TT&HĐ III - 32/+++


 
CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM 1975 - BẢN HÙNG CA BẤT TỬ
                                            

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


.


CHƯƠNG XI (XXXII): ANH HÙNG


Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn

Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn


"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
-Albert Einstein
 
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh

"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
 
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!” 
                                                          Hồ Chí Minh

"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
                                                          Phạm Khắc Hòe

 

 

(Tiếp theo)


***
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là cuộc chiến tranh kéo dài nhất trong số 8 cuộc chiến tranh của nước Mỹ: 11 năm 1 tháng (cuộc chiến tranh kéo dài đứng hàng thứ hai là cuộc nội chiến Nam - Bắc cũng chỉ có 4 năm). Nhưng cuộc chiến tranh đó đã đem lại lợi ích gì cho nước Mỹ? Chỉ là một con số 0 to tướng nếu không kể những tội ác và những tàn phá mà nó gây ra. Không những thế nó đã làm cho nước Mỹ phải hao người, tốn của ghê gớm và phải chuốc lấy một nỗi hổ thẹn ê chề do tính ngạo mạn, mù quáng gây ra. Chúng ta có thể liệt kê ra những hổ thẹn ấy:
1 - Cường quốc số 1, giàu có nhất thế giới đã thực sự thua trận trước một nước nhược tiểu, nghèo nàn và lạc hậu.
Chỉ vì một não trạng hoảng sợ trước một điều hoang đường là sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Nam Á mà Mỹ đã gây ra chiến tranh ở Việt Nam. Và còn vì điều như Allman viết trong “Hai mươi năm dính líu của Mỹ ở Đông Dương: Điều mỉa mai của lịch sử nước Mỹ”, như sau:
“Một sai lầm dai dẳng suốt ¼ thế kỷ của chính sách Mỹ là dựa vào niềm tin không suy suyển về sức mạnh của Mỹ có thể tự tạo ra cho nó tính hợp pháp và làm được tất cả.
Từ Rostow, Achesơn, Dean Rusk đến Kissinger đều có những lời nói như: “Chúng ta là nước hùng mạnh nhất thế giới”, “không một nước châu Á vùng nhiệt đới nào nhỏ bé, nghèo nàn, không phải là người da trắng mà lại không bị gục ngã trước hỏa lực của Mỹ nếu như thời gian ném bom đủ dài, nếu như con số người chết cứ cộng mãi vào đủ lớn”.
Toàn cảnh lễ ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam, 27.1.1973 (Ảnh tư liệu)

Ngày 3/6/1968, đông đảo các chính khách và Việt kiều tại Paris ra sân bay Bretigny (Pháp) đón đ/c Lê Đức Thọ, Cố vấn đặc biệt của đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị Paris. Ảnh: Văn Lượng-TTXVN.
Sáng 4/11/1968, Đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Bà Nguyễn Thị Bình, Phó Trưởng đoàn dẫn đầu đến Paris (Pháp) dự Hội nghị bốn bên về Việt Nam. Ảnh: Văn Lượng-TTXVN.
Chữ ký của các các bên trong Văn bản Hiệp định Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu TTXVN.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đón Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Duy Trinh ở Phủ Chủ tịch sau khi ký Hiệp định Paris trở về Việt Nam. Đông đảo đại diện các đoàn ngoại giao đến chúc mừng, chia vui trước thắng lợi lịch sử của nhân dân ta. Ảnh: Tư liệu - TTXVN.
Quang cảnh Cuộc nói chuyện chính giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Hoa Kỳ về hòa bình tại Việt Nam tại Phòng họp Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở Paris ngày 13/5/1968. (Đoàn Việt Nam ngồi phía bên phải). Ảnh Tư liệu – TTXVN.
Ngày 9/5/1968, đông đảo kiều bào Việt Nam và nhân dân Paris cùng các phóng viên quốc tế tập trung tại sân bay Bourget đón đồng chí Xuân Thủy, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến tham dự cuộc đàm phán với đại diện Chính phủ Mỹ về hòa bình tại Việt Nam. Ảnh Tư liệu – TTXVN.
Ngày 25/01/1969, Hội nghị bốn bên về Hòa bình tại Việt Nam chính thức khai mạc phiên toàn thể đầu tiên, gồm 4 đoàn đại biểu: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Ảnh:Tư liệu - TTXVN.
Thái độ lật lọng và hành động leo thang chiến tranh của chính quyền Mỹ đã gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ khắp thế giới. Ngày 20/01/1973, cùng với hàng trăm cuộc biểu tình chống chiến tranh nổ ra ở nhiều nước trên thế giới, nhân dân Mỹ tổ chức biểu tình lớn ở Thủ đô Oasinhtơn, trong khi Richard M.Nixon làm lễ nhậm chức Tổng thống, đòi Mỹ ký ngay Hiệp định hòa bình, chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Ảnh: Tư liệu - TTXVN.
Thực hiện Hiệp định Hòa bình Paris, trong hai ngày 28 và 29/3/1973, tại sân bay Gia Lâm, 107 nhân viên quân sự Mỹ (đợt cuối cùng) được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trao trả cho Hoa Kỳ. Ảnh: Văn Bảo - TTXVN.
Trong tiểu luận “Điều mỉa mai trong lịch sử nước Mỹ”, Niebluer, một nhà thần học đã kết luận: “Điều mỉa mai không phải là đến tận phút chót (của thất bại), nhiều người Mỹ vẫn tưởng là mình đang thắng, mà là gần như một thời gian dài, người ta vẫn tưởng rằng thắng lợi chỉ cần cố gắng một chút là có thể giành lấy… Chúng ta chưa hề bao giờ tiên đoán là nước hùng mạnh nhất trái đất lại phải chịu đựng cái điều ước mơ làm chủ lịch sử và bị cự tuyệt một cách mỉa mai đến như vậy”.
Trong “Mỹ đã kiệt sức vì chiến tranh Việt Nam” (Tuần tin tức, 8-2-1973) có viết: “Sự thất bại đầu tiên và đau đớn nhất trong lịch sử quân sự Mỹ”“Một cuộc chiến tranh không sản sinh ra chiến thắng huy hoàng, không sản sinh ra anh hùng dân tộc, và không sản sinh ra những bài ca rung động lòng người…”.
Theo Don Luce, J. Sonner: “Thất bại của Mỹ ở Việt Nam chủ yếu là do không hiểu biết, không nắm được tư tưởng, ý nghĩa và tính cách của người Việt Nam mà đã dùng vũ lực tàn bạo. Ở Việt Nam, người Mỹ không mù quáng nhưng họ là những người điếc và câm”.
2 - Cuộc chiến tranh Việt Nam làm xuất hiện nhiều mâu thuẫn gay gắt nhất, nhiều sự bội tín và lừa dối nhất trong chính giới Mỹ, bị toàn thể loài người tiến bộ, kể cả nhân dân Mỹ oán trách, chê cười, nguyền rủa:
Tướng tư lệnh chiến trường Oétmolen, từ một người thận trọng; có phần khiêm tốn, do được tâng bốc lên tận mây xanh, được chính quyền Giônxơn đặt toàn bộ hy vọng vào tài năng ông ta nên cũng được “cưng chiều”, được chu cấp đầy đủ nhất mọi thứ mà ông ta đòi hỏi, đã trở thành kẻ huênh hoang, phát biểu nhiều lời khinh xuất, để rồi mau chóng trở thành kẻ tội đồ, bị chính những người tâng bốc quay lại chửi bới thậm tệ. Ông này không vừa, đổ vấy tất cả trách nhiệm thua trận cho chính phủ Mỹ và như vậy càng làm cho mọi người khinh khi.


Đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa tại lễ ký kết Hiệp định Paris
 (Ảnh tư liệu: BNG)
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam, có lẽ chưa có cuộc đàm phán nào kéo dài như Hội nghị Paris. Gần 5 năm, với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc gặp riêng, đàm phán Paris là cuộc đấu trí giữa hai nền ngoại giao: Việt Nam và Mỹ. Nhìn lại vị thế của Việt Nam kể từ khi bắt đầu bước vào bàn đàm phán đến khi Mỹ đặt bút ký vào Hiệp định Paris, chính thức thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đã có nhiều khác biệt cơ bản. Từ một nước bị giày xéo trong bom đạn, cái mà Việt Nam đem đến bàn đàm phán là một tinh thần quyết chiến quyết thắng, ý chí quật cường đấu tranh bền bỉ bảo vệ chân lý, giành độc lập tự do của cả một dân tộc. Những thắng lợi vang dội trên chiến trường Việt Nam, đặc biệt là cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm của trận “Điện Biên Phủ trên không” là đòn quyết định buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam.
 

Lễ cuốn cờ ở Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ tại Sài Gòn để rút quân ra khỏi Việt Nam (ảnh tư liệu)


Ông Võ Văn Sung, Nguyên trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Pháp cho rằng: Thắng lợi của Hiệp định Paris có 2 vế quan trọng. Thứ nhất, đứng về mặt ngoại giao thì phải bàn bạc, làm cho đúng, cho chủ nhà của Hiệp định Paris là Pháp đồng tình với ta, ủng hộ ta. Thứ hai, làm thế nào để nhân dân thế giới đứng về phía ta. Phải nói rằng, trong 12 ngày đêm bầu trời Hà Nội thì rực lửa bắn máy bay, ngày nào ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp cũng gặp đoàn Việt Nam. Ông rất cần thông tin để có thái độ. Trong 12 ngày đêm đó, nước Pháp là mùa đông nhưng không khí hừng hực tất cả. Hừng hực tình cảm của người dân Pháp, hừng hực tình cảm của bà con Việt kiều, tình cảm của bạn bè quốc tế, bạn bè Tây Âu ủng hộ Việt Nam.


Ông Võ Văn Sung, Nguyên trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, Nguyên Đại sứ
Việt Nam tại Pháp (
Ảnh tư liệu, nguồn: BNG)



Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình
ký Hiệp định Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.


Hiệp định Paris 1973 phản ánh được ở mức cao thắng lợi và xu thế cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong bối cảnh quốc tế có thuận lợi nhưng cũng chứa đựng nhiều phức tạp. Việt Nam đã tranh thủ được cả Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN, các nước không liên kết, nhân dân thế giới và hình thành trên thực tế “mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược”, thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân.

Hiệp định Paris và việc Mỹ rút khỏi Việt Nam góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng của nhân dân Lào và Campuchia. Giải pháp về Lào gần như đồng thời với Hiệp định Paris về Việt Nam, tháng 2/1973. Hiệp định Paris mở đường cho thắng lợi của Campuchia tháng 4/1975.

Đặc biệt, thắng lợi của nhân dân Việt Nam góp phần mở ra cục diện mới ở Đông Nam Châu Á; quân đội Mỹ rút khỏi khu vực; khối SEATO giải tán; xu thế hòa bình, trung lập trong khu vực phát triển.

Hội nghị Paris đã để lại nhiều bài học lớn, trong đó có bài học về ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc và tinh thần đoàn kết quốc tế - bài học còn nguyên giá trị đối với các quốc gia.



Quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam (1973)
những hành động của Mỹ sau khi tuyên bố “chấm dứt chiến tranh” tại Việt Nam vào Tháng 2 năm 1973. Mỹ đã thất hứa khi vẫn hiện diện ở Việt Nam dưới vỏ bọc là cơ quan quản lý dịch vụ (Management Services Division). Và, đối với John Pilger chiến dịch cuối cùng ở Việt Nam bắt đầu từ ngay ngày đầu năm mới 1975, khi quân đội miền Bắc bao vây và chiếm thủ phủ Phước Bình, chỉ cách Sài Gòn có 75 dặm.
Su that hua cua My sau Hiep dinh Paris 1973
Người Mỹ vẫn hiện diện ở Việt Nam sau Hiệp định Paris 1973 
Pilger viết: “Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là “thủ đô tiêu dùng” nhưng chẳng hề sản xuất một mặt hàng nào ngoài chiến tranh. Trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày…”
Su that hua cua My sau Hiep dinh Paris 1973-Hinh-2
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam có ngay trên nước Mỹ 
Một điểm thú vị trước khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, đó là sự rối ren tột cùng tại Sài Gòn lúc ấy. Lệnh tiến hành di tản được đưa ra. Tuy nhiên, Đại sứ Martin vẫn tin rằng “còn thời gian” đàm phán để có một “giải pháp danh dự”. John Pilher miêu tả: “Một đám đông chen lấn ở trước cửa sứ quán Mỹ, có người còn cố trèo tường để vào bên trong. Một số người có mặt ở đây chỉ vì tò mò. Một số khác vừa ôm chặt cánh cổng sắt vừa nài nỉ thủy quân lục chiến Mỹ. Họ đưa ra giấy tờ hoặc thư từ giới thiệu của các quan chức Mỹ”.
Su that hua cua My sau Hiep dinh Paris 1973-Hinh-3
Nhà báo, đạo diễn John Pilger 
Nhà báo John Pilger xúc động nhớ lại cảnh ngủ dưới gầm giường để tránh mảnh pháo, đến sáng lại dạo vòng quanh khu trung tâm, cảm nhận cuộc chiến sắp kết thúc. Trên hết là hình ảnh những người bị tàn phế, những con người đang phải nằm ở bệnh viện và tất cả những hy sinh của họ, ông nghĩ “họ hoàn toàn xứng đáng hưởng một nền hòa bình”.
 
Bộ trưởng Xuân Thủy cùng cố vấn đặc biệt của Việt Nam DCCH Lê Đức Thọ rời cuộc gặp riêng tại địa điểm của đoàn Việt Nam DCCH ở 11 phố Darthe. Ảnh tư liệu
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ với nụ cười thắng lợi tại Hội nghị Paris. Ảnh tư liệu
Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh: Tư liệu



Thái độ lật lọng và hành động leo thang chiến tranh của chính quyền Mỹ đã gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ khắp thế giới. Ngày 20/01/1973, cùng với hàng trăm cuộc biểu tình chống chiến tranh nổ ra ở nhiều nước trên thế giới, nhân dân Mỹ tổ chức biểu tình lớn ở Thủ đô Oasinhtơn, trong khi Richard M.Nixon làm lễ nhậm chức Tổng thống, đòi Mỹ ký ngay Hiệp định hòa bình, chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam
Chính quyền Níchxơn là chính quyền cay cú nhất, lồng lộn nhất, điên khùng nhất. Khi đã giở mọi thủ đoạn đấm đá, hù dọa mà “nhân dân Việt Nam quyết không sợ”, chính quyền Níchxơn bèn giở trò bỉ ổi cuối cùng là tìm kiếm xin xỏ sự trợ giúp từ hai đối thủ tiềm tàng của mình là Liên Xô và Trung Quốc. Chính quyền Níchxơn cũng là chính quyền lừa dối trơ tráo, “khủng khiếp” nhất trong lịch sử nước Mỹ; lừa dối đối phương đã đành, còn lừa dối lẫn nhau, lừa dối đồng minh (chính quyền Thiệu), lừa dối nhân dân Mỹ, lừa dối thế giới và tự huyễn hoặc lừa dối chính bản thân mình về khái niệm “danh dự”. Do đó chính quyền Níchxơn đã gặt hái thất bại ê chề nhất, bị nguyền rủa nhiều nhất trong lịch sử nước Mỹ. Níchxơn là một tổng thống phải tự kết thúc sự nghiệp chính trị của mình một cách đáng xấu hổ nhất, nhục nhã nhất trong các đời Tổng thống Mỹ.
3 - Là một nước đứng đầu về sự hùng mạnh, có những lời tuyên ngôn bất hủ như một chân lý sáng ngời, có vai trò cầm cân nảy mực, gìn giữ trật tự thế giới mà lại hành động một cách hoàn toàn trái ngược, tàn ác ở Việt Nam, một đất nước bé nhỏ, chỉ muốn được thống nhất, độc lập, bình đẳng, tự do mưu cầu hạnh phúc mà trước đó cũng như sau này chưa bao giờ động chạm đến quyền lợi của nước Mỹ.
Một người anh Đồng Minh đã dội xuống đầu người em đi theo Đồng Minh tất cả sức mạnh áp đảo về vũ khí, bom đạn (trừ bom nguyên tử), gây ra biết bao nhiêu sự hủy diệt, đau thương tang tóc cho dân thường vô tội ở cả hai phía một cách hoàn toàn vô tích sự, để rồi phải chịu thất bại không thể chối cãi được, phải ký vào cái không muốn ký mà bỏ của chạy lấy người, bỏ đi, mặc cho “đệ tử” bị “nện” chết, không quay lại cứu mà nói đến danh dự thì thật là nực cười!
Tháng 11-1982 ở Mỹ đặt đài tưởng niệm quân nhân Mỹ đã chết trận ở Việt Nam. Số tên người được khắc trên đó là 57.939. Họ là ai trước khi là quân nhân Mỹ? Là con em nhân dân Mỹ! Tại sao họ bị điều động đến một đất nước nhỏ bé cách nước Mỹ nửa vòng trái đất để chết ở đó, và chết để làm gì, chết cho ai? Có phải là họ chết để bảo vệ quê hương họ, cho sự toàn vẹn lãnh thổ của nước Mỹ không? Chắc rằng đứng trước bức tường tưởng niệm bằng đá hoa cương ấy, không một người Mỹ nào cảm thấy tự hào mà trái lại, chỉ thấy xót thương, tủi nhục.

P.1
Trụ sở phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Paris ở Xoaxylơroa.
Sau thắng lợi của hai mùa khô, ta chủ trương mở mặt trận ngoại giao để phối hợp với mặt trận quân sự nhằm tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ, nêu rõ lập trường chính nghĩa của ta, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của thế giới. Mục tiêu trước mắt là đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom phá hoại miền Bắc. Tháng 3/1968, sau cuộc tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân, Giôn-xơn ra lệnh ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, bắt đầu nói đến việc thương lượng và đàm phán với ta.
P.2
Đoàn Đại biểu Chính phủ Mỹ dự phiên họp khai mạc cuộc hội đàm chính thức giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Mỹ trong Hội nghị Paris ngày 13/5/1968 tại Phòng họp Trung tâm các Hội nghị quốc tế (Đường Kleber, Paris, Cộng hòa Pháp)
P.3
Cuộc gặp riêng giữa ông Lê Đức Thọ với ông Henry Kissinger tại Paris, năm 1973            
P. 4
Quang cảnh Lễ ký Hiệp định Paris, 27/01/1973

P.5
Lễ ký tắt Hiệp định Paris, 23/01/1973
P.6
Ông Lê Đức Thọ và Ông Henry Kissinger trong buổi ký tắt Hiệp định Paris năm 1973

P.7
Ông Lê Đức Thọ và ông Henry Kissnger trao đổi bút ký trên bàn hội đàm
P.10
Ông Lê Đức Thọ, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký thông báo chung với Hoa Kỳ về thực thi Hiệp định Paris, ngày 13/6/1973
P.11
Trao trả tù binh Mỹ ở sân bay Gia Lâm, ngày 18/02/1973
Hình ảnh Hiệp định Paris, nhìn từ người Mỹ phản chiến số 4                              Ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger tại Paris năm 1973. Ảnh: AFP
 
Có thể là vô tình nhưng bức tường đó đã là một chứng tích của tội ác. Tội ác ấy là do ai gây ra nếu không phải là những tập đoàn lãnh đạo nước Mỹ đã gây ra cuộc chiến tranh vô nghĩa ở Việt Nam?
Theo Emtơ (Lời phán quyết về Việt Nam) thì cuối năm 1970, tổ chức “Binh lính đoàn kết chống chiến tranh Việt Nam” đã ra tuyên bố:
“Mười năm qua, đất nước chúng ta tham gia vào một cuộc chiến tranh lâu dài, mòn mỏi, tốn kém và thê thảm ở Việt Nam. Phần đông người Mỹ không ủng hộ cuộc chiến tranh đó, ngày càng có thêm nhiều người phản đối, kể cả những binh sĩ đang làm nhiệm vụ. Chúng tôi, những người lính, chúng tôi buộc phải chịu đau khổ nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam thất bại này. Nhiều người trong chúng tôi bị bắt lính trái với ý muốn của chúng tôi, để thực hiện một cuộc chiến tranh không hợp pháp, không đạo đức và không chính nghĩa”.
Ngày 19-4-1971, 2.000 cựu binh sĩ về Oasingtơn gặp Quốc hội, tại nghĩa địa Arlington đã tổ chức rước đuốc phản đối đến Nhà Trắng. Đỉnh cao là lúc các cựu binh sĩ vứt bỏ các huân chương về Việt Nam của họ trên thềm nhà Quốc hội để phản đối chiến tranh… Các cựu chiến binh cũng đã dẫn đầu những đoàn biểu tình tại Oasinhton, vào ngày 24-4 là 300.000 người, ngày 1-5 là 200.000 người, đòi “Chấm dứt chiến tranh hoặc chấm dứt chính phủ”...
Bản thân Kítxingiơ, trong “Những năm ở Nhà Trắng” có viết: “Tôi nhận được những bức thư lời lẽ gay gắt không thể tưởng tượng được của những người xưa kia đã từng là bạn bè, của những công dân đầy giận dữ. Những lời buộc tội như “phi đạo đức”, “lừa bịp” được tung ra bừa bãi, “dã man” là một tính từ được người ta ưa dùng, nhiều chính phủ nước ngoài cũng lớn tiếng chỉ trích. Chính phủ Thụy Điển so sánh chúng ta với bọn Quốc Xã. Không một đồng minh NATO nào ủng hộ chúng ta”.

Cựu binh tại Washington D.C. phản đối cuộc chiến ở Đông Dương bằng cách vứt huy chương và đồng phục của họ qua hàng rào trước tòa nhà quốc hội Mỹ Capitol. Ảnh: history.com

Năm 1965, khoảng 50 giảng viên đại học tại Michigan, Mỹ tổ chức một diễn đàn để phản đối chiến tranh Việt Nam. 3.000 người tham dự sự kiện này với các hoạt động gồm tranh luận, thuyết giảng và biểu diễn âm nhạc, tất cả nhằm mục đích giáo dục cộng đồng về hòa bình.

"Điều thấy được từ sự kiện này là chúng ta có thể làm nên khác biệt chỉ trong một đêm", Giáo sư triết học Frithjof Bergmannm, nhà tổ chức chính của hoạt động nói. Trong ảnh, giáo sư Frithjof Bergmann (phải) và nhà hoạt động Alan Haber hồi tháng ba tham dự lễ kỷ niệm 50 năm tổ chức sự kiện này. Ảnh: Michigandaily

 

Một nhóm sinh viên nữ tại Đại học California, Berkeley, Mỹ, biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam. Phần lớn phong trào chống chiến tranh bắt đầu từ các trường đại học với các tổ chức như Sinh viên vì một Xã hội Dân chủ (SDS). Ảnh: history.com 
 

Ngày 15/11/1969, hơn 500.000 người đổ xuống đường ở Washington, D.C., tham gia một trong những cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử Mỹ. "Một đội quân bất bình lớn nhưng ôn hòa ​​di chuyển qua thành phố", tờ New York Times vào thời điểm đó đưa tin về sự kiện này. Ảnh: history.com

Ngày 30/4/1970, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố cần điều thêm 150.000 lính đến Việt Nam, dẫn đến các cuộc biểu tình quy mô lớn tại các trường đại học trên khắp nước Mỹ. Ảnh: history.com

Một học giả Nhật là Maruyama Shizuo đánh giá: “Khi tôi gọi nó là “chiến tranh bằng không quân”, tôi muốn đề cập đến một tình trạng trong đó lực lượng không quân thay thế lực lượng lục quân và đảm nhận cuộc chiến đấu. Con số bộ binh của Mỹ ở Việt Nam vào cuối tháng 1-1973 còn không quá 25.000. Tuy thế, hồi tháng 12-1972, Mỹ đã mở ra ở Đông Dương một cuộc chiến tranh không quân tàn bạo nhất trong toàn bộ lịch sử loài người”.
Hãng UPI công bố ngày 16-1-1973, số bom Mỹ đã ném từ năm 1965 đến năm 1972 là 7.438.052 tấn.
Harrison, Roger Pic và một số nhà nghiên cứu phương Tây khác cho biết: Trong 8 năm, Mỹ đã ném xuống Việt Nam 7.800.000 tấn bom. (Trong đó có B52 đã bay 124.522 lần xuất kích và ném 2.949.000 tấn hay 1/3 tổng số lượng bom).
Với thái độ điên cuồng lồng lộn, việc ném bom và pháo kích từ 300.000 tấn hồi năm 1965 tăng lên trên 1 triệu tấn vào năm 1966. Trên 2 triệu tấn trong mỗi năm từ 1967 đến 1970 (đỉnh cao là 2.966.548 tấn vào năm 1968), và gần bằng ngần ấy trong những năm 1971 và 1972.
Vào năm 1973, Mỹ và Nam - Việt Nam đã sử dụng trên 14 triệu tấn bom và đạn ở Đông Dương.
Người ta dự tính là ở Đông Dương có khoảng 26 triệu hố do bom gây ra, trong đó 21 triệu hố ở miền Nam - Việt Nam. Số bom này đã hất đi khoảng 3.000 triệu mét khối đất. Con số này lớn gấp 10 lần số đất đào lên của 2 công trình kênh đào Suez và Panama cộng lại, và chiếm một diện tích khoảng 13.000 km2 - khoảng 1/3 diện tích miền Nam - Việt Nam hoặc 1/25 diện tích toàn Việt Nam. Gấp 3 lần số lượng 2.057.244 tấn bom mà không quân Mỹ đã ném xuống châu Âu, Bắc Phi và Thái Bình Dương trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, hay nhiều hơn 2 lần số bom mà tất cả các nước tham chiến sử dụng trên tất cả các chiến trường trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai. Gần 12 lần số bom đã ném trong chiến tranh Triều Tiên là 635.000 tấn. Bằng sức nổ của trên 700 quả bom nguyên tử, loại đã thả ở Hiroshima và kể cả 400.000 tấn napan nữa.


Năm 1968, trong một lần ám sát hụt một tên mật thám, bà Võ Thị Thắng bị bắt, bị tòa tuyên án 20 năm khổ sai. Ngày 2/8/1968, trước Tòa án quân sự mặt trận vùng 3 chiến thuật của chính quyền Sài Gòn, sau khi nghe kết án, bà đã bình tĩnh, tự tin, nở nụ cười và dõng dạc tuyên bố:“Liệu chính quyền của các ông có tồn tại đến 20 năm để bỏ tù tôi không?”. 


Trong 6 năm ròng rã, bà Võ Thị Thắng đã bị kẻ thù đày đọa, giam cầm, tra tấn hết nhà lao này đến nhà lao khác. Bà được trao trả ở chính sân bay Lộc Ninh trong đợt trao trả cuối cùng theo Hiệp định Paris (Bà Thắng là người đứng thứ ba từ phải sang).


Bà Võ Thị Thắng (bên phải) cùng các bạn tù chính trị nữ trong đợt trao trả tù binh tại Lộc Ninh tháng 4/1974.


Biên tập viên Hương Tuấn Vũ của Đài Giải phóng đã phỏng vấn bà Võ Thị Thắng khi bà vừa được thả tại sân bay Lộc Ninh.


Các nhà lao Thủ Đức, Chí Hòa, Tân Hiệp, Hố Nai, Côn Đảo không giam cầm được khí tiết cách mạng của người con gái trẻ trong suốt 6 năm.


Bà Võ Thị Thắng phát biểu tại lễ kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập ngành Du lịch Việt Nam. Nhân dịp này, bà được Chính phủ tặng Huân chương độc lập hạng Nhì vì những cống hiến cho sự phát triển của ngành Du lịch Việt Nam.


Vào lúc 8h15 phút sáng 22/8, bà Võ Thị Thắng, người phụ nữ trong bức ảnh “Nụ cười chiến thắng” nổi tiếng, sau một thời gian lâm bệnh nặng đã qua đời, hưởng thọ 69 tuổi. Tang lễ được cử hành tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng phía Nam (số 5 Phạm Ngũ Lão, phường 3, quận Gò Vấp, TP HCM). Lễ viếng bắt đầu vào lúc 8h30 ngày 23/8. Sau đó, đưa đi an táng tại quê nhà Long An vào sáng thứ hai 25/8.
Năm 1973, Giôn Yâng, một tù binh Mỹ, đã nhắc lại điều anh ta từng thấy: “Không thể thấy gì ngoài hố bom và mặt đất đã chết. Mặt đất giống cháo lúa mạch. Không có chim, không có cây, không có người. Không đồng ruộng, không vườn tược. Không có gì cử động. Đó là cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ”.
Theo Milton Leitenberg, khoảng 90.000 tấn chất độc hóa học của Mỹ đã rải xuống Việt Nam. Còn theo Allen Hassan trong tác phẩm “Không thể chuộc lỗi” của ông thì: “Chất da cam được sử dụng như một phương tiện của cuộc chiến tranh sinh hóa tại miền Nam - Việt Nam. Không có loại hóa chất nào gây hại đối với con người một cách nặng nề và dai dẳng hơn nó. Người Mỹ đã phun rải tổng cộng 25 triệu gallon (gần 80 triệu lít) gồm 15 loại hóa chất khai hoang - diệt cỏ khác nhau lên một diện tích gần 3,6 triệu mẫu Anh (tương đương 1,45 triệu hécta) rừng rẫy, làng mạc của Việt Nam, trong đó riêng chất da cam là 11,6 triệu gallon (gần 44 triệu lít)… Chất da cam làm rụng lá và giết chết cả các loại cây gỗ thuộc hàng thiết mộc, nó còn để lại những di chứng âm ỉ, bức bối, chết người trên binh lính của cả hai phía, và cả thường dân Việt Nam, trong đó có rất nhiều phụ nữ và trẻ con… Trẻ con sinh ra tiếp tục bị khiếm khuyết, dị dạng bẩm sinh và nhiều di chứng khác, trong đó có ung thư.
Chất da cam có chứa chất cực độc là dioxin, gọi tắt là TCDD. Dioxin là chất sinh ra từ quá trình sản xuất chất diệt cỏ và là loại hóa chất độc hại nhất mà con người từng biết đến (có nhà khoa học cho rằng chỉ cần 85 gam dioxin (lượng này chứa trong một thìa súp) là có thể giết toàn bộ dân số một thành phố khoảng 8 triệu người). Một nhà nghiên cứu người Úc ước tính rằng có khoảng 368 pound (tương đương 167 kg) dioxin đã bị rải xuống Việt Nam trong vòng 6 năm… Hiện còn một lượng lớn dioxin đang nằm trong đất và nước ở Việt Nam”.

(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

NGẬM SẦU (ĐL)