom
Sự yếu ớt của quân đội chính phủ Phom Penh khiến họ không thể chống đỡ
được sự trỗi dậy của Khmer Đỏ. Tình hình quân sự tại Campuchia trong năm
1983 trở nên xấu đi, buộc Việt Nam phải ngừng việc rút quân khỏi
Compuchia. Tương quan lực lượng năm 1984 là Việt Nam có khoảng 180 ngàn quân tại
Campuchia, so với khoảng 17 ngàn quân của KPNLF, và khoảng 30-50 ngàn
quân Khmer Đỏ và khoảng 5 ngàn quân thuộc lực lượng Sihanouk.
Tuyến phòng thủ Svay Rieng bị vỡ ngày 2 tháng 1 năm 1979.
Càng tiến sâu vào Campuchia, tội ác của bè lũ Pol Pot càng hiện rõ trước
mắt. Ông Đinh Trọng Vinh cùng những đồng đội không khỏi ứa nước mắt căm
phẫn.
Đinh Trọng Vinh những ngày chiến đấu ở Campuchia
Người Campuchia sẽ không bao giờ quên những cảnh tượng khủng khiếp này.
Ông Đinh Trọng Vinh (ngồi giữa), cựu chiến binh Sư
đoàn Bộ binh 9, Quân đoàn 4 – Binh đoàn Cửu Long anh hùng từng chiến đấu
trong lực lượng quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia.
Tới mùa khô năm 1984 - 1985, Việt Nam huy động khoảng 60 ngàn quân
cho chiến dịch tấn công quyết định nhằm triệt hạ các căn cứ của Khmer Đỏ
nằm gần Thái Lan, cùng với hàng chục ngàn dân công Campuchia xây đường
và mở rộng các sân bay dã chiến tại khu vực biên giới. Cuối tháng 12 năm
1984, khoảng 1.000 quân Việt Nam đánh hạ căn cứ Nong Samet. Tháng 1 năm 1985, khoảng 4.000 quân Việt Nam, với hơn 30 xe tăng và xe bọc thép hỗ trợ, đánh vào căn cứ Ampil của lực lượng Mặt trận Nhân dân Giải phóng Quốc gia Campuchia
(KPNLF) với 5.000 quân phòng ngự và triệt hạ hoàn toàn căn cứ này sau
36 giờ. Quân Việt Nam và quân chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia cũng
mở chiến dịch tấn công căn cứ lớn có gần 10.000 quân Khmer Đỏ đóng giữ
tại Phnom Malai,
nơi mà họ từng định đánh chiếm năm 1982 nhưng bất thành, và đã triệt hạ
căn cứ này sau 2 ngày giao tranh. Chiến dịch mùa khô năm 1984-85 là
chiến dịch lớn chưa từng có của Việt Nam kể cả về quy mô, thời gian và
mức độ thành công. Sau các chiến dịch 1984-85 của Việt Nam, lực lượng đối lập bị nhiều
tổn thất. Liên quân KPNLF và Khmer Đỏ ước tính đã bị mất khoảng 1/3 lực
lượng do thương vong và đào ngũ.
Liên minh này mất toàn bộ các căn cứ trên đất Campuchia, trong đó có
thủ đô lâm thời đặt tại một ngôi làng có tên Phum Thmei trong rừng sát
biên giới Thái Lan. Khmer Đỏ rút một phần về Thái Lan, một phần chia nhỏ
và ẩn trong nội địa. Hai phe Sihanouk và Son Sann rút hẳn vào trong
lãnh thổ Thái Lan. Chiến dịch truy quét quy mô lớn kéo dài 5 tháng của
Việt Nam đã chấm dứt hy vọng lật ngược tình thế của Khmer Đỏ và KPNLF.
Kể từ cuối năm 1985, các lực lượng này về cơ bản không thể là mối đe
dọa lớn đối với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia được nữa. Ngày 16 tháng 8 năm 1985, thông cáo của cuộc họp các bộ trưởng ngoại
giao ba nước Đông Dương tại Phnom Penh tuyên bố Việt Nam sẽ rút quân
hoàn toàn khỏi Campuchia, quá trình rút quân sẽ hoàn thành năm 1990. Tháng 06 năm 1988, trên cơ sở trưởng thành của quân đội Campuchia và với sự thỏa thuận của giữa Việt Nam và Campuchia,
Việt Nam đã rút toàn bộ chuyên gia dân sự và đến tháng 9 năm 1989, Việt
Nam rút toàn bộ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam về
nước. Sau khi quân tình nguyện Việt Nam rút hết, lúc đầu phía Campuchia
có lúng túng trước các hoạt động giành dân, chiếm đất của Khmer Đỏ và
đồng minh nhưng dần dần Campuchia vươn lên làm chủ tình hình, kiểm soát
trên 90% lãnh thổ. Năm 1992-1993, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc Campuchia
(UNTAC - United Nations Transitional Authority in Cambodia) tạm thời
quản lý Campuchia. Trong
thời kỳ đóng quân tại Campuchia, quân đội và chuyên gia Việt Nam đã
giúp hàng chục vạn, hàng triệu dân tiều tụy đói khát, trở về quê cũ,
khôi phục sản xuất, làm lại nhà cửa, trường học, chùa chiền. Nhân dân
Campuchia đã dấy lên một cao trào quần chúng hồi sinh từng người, từng
gia đình, từng thôn ấp và hồi sinh toàn dân tộc.
Quân đội và chuyên gia Việt Nam đã giúp những người dân này sửa lại
nhà, ai không còn nhà thì dựng lại nhà, làm sạch giếng cho người dân
Campuchia uống, nhường gạo cho người dân Campuchia ăn, khôi phục và sửa
chữa lại trường học. Lực lượng ngành y của Việt Nam đi cùng bộ đội thời
bấy giờ thì chữa bệnh cho người dân Campuchia. Dần dần trường lớp, làng
mạc, bệnh viên, trường học… được khôi phục lại. Bộ quốc Phòng đã chỉ đạo
hành động theo từng giai đoạn. Theo đó, giai đoạn đầu do người dân
Campuchia chưa có gì, Việt Nam sẽ thực hiện “Việt Nam làm giúp
Campuchia”- nghĩa là đánh giặc cũng Việt Nam, giúp dân sản xuất cũng
Việt Nam, xây dựng chính quyền cũng Việt Nam (bởi khi đó chính quyền của
Campuchia đã bị Khmer Đỏ phá hủy). Khi người dân Campuchia đã có cơ sở,
Việt Nam chuyển sang khẩu hiệu “Ta, bạn cùng làm”. Giai đoạn ba là “Bạn
làm ta giúp”- nghĩa là người dân Campuchia đã đủ khả năng, người dân
Campuchia yêu cầu tới đâu Việt Nam giúp tới đó. Cuối cùng, khi người dân
Campuchia thực sự lớn mạnh thì Việt Nam rút toàn bộ quân tình nguyện về
nước để người dân Campuchia tự đảm đương.
Việt Nam và Campuchia từ trong kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ đã có tình đoàn kết chiến đấu. Tuy nhiên,
khi kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc, tập đoàn Khmer đỏ liền phản bội.
Chúng đã đưa quân đánh sang biên giới Việt Nam gây xung đột rồi phát
triển thành chiến tranh tổng lực. Xuất phát từ đâu mà Pol Pot trở mặt
như vậy?Chúng ta hãy đọc bản nghị quyết ra hồi tháng 6/1977 của tập đoàn Pol
Pot: “Duôl (An Nam) sau chiến tranh còn gặp nhiều khó khăn chồng chất,
kinh tế kiệt quệ, chính trị thì nội bộ mâu thuẫn, ở miền Nam chính quyền
chưa vững, tàn quân và tổ chức chính trị chống đối của Thiệu còn nhiều,
đang hoạt động phá hoại…
Về quân sự, Duôl có quân đội mạnh, có
kinh nghiệm chiến đấu, trang bị phương tiện nhiều, song sau khi thống
nhất thì tinh thần quân đội sút kém…. Tuy mạnh về quân sự nhưng yếu về
chính trị, đang gặp nhiều khó khăn nên không đủ sức mạnh đánh lại chúng
ta…Về chiến lược thì bị kiềm chế, không dám tấn công sâu qua đất nước
Kampuchia…”
Thiếu tướng Bùi Cát Vũ trong thiên ký sự
Đường vào Phnom Penh kể rằng, ông đã đọc được bản nghị quyết của tập
đoàn Pol Pot. Ông có nó từ một sĩ quan Campuchia.
Lính Khmer Đỏ chuẩn bị giết 1 tù nhân. Hình ảnh hãi hùng khiến người xem căm giận đến tột độ.
Tôi không rõ những bức tượng kim loại trong chiếc cũi sắt kia là ai và
cũng không kịp hỏi song có vẻ chúng là hình ảnh của những "lãnh tụ"
khơme đỏ.Cuối cùng chúng cũng bị nhốt chung vào một rọ ở chính nơi mà họ
đã tạo ra thảm họa diệt chủng tàn sát chính dân tộc mình.Đúng là nhân
quả,gieo gió ắt phải gặp bão !
Quá khứ rồi sẽ lùi sâu vào dĩ vãng,song tội ác diệt chủng với gần 2
triệu người bị ghết mà Tuol Sleng là điển hình của sự dã man tàn bạo sẽ
mãi là vết nhơ trong lich sử một dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét