Thứ Sáu, 7 tháng 5, 2021

TT&HĐ III - 32/#

 
Chiến tranh Việt Nam: Những hình ảnh chưa được công bố (3 tập)

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


.


CHƯƠNG XI (XXXII): ANH HÙNG


Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn

Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn


"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
-Albert Einstein
 
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh

"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
 
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!” 
                                                          Hồ Chí Minh

"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
                                                          Phạm Khắc Hòe

 

 

 (Tiếp theo)


anh: tinh canh quan my tai chien truong mien nam viet nam hinh 1
       Để phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện mới, và tranh thủ sự ủng hộ của các tầng lớp tiến bộ trên thế giới, Cách mạng Việt Nam đã thành lập một tổ chức tại Miền Nam, lấy tên gọi “Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam - Việt Nam” với vị chủ tịch được bầu lên là luật sư Nguyễn Hữu Thọ, có lực lượng vũ trang gọi là “Quân giải phóng”. Từ đây Cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh của Dân tộc Việt bước vào giai đoạn khốc liệt nhất mà vẻ vang nhất, suốt 15 năm ròng rã. Từ đây, Miền Nam trở thành Tiền tuyến lớn, Miền bắc trở thành Hậu phương lớn. Tiền tuyến lớn nêu cao tinh thần bất khuất vô song, càng đánh càng mạnh, càng ghi được những chiến công hiển hách trước cường quốc số 1 thế giới về sự giàu có và tàn bạo. Hậu phương lớn đã đem hết “tinh thần và lực lượng”, chi viện tiếp tế đến tận cùng khả năng sức người, sức của của mình và cả những ủng hộ, đóng góp qúi báu của anh em bầu bạn trên thế giới cho Tiền tuyến lớn bằng mọi phương tiện, mọi ngả đường có thể, trong đó chủ yếu, có tính quyết định và đã lừng danh trong lịch sử là “đường mòn Hồ Chí Minh” trên biển Đông với những con tàu không số, và nhất là “đường mòn Hồ Chí Minh” trên dãy Trường Sơn với những “đoàn xe chạy đêm, chạy ngày” bất kể mưa bom bão đạn. Tất cả đã trở thành huyền thoại có tựa đề: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

 
Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam,
sau là quốc kỳ của Cộng hòa miền Nam Việt Nam

                          Huy hiệu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

1 trung đội quân chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam năm 1968
 Thua kém quân địch về nhiều mặt, đặc biệt là trang bị vũ khí, nhưng quân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành được nhiều chiến thắng oanh liệt.
 
       Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh trên chiến trường Đông Dương (1945–1979). Đây là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cùng một số đồng minh khác của Hoa Kỳ như Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Thái Lan và Philippines tham chiến trực tiếp; một bên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại miền Nam Việt Nam phối hợp cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được sự viện trợ vũ khí và chuyên gia từ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc. Tại Việt Nam, truyền thông đại chúng dùng tên Kháng chiến chống Mỹ hoặc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước để chỉ cuộc chiến tranh này, cũng là để phân biệt với các cuộc kháng chiến khác đã xảy ra ở Việt Nam như chống Pháp, chống Nhật, chống Mông Cổ, chống Trung Quốc. Truyền thông và sách vở chính thống của Việt Nam khẳng định rằng bản chất của cuộc chiến là kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống lại sự xâm lược của Hoa Kỳ cũng như mô tả chính quyền Việt Nam Cộng hòa như một chính thể tay sai của các thế lực ngoại bang.Các nguồn tài liệu chính thống còn khẳng định rằng đó không phải là một cuộc nội chiến hay chiến tranh ủy nhiệm hoặc là chiến tranh vì ý thức hệ mà là kháng chiến giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tuyên bố: 
      "Chúng tôi bắt buộc phải kháng cự lại lũ xâm lăng ấy để bảo vệ gia đình, Tổ quốc chúng tôi..Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam...Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” 
      Ngoại trưởng Xuân Thủy, trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris về Việt Nam tuyên bố:
Ngày 20-09-1969, Trưởng đoàn đàm phán của Cộng hòa miền Nam Việt Nam (giai đoạn 1968-1970) tại Hội nghị Paris về Việt Nam Trần Bửu Kiếm tuyên bố:
        "Sự can thiệp đơn phương của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc; sự có mặt của Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Genève 1954; cường độ và tính chất tàn phá của cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ tại Việt Nam là trái với luật pháp quốc tế; những hành động của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã vi phạm cả Hiến pháp của Hoa Kỳ...Nước Việt Nam là của người Việt Nam, Hoa Kỳ không có quyền đem quân đội tới và lại càng không có quyền bắt buộc người dân Việt Nam phải trả một cái giá nào đó cho việc triệt thoái hoàn toàn quân đội Hoa Kỳ". 
Tên gọi ít được sử dụng hơn là Chiến tranh Đông Dương lần 2, được dùng để phân biệt với Chiến tranh Đông Dương lần 1 (1945-1955), Chiến tranh Đông Dương lần 3 (1975-1989, gồm 3 cuộc xung đột ở Campuchia và biên giới phía Bắc Việt Nam).














Dáng đi thất thểu, ngủ gục ngay trên đống đổ nát, nét mặt mệt mỏi, đau đớn... là những hình ảnh thường gặp ở lính Mỹ sau những trận chiến tại chiến trường Việt Nam.
 
        Cuộc chiến tranh này được nhiều người phân đoạn theo các cách khác nhau: Người Mỹ thường quan niệm "Chiến tranh Việt Nam" được tính từ khi họ trực tiếp tham chiến trên bộ đến khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng (từ 1965 đến 1975). Nhưng quan điểm chung và chính thống hiện nay của chính phủ Việt Nam vẫn coi Chiến tranh Việt Nam được tính từ 1954 hoặc 1955 đến 1975, vì theo họ nguồn gốc của chiến tranh bắt nguồn từ các kế hoạch can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, vốn bắt đầu diễn ra ngay từ năm 1954 (ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, năm kết thúc chiến tranh Đông Dương). Theo tài liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ, Chiến tranh Việt Nam được Mỹ coi là bắt đầu từ ngày 1/11/1955 khi Nhóm chuyên gia hỗ trợ quân sự Mỹ (U.S. Military Assistance Advisory Group - MAAG) tại Việt Nam được thành lập.
Từ năm 1943, Washington đã có một số hành động ở Đông Nam Á nhằm chống lại quân Nhật đóng ở đây. Hồ Chí Minh nhận thấy Hoa Kỳ đang muốn đóng vai trò lớn hơn ở khu vực Thái Bình Dương, ông đã làm tất cả để thiếp lập mối quan hệ với Hoa Kỳ thông qua việc giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản, cung cấp các tin tức tình báo cho Hoa Kỳ, tuyên truyền chống Nhật. Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) giúp đỡ y tế, cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.
Ngày 28 tháng 2 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Tổng thống Mỹ Harry Truman kêu gọi Mỹ can thiệp khẩn cấp để ủng hộ nền độc lập non trẻ của Việt Nam, nhưng không được hồi đáp vì Mỹ xem Hồ Chí Minh là "tay sai của Quốc tế cộng sản" nên phớt lờ lời kêu gọi hỗ trợ nền độc lập của Việt Nam. Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên tình báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.
 
86457739_116855729881574_1715681749322694656_n
Người cha ôm thi thể con nhìn lên chiếc xe bọc thép chở lính Việt Nam Cộng hòa. Đứa bé thiệt mạng khi quân Việt Nam Cộng hoà tấn công du kích trong một ngôi làng gần biên giới Campuchia. Ảnh chụp ngày 19/3/1964.
85105677_116855639881583_375554710616145920_n
Lính Việt Nam Cộng hoà dùng chuôi dao găm đánh một nông dân vì đã cung cấp thông tin không chính xác về hoạt động của du kích ở một ngôi làng ở phía Tây Sài Gòn. Ảnh chụp ngày 9/1/1964.
85190874_116854863214994_5095925082627244032_n

Một phi công Mỹ quan sát máy bay ném bom napalm oanh tạc các địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam. Mục đích của những cuộc ném bom là nhằm làm rụng lá, chết cây để dễ dàng phát hiện ra đối phương trong rừng sâu.

85254221_116854646548349_2952377540225794048_n

Bác sĩ Joseph Wolfe (ở giữa bức ảnh) điều trị cho một binh sĩ bị thương tại một bệnh viện dã chiến dưới lòng đất thuộc căn cứ hải quân Mỹ đóng tại Khe Sanh hồi tháng 3/1968.

86415466_116855506548263_5912786188258770944_n

Hai cha con bị nghi là "Việt cộng" bị dẫn về trụ sở.86502410_116854386548375_3112784819155632128_n

Mặc dù bị thương đến mức phải băng kín một mắt nhưng binh sĩ Thomas Cole vẫn giúp đỡ đồng đội mình là trung sĩ Harrison Pell.

86871685_116855416548272_2203179830411788288_n

Binh lính Sài Gòn thực hiện cuộc đổ bộ quy mô lớn ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đặt một số thiết bị trên thuyền. Họ băng qua những cánh đồng ngập nước, có nơi nước sâu ngập đến nửa người để tìm diệt những chiến sĩ Giải phóng.

 

 Bức ảnh người lính cô độc.

Một vài người dân miền Nam Việt Nam sống sót sau cuộc tấn công kéo dài 2 ngày đêm của quân đội Việt Nam cộng hoà nhằm chiếm chốt Đồng Xoài đang co cụm lại với nhau. Ảnh chụp tháng 6/1965.

Những người dân sống sót sau cuộc tấn công kéo dài 2 ngày đêm của quân đội Việt Nam Cộng hoà nhằm chiếm chốt Đồng Xoài sợ hãi co cụm lại với nhau. Ảnh chụp tháng 6/1965.

Trung tá quân đội Mỹ George Eyster được đặt nằm lên cáng sau khi trúng đạn của quân đội Việt Nam. Ảnh chụp ngày 16/1/2966.

Trung tá quân đội Mỹ George Eyster được đặt nằm lên cáng sau khi trúng đạn của Quân đội Việt Nam. Ảnh chụp ngày 16/1/1966.


Một người phụ nữ Việt Nam bế trên tay cậu con nhỏ và kéo theo một cô con gái, vội vàng chạy ra khỏi ngôi nhà đang bốc cháy. Ảnh chụp tháng 7/1963.

Một người phụ nữ Việt Nam bế trên tay cậu con nhỏ và kéo theo một cô con gái, vội vàng chạy ra khỏi ngôi nhà đang bốc cháy. Ảnh chụp tháng 7/1963.

Lính Mỹ cho một đồng đội bị thương uống nước. Ảnh chụp ngày 2/4/1967.

Lính Mỹ cho một đồng đội bị thương uống nước. Ảnh chụp ngày 2/4/1967.

.
Lính Mỹ bị thương được điều trị ngay tại chiến trường. Ảnh chụp ngày 2/4/1967.

Lính Mỹ bị thương được điều trị ngay tại chiến trường. Ảnh chụp ngày 2/4/1967.



Binh sĩ thuộc Tiểu Đoàn 1, đơn vị Bộ binh số 28, bò đi tìm nơi trú ẩn khi bị quân đội Việt Nam tấn công bất ngờ khi đang ngồi ăn trưa. Ảnh chụp ngày 9/1/1966.

Binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 1, đơn vị Bộ binh số 28 Mỹ, bò đi tìm nơi trú ẩn khi bị quân đội Việt Nam tấn công bất ngờ khi đang ngồi ăn trưa. Ảnh chụp ngày 9/1/1966.


Thuỷ quân lục chiến Mỹ nghe nhịp tim của một đồng đội đang hấp hội sau khi bị thương vào đầu. Ảnh chụp ngày 19/9/1966.

Thuỷ quân lục chiến Mỹ nghe nhịp tim của một đồng đội đang hấp hối sau khi bị thương vào đầu. Ảnh chụp ngày 19/9/1966.

 

Thuỷ quân lục chiến Mỹ chạy toán loạn khi chiếc trực thăng CH-46 bị bắn hạ và đang phát nổ. Ảnh chụp ngày 15/7/1966.

Thuỷ quân lục chiến Mỹ chạy tán loạn khi chiếc trực thăng CH-46 bị bắn hạ và phát nổ. Ảnh chụp ngày 15/7/1966.

Lính bộ binh Mỹ cầu nguyện trong một khu rửng Việt Nam trong lễ tưởng niệm đồng đội chết trong cuộc tấn công đồn điền cao su Michelin. Ảnh chụp ngày 9/10/1965.

Lính bộ binh Mỹ cầu nguyện trong một khu rừng Việt Nam trong lễ tưởng niệm đồng đội chết trong cuộc tấn công đồn điền cao su Michelin. Ảnh chụp ngày 9/10/1965.

Lính bộ binh Mỹ mang một đứa trẻ đang khóc đi khỏi một ngôi làng sau khi ném một quả lựu đạn vào một hầm trú ẩn không có người trong cuộc càn quét ở gần đồn điền cao su Michelin, tây bắc Sài Gòn. Ảnh chụp ngày 22/8/1966

Lính bộ binh Mỹ mang một đứa trẻ đang khóc đi khỏi một ngôi làng sau khi ném một quả lựu đạn vào một hầm trú ẩn không có người trong cuộc càn quét ở gần đồn điền cao su Michelin, tây bắc Sài Gòn. Ảnh chụp ngày 22/8/1966

Một người tải thương Việt Nam đeo mặt nạ để tránh mùi khi đi qua thi thể của lính Mỹ và Việt Nam tại đồn điền cao su Michelin, cách Sài Gòn 45 dặm về phía Đông Bắc. Ảnh chụp ngày 27/11/1965.

Một người tải thương Việt Nam đeo mặt nạ để tránh mùi khi đi qua thi thể của lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tại đồn điền cao su Michelin, cách Sài Gòn 45 dặm về phía Đông Bắc. Ảnh chụp ngày 27/11/1965.

 

Để thi hành chính sách chống Cộng, Hoa Kỳ lập ra nhiều tổ chức quân sự liên quốc gia như (NATO, CENTO, SEATO), các tổ chức và hiệp ước phòng thủ song phương và khu vực. Bên cạnh đó là một hệ thống căn cứ quân sự dày đặc để bao vây các nước Xã hội chủ nghĩa. Tại những khu vực có tính địa chiến lược cao, Hoa Kỳ sẵn sàng sử dụng biện pháp quân sự, thâm chí khi chưa có sự đồng ý của Liên hợp quốc như Việt Nam, Lào, Campuchia (1954-1975), Cuba (1961), Dominica (1965). Mặc dù thất bại tại nhiều nơi đặc biệt là ở Việt Nam, Lào, Cuba nhưng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thực hiện chính sách này nhưng với những hình thức khác. Từ thập niên 1980, Hoa Kỳ chuyển sang chính sách "Vượt lên ngăn chặn", có nghĩa là can thiệp trực tiếp vào nội bộ các nước Xã hội chủ nghĩa.
Năm 1953, mỗi tháng, Mỹ viện trợ cho Pháp 20.000 tấn vũ khí và quân nhu mỗi tháng, sau đó Mỹ đồng ý tăng lên 100.000 tấn/tháng, đổi lại chính phủ Mỹ yêu cầu Pháp phải có kết quả cụ thể. Khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1954, Mỹ đã trả 78% chiến phí cho Pháp, thậm chí phi công Mỹ cũng tham gia chiến đấu cùng Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Thời gian này ở tất cả các cấp bộ trong quân đội viễn chinh Pháp đều có cố vấn Mỹ. Người Mỹ có thể đến bất cứ đâu kiểm tra tình hình không cần sự chấp thuận của tổng chỉ huy Pháp. Việc Mỹ trực tiếp tham chiến tại chiến tranh Đông Dương chỉ còn là vấn đề thời gian 1-2 năm. Thậm chí khi Điện Biên Phủ nguy cấp, Mỹ đã tính tới chuyện dùng bom nguyên tử để cứu nguy cho Pháp.
Tuy nhiên công thức "Viện trợ Mỹ, viễn chinh Pháp, quân bản xứ" vẫn không cứu vãn được thất bại. Sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp đã mất hẳn ý chí tiếp tục chiến đấu tại Đông Dương.
Trước khi Hiệp ước Genève được ký kết 6 tuần, ngày 4/6/1954, Pháp đã đàm phán với Quốc gia Việt Nam bản dự thảo Hiệp ước Matignon (1954), nếu được ký chính thức thì Quốc gia Việt Nam sẽ hoàn toàn độc lập khỏi Liên hiệp Pháp. Chính phủ này sẽ không còn bị ràng buộc bởi những hiệp ước do Pháp ký kết. Tuy nhiên, Hiệp ước Matignon (1954) chưa được Quốc hội Pháp và Tổng thống Pháp phê chuẩn. Bên cạnh đó, cũng có những lập luận cho rằng Quốc gia Việt Nam vẫn bị ràng buộc bởi Hiệp định Geneva, bởi vì chính phủ này chỉ sở hữu một vài thuộc tính của một chủ quyền đầy đủ, và đặc biệt là nó phụ thuộc vào Pháp về quốc phòng, tài chính, thương mại, kinh tế. Tuy nhiên, Hiệp ước Genève đã diễn tiến quá nhanh. Sau khi Hiệp định Geneva được ký, Hiệp ước Matignon đã trở nên không bao giờ được hoàn thành. Quốc gia Việt Nam vẫn là một thành viên của Liên hiệp Pháp và do đó vẫn phải tuân thủ những Hiệp định do Liên hiệp Pháp ký kết.

Chuỗi ngày “địa ngục” của lính Mỹ ở Việt Nam:


Một lính thủy đánh bộ Mỹ lội trong bùn lầy. Những bức ảnh chỉ được công bố lần đầu 5 năm sau khi được chụp, tháng 2/1971.

Được sự hộ tống của xe tăng và chiến đấu cơ trong khu rừng khô phía trước, lính Mỹ thuộc Tiểu đoàn số 2, Hạm đội 5, bắt đầu tấn công.

4 lính thủy quân lục chiến Mỹ bê xác người đồng đội sau khi đơn vị của họ trúng đạn gần đồi 484. Bên phải là phóng viên ảnh người Pháp Catherine Leroy (1945 – 2006), cô đã bị cắt ra ngoài bức ảnh khi đăng trên tờ LIFE hồi đó.

 

 

Hình ảnh tiêu biểu của những lính thủy đánh bộ Mỹ trong những ngày này là dầm mình trong bùn đất, xung quanh là cây cối lởm chởm vì đạn pháo và súng trường. Binh lính bị thương, băng bó, mũ sắt, áo jacket dính máu... ở khắp chiến trường, nơi cách xa nhà họ hàng nghìn dặm.

 

 

Một lính Mỹ bị thương sau cuộc càn quét trên cánh đồng. Bức ảnh này không được công bố trong phóng sự gốc của LIFE.

 

 

Đội quân mệt mỏi của Mỹ sau trận đánh tại khu vực phía nam khu phi quân sự DMZ.

 

 

Một lính Mỹ khác bị thương băng bó kín mít.

 

Các lính Mỹ ăn đồ hộp trong giờ nghỉ ngơi giữa trận chiến.

Một lính Mỹ được phát bánh thánh khi tạm yên tiếng súng một ngày tháng 10/1966.
 Tuy nhiên, phái đoàn Quốc gia Việt Nam đã từ chối ký và không công nhận Hiệp định Genève, đồng thời ra Tuyên bố Hiệp định Genève chứa "những điều khoản gây nguy hại nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam" và "không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt", bởi Bộ Tư lệnh Pháp đã "nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và tước mất của Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ" và "tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái đoàn quốc gia Việt Nam". Tuyên bố cũng cho biết Quốc gia Việt Nam sẽ "tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở". Tuy nhiên, nhiều người cho rằng tuyên bố của Quốc gia Việt Nam là vô giá trị vì họ vẫn là một phần của Liên hiệp Pháp. Phái đoàn Hoa Kỳ cũng từ chối ký Hiệp định và tuyên bố không bị ràng buộc vào những quy định ấy, nhưng nói thêm nước này "sẽ coi mọi sự tái diễn của các hành động bạo lực vi phạm hiệp định là điều đáng lo ngại và là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh quốc tế". Trong Tuyên bố của mình, đối với vấn đề tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, chính phủ Mỹ nêu rõ quan điểm "tiếp tục cố gắng đạt được sự thống nhất thông qua những cuộc tuyển cử tự do được giám sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm chúng diễn ra công bằng". Theo Hồ Chí Minh, do Quốc gia Việt Nam vẫn chưa độc lập khỏi Liên hiệp Pháp nên không thể tham gia Hội nghị và ký kết Hiệp định với tư cách một quốc gia và Quốc gia Việt Nam vẫn phải chịu ràng buộc bởi những thỏa thuận giữa Việt Minh và Pháp.
Ngay sau khi Hiệp định Geneva được ký kết chỉ vài ngày, trả lời Thông tấn xã Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán trước Mỹ sẽ tìm cách phá bỏ Hiệp định để chia cắt Việt Nam: "Theo đúng lập trường của ta từ trước đến nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tiếp tục cố gắng đấu tranh cho hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ của Tổ quốc. Đồng thời, chúng ta phải có tinh thần cảnh giác rất cao đối với âm mưu của đế quốc Mỹ định cản trở hai bên đi đến hiệp định đình chiến và mưu mô lập khối liên minh quân sự có tính chất xâm lược, chia châu Á thành những tập đoàn đối lập để dễ xâm lược và khống chế Đông Dương cùng Đông Nam Á.".
Kết quả Hiệp định: Quân đội Nhân dân Việt Nam, lực lượng đã giành thắng lợi sau cuộc chiến, tập kết về miền Bắc. Lực lượng Quốc gia Việt Nam cùng với quân đội Pháp tập kết về miền Nam, tập kết dân sự và chính trị theo nguyên tắc tự nguyện. Theo thống kê của Ủy ban Quốc tế Giám sát Đình chiến có 892.876 dân thường di cư từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam, trong khi 140.000 người khác từ miền Nam tập kết ra Bắc. Quân đội Pháp dần dần rút khỏi miền Nam và trao quyền lực cho chính quyền Quốc gia Việt Nam.


Chính quyền Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do với lý do mà Thủ tướng Ngô Đình Diệm đưa ra là "Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ", "thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ" nhưng ông "nghi ngờ về việc có thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc". Khi trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Ngô Đình Diệm còn ra nhiều tuyên bố công kích chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đáp lại những cáo buộc này, Hồ Chí Minh đã trả lời với các nhà báo Mỹ ở hãng U.P rằng: "Đó là lời vu khống của những người không muốn thống nhất Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bảo đảm tổng tuyển cử sẽ được hoàn toàn tự do ở miền Bắc Việt Nam.".
Ngay từ tháng 3/1961, khi Chủ tịch Quốc hội Pháp Jacques Chaban-Delmas có chuyến sang Mỹ, Thống chế Pháp Charles de Gaulle nhờ ông này nhắn lại với Tổng thống Mỹ “đừng để sa lầy trong vấn đề Việt Nam, ở đó Mỹ có thể mất cả lực lượng lẫn linh hồn của mình”. Ngày 31/5/1961, tiếp Tổng thống Mỹ John F. Kennedy tại Paris, Thống chế Pháp Charles de Gaulle cảnh báo:
“Người Pháp chúng tôi có kinh nghiệm về chuyện đó. Người Mỹ các ông trước đây [chỉ các tổng thống Mỹ tiền nhiệm] từng muốn thay chỗ chúng tôi ở Đông Dương. Và hôm nay ông muốn nối gót chúng tôi để nhen lại ngọn lửa chiến tranh mà chúng tôi đã kết thúc. Tôi xin báo trước cho ông biết: các ông sẽ từ từ sa vào vũng lầy quân sự và chính trị không đáy, bất chấp những tổn thất [nhân mạng] và chi tiêu [tiền của] mà các ông có thể phung phí ở đó".

(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét