TT&HĐ III - 32/<<*

                                           Tướng tình báo chiến lược Phạm Xuân Ẩn 

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


.


CHƯƠNG XI (XXXII): ANH HÙNG


Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn

Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn


"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
-Albert Einstein
 
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh

"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
 
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!” 
                                                          Hồ Chí Minh

"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
                                                          Phạm Khắc Hòe

 

 

(Tiếp theo)


Cần phải nói thêm rằng góp công vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn có đội ngũ tình báo Cách mạng hoạt động hết sức tài giỏi và đạt hiệu quả cao trên mặt trận thầm lặng, trong lòng địch. Một trong những nhà tình báo tiêu biểu cho tài năng và đức độ của Việt Nam là Phạm Xuân Ẩn. Ông hoạt động trong “vỏ bọc” là một nhà báo làm việc cho tạp chí “Time” của Mỹ tại Sài Gòn suốt cuộc chiến tranh mà không bị lộ. Những báo cáo tình báo của Phạm Xuân Ẩn chính xác đến mức Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng nhận xét rằng “dường như chúng ta có mặt ngay trong phòng tác chiến của Mỹ”. Chiến công của Phạm Xuân Ẩn là rất nhiều, trong đó có những chiến công thực sự lớn lao và hết sức quan trọng. Larry Berman, nhà sử học người Mỹ, tác giả cuốn “Điệp viên hoàn hảo”; cho rằng Phạm Xuân Ẩn là một trong 20 nhà tình báo xuất sắc nhất thế kỷ XX.
Thông tin trên mạng kể rằng:
Phạm Xuân Ẩn sinh năm 1927 tại xã Bình Trước, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong gia đình một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa. Quê gốc của ông tại Hải Dương. Gia đình ông chuyển đến sống tại Huế khi cụ nội của ông là nghệ nhân kim hoàn được gọi vào Kinh đô để chế tác đồ vàng bạc cho triều đình. Ông nội của Phạm Xuân Ẩn là hiệu trưởng một trường nữ sinh ở Huế, đã được Vua ban Kim khánh. Cha của ông là một kỹ sư công chánh cao cấp tại Sở Công chánh, làm công tác trắc địa trên khắp miềnNam. Ông được sinh tại Nhà thương Biên Hòa, do chính các bác sĩ Pháp đỡ đẻ. Tuy là một viên chức cao cấp, nhưng cha của ông không nhập quốc tịch Pháp.

Thời niên thiếu, ông sống tại Sài Gòn, sau chuyển về Cần Thơ học trường Collège de Can Tho.

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông bỏ học và tham gia tổ chức Thanh niên Tiền phong, sau đó học một khóa huấn luyện của Việt Minh về công tác tuyên truyền.

Năm 1947, ông trở về Sài Gòn để chăm sóc cha đang bệnh nặng. Tại đây, ông tổ chức các cuộc biểu tình của sinh viên Sài Gòn, đầu tiên là chống Pháp rồi sau chống Mỹ. Ông làm Thư ký cho Công ty Dầu lửa Caltex cho đến năm 1950.

Năm 1950, ông vào làm ở Sở thuế quan Sài Gòn. Thực chất lúc này ông được Việt Minh giao nhiệm vụ tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa, khí tài quân sự và quân đội từ Pháp sang ViệtNamvà từ ViệtNamvề Pháp. Đây là những bước đầu hoạt động tình báo đầu tiên của ông, một trong khoảng 14 ngàn điệp báo viên Cộng sản được cài cắm và hoạt động tại miền Nam Việt Nam. Năm 1952, ông ra Chiến khu D và được Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Ủy viên Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ - giao nhiệm vụ tình báo chiến lược.

Năm 1953 tại rạch Cái Bát, Cà Mau trong rừng U Minh, dưới sự chủ tọa của Lê Đức Thọ (khi này là Phó Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam), Phạm Xuân Ẩn được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1954 Phạm Xuân Ẩn bị gọi nhập ngũ và được trưng dụng ngay làm bí thư phòng Chiến tranh tâm lý trong Bộ Tổng hành dinh quân đội Liên hiệp Pháp tại Camp Aux Mares (thành Ô Ma). Chính tại đây, ông đã quen biết với Đại tá Edward Lansdale, Trưởng phái bộ quân sự đặc biệt của Mỹ (SMM), trên thực tế là người chỉ huy CIA tại Đông Dương cũng là trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG) ở Sài Gòn. Theo hồi ức của một số tướng lĩnh miền Nam Việt Nam, chẳng hạn như trong tư liệu Hồi kí Đỗ Mậu của Đỗ Mậu, nguyên trưởng cơ quan tình báo của miền Nam Việt Nam, thì Edward Lansdale là người trực tiếp vạch kế hoạch cũng như chủ trì việc thực hiện các công tác chủ yếu nhằm tạo uy tín, chỗ đứng cho Ngô Đình Diệm trong thời kì giữa thập niên 50. Khi nhận thấy mức độ khó khăn cũng như khối lượng công việc phải làm quá lớn, Ngô Đình Diệm có ý định từ bỏ chức Thủ tướng, chính Landsdale là người cố vấn cho Diệm không quyết định như vậy.

Năm 1955 theo đề nghị của phái bộ cố vấn quân sự Mỹ (lúc này đã chính thức thay Pháp đứng ra huấn luyện và xây dựng Quân lực Việt Nam Cộng hòa), Phạm Xuân Ẩn tham gia soạn thảo các tài liệu về tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội. Đặc biệt ông cũng tham gia thành lập bộ khung của 6 sư đoàn bộ binh đầu tiên của Quân lực Việt Nam Cộng hòa mà nòng cốt là sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính người Việt trong quân đội liên hiệp Pháp trước đây.

Phạm Xuân Ẩn còn được giao nhiệm vụ hợp tác với Mỹ để chọn lựa những sĩ quan trẻ có triển vọng đưa sang Mỹ đào tạo (trong số này có Nguyễn Văn Thiệu, sau này trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa).

Trong công tác tình báo, để có thể đi khắp nơi và tiếp cận với những nhân vật có quyền lực nhất, tháng 10 năm 1957, theo sự chỉ đạo của Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương (Mười Hương, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương) Phạm Xuân Ẩn qua Mỹ học ngành báo chí tại Quận Cam, California, trong hai năm (1957-1959) và là người Việt Nam đầu tiên sang học báo chí tại quận Cam 

Tháng 10 năm 1959, Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ những mối quan hệ, ông được Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Văn hóa Xã hội (thực chất là cơ quan mật vụ trực thuộc Phủ Tổng thống), biệt phái sang làm việc tại Việt tấn xã phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm việc tại đây.

Từ năm 1960 đến giữa năm 1964, ông làm cho Hãng thông tấn Reuters.

Từ năm 1965 đến năm 1976 ông là phóng viên người Việt chính thức duy nhất của tuần báo Time, ngoài ra ông còn là cộng tác viên của các tờ báo khác như The Christian Science Monitor...

Từ khi ở Mỹ về nước cho đến năm 1975, với vỏ bọc là phóng viên, nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao cấp, các nhân viên tình báo, an ninh quân đội và người của CIA, Phạm Xuân Ẩn đã có được mọi nguồn tin tức quan trọng từ quân đội, cảnh sát và cơ quan tình báo.

Những tin tức và phân tích tình báo chiến lược của Phạm Xuân Ẩn được bí mật gửi cho bộ chỉ huy quân sự ở miền Bắc thông qua Trung ương cục Miền Nam. Tổng cộng, Phạm Xuân Ẩn đã gửi về căn cứ 498 báo cáo bao gồm tài liệu nguyên gốc đã được sao chụp, các thông tin mà ông thu lượm cùng phân tích và nhận định của bản thân. Cụ thể là:

Giai đoạn 1961-1965: những bản tài liệu nguyên bản về chiến lược chiến tranh đặc biệt như Tài liệu McGarr; tài liệu Staley, tài liệu Taylor, tài liệu Harkins; tài liệu Ấp chiến lược... Ông gửi về nguyên bản kế hoạch kế hoạch Staley-Taylor. Giai đoạn 1965 - 1968: các kế hoạch liên quan đến chiến lược chiến tranh cục bộ, phục vụ chiến thuật cho Mậu Thân 1968. Giai đoạn 1969 - 1973: những tài liệu liên quan đến chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh. Giai đoạn 1973 - 1975: hàng trăm bản tin nguyên bản "phục vụ trên hạ quyết tâm giải phóng miềnNam"...

Ông là nhân vật được chèo kéo của nhiều cơ quan tình báo, kể cả CIA.

Kết quả hình ảnh cho Phạm Xuân Ẩn                               Phạm Xuân Ẩn và đại tướng Võ Nguyên Giáp

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Phạm Xuân Ẩn là một trong những nhà báo chứng kiến sự kiện xe tăng của Quân đội Nhân dân Việt Nam húc đổ cổng dinh Độc Lập. Đến thời điểm đó cũng như một vài tháng sau, các đồng nghiệp phóng viên và những người thuộc chính quyền cũ cũng như chính quyền mới vẫn chưa biết ông là một điệp viên cộng sản. Khi đó vợ con của ông đã rời khỏi Việt Nam theo chính sách sơ tán của Mỹ, theo kế hoạch của miền Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động tình báo. Tuy nhiên, ông đã đề nghị cấp trên cho ngừng công tác do đã hoàn thành nhiệm vụ. Kế hoạch thay đổi, vợ con ông đã phải mất một năm để quay lại Việt Nam theo đường vòng: Paris - Moskva - Hà Nội - Sài Gòn.

Ngày 15 tháng 1 năm 1976, Trung tá Trần Văn Trung (tức Phạm Xuân Ẩn) cán bộ tình báo thuộc Bộ Tham mưu Miền được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang". Lúc này nhiều người mới chính thức biết ông là một tình báo viên thời chiến.

Tháng 8, 1978 ông ra Hà Nội dự một khóa học tập chính trị dành cho cán bộ cao cấp trong 10 tháng. Ông nói rằng đó là do ông đã "sống quá lâu trong lòng địch". Theo Larry Berman, ông bị nghi kị và bị quản chế tại gia, không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên ngoài, đặc biệt với giới báo chí ngoại quốc do cách suy nghĩ, cư xử "rất Mĩ" của ông cũng như việc ông giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến ra khỏi Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cho đến năm 1986, sự quản chế mới được nới lỏng dần. Trong vòng gần 10 năm, luôn có một nhân viên công an được giao nhiệm vụ canh gác trước cửa nhà ông.

Phạm Xuân Ẩn kể rằng trước đây ông đã từng hai lần cố gắng đưa gia đình ra nước ngoài, nhưng không thành công. Lần thứ nhất thuyền bị hỏng máy. Lần thứ hai thuyền có vẻ đủ sức vượt biển, nhưng thuyền trưởng lại không ra

Năm 1990, Đại tá Phạm Xuân Ẩn được thăng cấp Thiếu tướng.

Năm 1997, chính phủ Việt Nam từ chối không cho phép Phạm Xuân Ẩn viếng thăm Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở thành phố New York mà ông được mời với tư cách khách đặc biệt

Năm 2002, ông về hưu. Nhưng cho tới sáu tháng trước khi qua đời, Phạm Xuân Ẩn vẫn đóng vai trò như một cộng tác viên của tình báo ViệtNam. Ông tham gia vào việc bình luận và đánh giá các tài liệu của Tổng cục Tình báo (Tổng cục 2, trực thuộc Bộ Quốc phòng).

Tập tin:The nha bao cua Pham Xuan An.jpg
Ảnh thẻ Nhà báo Phạm Xuân Ẩn, cấp năm 1965
PhamXuanAn.jpg
Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn
Tiểu sử
Biệt danh Trần Văn Trung,
Hai Trung
Quốc tịch Flag of Vietnam.svgViệt Nam
Sinh 12 tháng 9 năm 1927
Biên Hòa, Đồng Nai
Mất 20 tháng 9, 2006 (79 tuổi)
Thành phố Hồ Chí Minh
Binh nghiệp
Thuộc Flag of the People's Army of Vietnam.svg Quân đội Nhân dân Việt Nam
Năm tại ngũ 1945 - 2002
Cấp bậc Vietnam People's Army Major General.jpg Thiếu tướng
Chỉ huy Flag of North Vietnam (1945-1955).svg Quân đội Quốc gia Việt Nam
Flag of Vietnam.svg Quân đội Nhân dân Việt Nam
Tham chiến Chiến tranh Đông Dương
Chiến tranh Việt Nam
Chiến dịch Mậu Thân 1968
Chiến dịch Hồ Chí Minh
Khen thưởng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Huân chương Độc lập hạng Nhì
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất
Huân chương Chiến công (1 hạng Nhất; 2 hạng Nhì; 1 hạng Ba)
Huân chương Quân công hạng Ba
Huân chương Chiến thắng hạng Ba
Huân chương Chiến sĩ Vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba
Huy chương Quân kỳ Quyết thắng
Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng
Công việc khác Nhà báo
Chúng ta không muốn nói nhiều và tỉ mỉ đến những chiến công của thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn mà chỉ trích thêm một vài đoạn rất ngắn trong cuốn “Điệp viên hoàn hảo”:
“Phạm Xuân Ẩn được thưởng huân chương chiến công vì đã có bản báo cáo về Phước Long đề ngày 30-11-1974. Các sách lịch sử Việt Nam so sánh những đóng góp của Phạm Xuân Ẩn trong giai đoạn này ngang với báo cáo nổi tiếng của trùm tình báo Liên Xô, Rishớc Soócgiơ (Richard Sorge), trong đó Soócgiơ khẳng định rằng “Nhật Bản sẽ không mở mặt trận phía Đông”. Nhờ báo cáo này của Rishớc Soócgiơ mà Liên Xô đã yên tâm chuyển các lực lượng quân sự của mình sang phía tây để chặn đứng cuộc tiến quân của quân đội Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Phạm Xuân Ẩn cũng lấy được bản báo cáo bí mật “Nghiên cứu chiến lược”, trong đó nói rằng Quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trong tình trạng cả tinh thần lẫn vật chất đều thấp và rằng máy bay B52 của Mỹ sẽ không trở lại. Tác giả của bản báo cáo mật này chính là tướng Nguyễn Xuân Triển, Giám đốc Viện nghiên cứu chiến lược quân đội (Việt Nam Cộng hòa), đã xác định Buôn Mê Thuột là điểm mong manh, dễ chọc thủng nhất trong hệ thống phòng thủ của Việt Nam Cộng hòa”.
Chúng ta muốn nhấn mạnh đến mặt đức độ của Phạm Xuân Ẩn. Ông Ẩn là người đã nhìn thấy rõ được bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam, phân biệt đúng đắn bạn thù, cư xử mã thượng, khoan dung hoàn toàn phù hợp với Đức Huyền Diệu và truyền thống nhân hậu của dân tộc Việt. Chúng ta sẽ kể vài tình tiết về khía cạnh này, rút ra cũng từ cuốn “Điệp viên hoàn hảo”:
Khi Berman đề cập đến vấn đề tiếp tục hoạt động tình báo ở trên đất Mỹ (vì Phạm Xuân Ẩn sau chiến tranh vẫn chưa bị lộ), ông Ẩn coi đó là một ý nghĩ ngông cuồng: “Tôi thực sự không hiểu mọi người muốn tôi làm gì ở đó. Có lẽ họ chờ đợi rằng các nguồn tin của tôi sẽ cập nhật cho tôi về việc Lầu Năm Góc đang nghĩ thế nào, nhưng điều đó là không thể… Hay là tôi có thể báo cáo về tổ chức của phòng tin thời sự ở Los Angeles hoặc ở San Frangcisco”. Nói xong, ông Ẩn nở nụ cười đầy ẩn ý.

Đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo trong lòng địch  
Tiểu sử
Biệt danh Albert Phạm Ngọc Thảo,
Albert Thảo,
Chín Thảo
Sinh 14 tháng 2 năm 1922
Sài Gòn
Mất 17 tháng 7, 1965 (43 tuổi)
Sài Gòn
Binh nghiệp
Phục vụ Flag of the People's Army of Vietnam.svgQuân đội Nhân dân Việt Nam
Cấp bậc Vietnam People's Army Senior Colonel.jpg Đại tá
Đơn vị Ban quân sự Nam Bộ
Tiểu đoàn 410
Chỉ huy Trưởng phòng mật vụ
(tương đương Trung đoàn trưởng
Khen thưởng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Gia đình Phạm Thị Nhiệm (vợ)
Vài thập kỷ sau chiến tranh, Dan Southerland nhớ lại: “Phạm Xuân Ẩn vội vàng chở Trần Kim Tuyến (trùm mật vụ thời Diệm - Nhu) đến địa chỉ đã dặn trước - đến sự tự do. Tôi có thể nói chắc chắn rằng, vào cái ngày cuối cùng ấy của cuộc chiến tranh, Phạm Xuân Ẩn đã giúp cứu mạng sống của một người từng ra sức chống lại những mục tiêu mà ông Ẩn đang bí mật theo đuổi và phụng sự trong suốt cuộc đời mình. Tôi sẽ luôn nhớ tới ông Phạm Xuân Ẩn về điều đó”. Sau này Trần Kim Tuyến có viết thư cho ông Ẩn bày tỏ sự biết ơn. Ông Ẩn đã nói với Henry Kamm: “Ông ấy cảm ơn tôi và nói với tôi là ông ấy đã hiểu. Tôi đã viết thư trả lời Trần Kim Tuyến rằng tôi không muốn nhìn thấy cảnh các con của ông ấy mồ côi, và tôi cũng đã biết vợ ông Trần Kim Tuyến trong một thời gian dài. Tôi cũng biết Trần Kim Tuyến yêu vợ ông ấy nhiều đến mức nào và cả hai người đều yêu nhau. Ông ấy là một người bạn và chúng tôi đều là người Việt Nam, ông Trần Kim Tuyến đã giúp nhiều cho cả hai bên”.
Nhà báo Bob Shaplan có ghi chép về ngày gặp mặt cuối cùng của ông với Phạm Xuân Ẩn: “Ẩn (nói): quần chúng nhân dân đang cần hòa bình hơn bao giờ hết, chứ họ không muốn tăng cường chính quyền Sài Gòn. Quần chúng không muốn chiến tranh, chỉ muốn hòa hợp dân tộc”. Bản thân Phạm Xuân Ẩn cũng luôn mơ ước về một nước Việt Nam thống nhất, hòa hợp dân tộc.
Vào khoảng một, hai năm đầu của thập niên 1980, Phạm Xuân Ẩn đã nói với Sheehan: “Sau khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, mọi thứ hồ sơ đều bị đốt hết, từ sách y học đến các tài liệu của chính quyền - giờ thì đã có sự hối tiếc rồi, nhưng quá muộn - nhiều thứ từ Nga giờ đây trở nên không còn phù hợp. Tôi rất tiếc về những điều xảy ra, nhưng tôi không thể ngăn cản được, có lẽ tôi đã ở với phía bên này quá lâu rồi nên tôi biết giá trị của những tài liệu đó. Có những hành động hăng hái một cách thái quá, giống như những con ngựa chiến bị che mắt vậy; nếu anh khuyên họ đừng làm, có lẽ họ lại nghĩ anh là phản cách mạng và đây là một tội lớn. Tôi được sinh ra ở Việt Nam, tôi là người Việt nam, nhưng tôi học được sự văn minh ở nước Mỹ. Đây là điều rắc rối của tôi”.

 
Thiếu tá Đinh Thị Vân trong dịp phong anh hùng LLVT năm 1970. Ảnh: Wikipedia.
 
Bà Vân (X) chia tay các đồng chí ở chiến khu Dương Minh Châu để ra Bắc năm 1969. Ảnh: Batinh.com. 
 
 Bà Đinh Thị Vân (đứng giữa) trong dịp phong anh hùng LLVT. Ảnh: Batinh.com. 
Có lần Phạm Xuân Ẩn nói: “Đảng dạy tôi những điều về hệ tư tưởng. Từ người Mỹ, tôi học được những điều quan trọng khác về nghề báo và phương pháp tư duy. Đó là điều tôi muốn con mình cũng học được như vậy. Tôi muốn con trai tôi có những người bạn là người Mỹ”. Lần khác, ông Ẩn nói: “Suốt cuộc đời mình, tôi chỉ có hai trách nhiệm. Một là nghĩa vụ của tôi đối với Tổ Quốc. Hai là trách nhiệm của tôi đối với những người bạn Mỹ - những người đã dạy tôi mọi điều từ A đến Z, đặc biệt là nhân dân Mỹ. Mong ước của tôi là: đấu tranh cho đến khi đất nước giành được độc lập và sau đó, lập quan hệ ngoại giao và bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, được như vậy thì tôi có thể mỉm cười mà nhắm mắt xuôi tay bất cứ lúc nào cũng thỏa lòng rồi”. Phạm Xuân Ẩn cũng tin tưởng rằng những người bạn đồng nghiệp Mỹ của ông sẽ hiểu ông: “Họ biết rằng tôi là người luôn luôn giúp đỡ họ và rằng tôi không phải là kẻ thù của họ. Tôi đã đấu tranh cho đất nước tôi, chứ không phải chống lại người Mỹ”.
Vào năm 1989, Morley Safer sang Việt Nam. Ông này cùng trợ lý của mình cùng Phạm Xuân Ẩn ngồi trò chuyện trên tinh thần bạn bè và ba người đã uống hết một chai Uytxki Bạch Mã (White Horse). Trong cuộc trò chuyện đó, Safer có hỏi tại sao cuộc cách mạng (trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội) lại chưa thành công. Ông Ẩn nói: “Có rất nhiều lý do. Nhiều sai lầm đã mắc phải chẳng qua chỉ vì sự dốt nát. Giống như mọi cuộc cách mạng, chúng tôi gọi đó là cuộc cách mạng của nhân dân, nhưng tất nhiên nhân dân là người đầu tiên phải hứng chịu hậu quả… Chừng nào còn những người nằm ngủ trên đường phố, thì chừng đó còn thất bại. Không phải những nhà lãnh đạo là những người độc ác, nhưng tác động hiệu quả của chủ nghĩa gia trưởng và lý thuyết kinh tế đã bị mất niềm tin là như nhau”. Một trong những câu hỏi cuối cùng của Safer là ông Ẩn có cảm thấy hối tiếc điều gì không. Phạm Xuân Ẩn nói: “Tôi ghét câu hỏi đó. Tôi đã tự hỏi mình với câu hỏi đó cả ngàn lần. Nhưng câu trả lời còn làm cho tôi ghét hơn. Không! Tôi không có gì phải hối tiếc. Tôi phải làm điều ấy. Tôi yêu nước Mỹ nhưng Mỹ chẳng có quyền gì ở đây. Người Mỹ đã phải ra đi khỏi Việt Nam bằng cách này hay cách khác…”
Phạm Xuân Ẩn qua đời vì bệnh phổi vào ngày 20-9-2006.
Dưới đây là một số những đánh giá về Phạm Xuân Ẩn từ những người từng tiếp xúc, những bạn bè, đồng nghiệp từng cộng tác với ông.
Bruce Palling: “Phạm Xuân Ẩn xứng đáng được coi là một trong những điệp viên vĩ đại nhất của thế kỷ XX”
Stanley Cloud: “Trong thời gian chiến tranh, một đồng nghiệp của chúng tôi đã nói: “Tôi nghĩ, Phạm Xuân Ẩn là một ví dụ hoàn hảo về một xã hội Việt Nam tốt đẹp nhất”. khi đó, tôi cũng đã nghĩ như vậy, và bây giờ tôi vẫn còn nghĩ như vậy”.
Jolynne D`Ornano: “Đặt gia đình sang một bên, ông có hai lòng trung thành - một là đối với đất nước ông, và hai là đối với tình yêu nước Mỹ và những người Mỹ mà ông đã kết bạn. Tôi không nhận thấy bất kỳ sự xung đột nào trong những việc ông đã làm. Ông có thể yêu một đất nước khác vì những điều mà đất nước đó đại diện, nhưng ông vẫn chống lại những chính sách của nước đó, đặc biệt là khi những chính sách ấy đang tàn phá đất nước của ông và dân tộc ông. Theo bản chất của mình, ông không thể chỉ ngồi yên, chẳng làm gì cả và cứ để cho những sự kiện cứ thế diễn ra tự nhiên. Vai trò mà ông đóng trong việc làm nên lịch sử không chỉ cần niềm tin mãnh liệt, mà cần cả sự can đảm ghê gớm, và tôi khâm phục ông đã làm được điều đó”.
Douglas Pike: “Phạm Xuân Ẩn rất sùng bái Nho giáo - riêng về điều này là tôi dám chắc. Ông ấy là người sống rất đạo đức, do vậy ông luôn tự soi mình và hành động trên cơ sở các giá trị của của Nho giáo. Một trong những giá trị này liên quan đến tình bạn. Nho giáo nhấn mạnh sự thủy chung trong tình bạn và ngăn cấm việc khai thác, lợi dụng một người bạn”.

Hoàng Minh Đạo - Cha đẻ của ngành tình báo Việt Nam

5. Hoàng Minh Đạo - Cha đẻ của ngành tình báo Việt Nam,tình báo,điệp viên,việt nam,tình báo việt nam,mật vụ

Tên tuổi và sự nghiệp của Đào Phúc Lộc với bí danh Hoàng Minh Đạo, Năm Thu gắn liền với sự ra đời của ngành Tình báo quân sự. Ông chính là người đầu tiên xây dựng nền móng cho sự thành lập của ngành. Ngay khi Cách mạng tháng Tám thành công, Hoàng Minh Đạo nhận lệnh về Hà Nội. Ngày 25/10/1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã tuyên bố thành lập Phòng Tình báo Bộ Tổng Tham mưu. Hoàng Minh Đạo được phân công là Trưởng phòng.

Đinh Thị Vân - Người vẽ bản đồ phòng ngự Nam vĩ tuyến 17

1. Đinh Thị Vân - Người vẽ bản đồ phòng ngự Nam vĩ tuyến 17,tình báo,điệp viên,việt nam,tình báo việt nam,mật vụ

Vũ Ngọc Nhạ - Người xây dựng cụm tình báo chiến lược A22

4. Vũ Ngọc Nhạ - Người xây dựng cụm tình báo chiến lược A22,tình báo,điệp viên,việt nam,tình báo việt nam,mật vụ
Larry Berman: “Bà Germaine Lộc Swanson nói với tôi rằng: “Phạm Xuân Ẩn là một người yêu nước. Ông ấy trở thành người Cộng sản chẳng qua chỉ là nghĩa vụ”. Thế nhưng, cho dù là những nhà bình luận đã viết gì, Phạm Xuân Ẩn vẫn không lên án sự tham nhũng đã trở nên tràn lan ở Việt nam hoặc lên án chế độ một cách chung chung. Mỗi khi được hỏi, ông chỉ nói lên sự thật, giống cách diễu cợt về “những nhà tư sản đỏ” hoặc “những người cộng sản xanh”. Phạm Xuân Ẩn nói với tôi và với những người khác rằng: “Tôi không đấu tranh để có được những thứ ấy”. Chưa bao giờ Phạm Xuân Ẩn chỉ trích chính phủ. Ông chỉ nói những suy nghĩ của mình về một tầm nhìn khác đối với tương lai”.
Wendy Larsen: “Tôi nghĩ rằng nếu ở trong tình huống đó, có lẽ tôi chỉ thể hiện được một phần trăm sự can đảm mà Phạm Xuân Ẩn đã làm cho đất nước của ông”.
Jul Owings: “Tôi không hề ngạc nhiên khi thấy Phạm Xuân Ẩn trung thành trước hết với Tổ quốc của ông ấy. Chẳng lẽ người Mỹ chúng ta không làm như vậy sao?”
Raymond F. Burghardt (Đại sứ Mỹ tại việt Nam): “Câu chuyện và cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn thật không thể nào tin được, nhưng vượt trên tất cả những điều đó, Phạm Xuân Ẩn là một biểu tượng quan trọng của tình hữu nghị mới giữa hai nước chúng ta. Và con trai của Phạm Xuân Ẩn cũng là một người xuất sắc như thế.”
Một bài đăng trên báo “Thanh niên” viết rằng Phạm Xuân Ẩn “đã làm được những điều mà rất ít nhà tình báo khác có thể làm được. Thật dễ hiểu vì sao ông được tổ chức lựa chọn. Nhưng chúng ta sẽ còn phải mất nhiều thời gian để đánh giá một cách chính xác về con người và những điều ông để lại”.

Phó chính uỷ phòng Tình báo thuộc Bộ Tham Mưu B2 Trần Văn Quang (Tư Cang) Và Cụm H63, bí quyết của một điệp viên chiến lược, dấu hỏi về những kế hoạch bị tiết lộ * Lấy bản khai của kẻ phản bội, dấu ấn của ngày “tháo chạy tán loạn”.ảnh tình báo việt nam,tình báo
Đại tá Nguyễn Văn Tàu (tức Trần Văn Quang, Tư Cang) sinh năm 1928 tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Ông tham gia cách mạng từ năm 1945, từng giữ vị trí cụm trưởng Cụm tình báo H.63 trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với những điệp viên nổi danh như Phạm Xuân Ẩn, Tám Thảo, Hoàng Nam Sơn… Cụm H.63 đã được phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1971. Ông đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý như Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhì, Huân chương Độc lập hạng Nhì, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2006...
ảnh tình báo việt nam,tình báo
Một buổi sáng, ngồi sau lưng Tư Cang, cô mỉm cười nói: “Nghĩ đời em cũng hay! Sáng thiếu tá Việt Cộng đưa đi làm, chiều thiếu tá Mỹ đưa về, sĩ quan Việt Cộng đưa đi bằng Honda, sĩ quan Mỹ đưa về bằng xe jeep”. Ông “thiếu tá Việt Cộng” nghe đau thắt lòng trước câu nói đùa của Tám Thảo. Với vẻ đẹp sang trọng, đài các, tiểu thư Mỹ Nhung làm công tác liên lạc, mang tài liệu của nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn từ chiến khu vào nội thành Sài Gòn và ngược lại một cách dễ dàng.
Thiếu Tướng Vũ Ngọc Nhạ Và Cụm Điệp Báo A22, Thâm nhập vào dinh Độc lập, "ông cố vấn" cho 3 đời tổng thống của chính quyền Sài Gòn mà vẫn hướng tâm mình về với cách  mạng, Chỉ cần thay đổi sắc mặt là bị lộ
Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ và Đại Tướng Võ Nguyên Giáp
Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ tâm sự: "Sống với kẻ thù, ngồi cùng bàn làm việc, ăn cùng mâm, suốt ngày nghe chúng chửi Cách mạng, chửi Cộng sản, chỉ cần thay đổi sắc mặt một chút là có thể bị lộ. Thực tế mấy chục năm hoạt động trong lòng địch, tôi đã phải đổi tên đổi họ, mai danh ẩn tích. Đến nỗi gia đình anh em họ hàng làng xóm quê hương tôi tin chắc là tôi đã chết từ lâu. Nhưng cũng có người thì lại nghi ngờ tôi đi theo địch".
Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Đặng Trần Đức (Ba Quốc), “Xúi” Nguyễn Cao Kỳ đảo chính lật Nguyễn Văn Thiệu, Giải cứu Nguyễn Văn Linh sau này là Tổng Bí Thư, “Tóm gọn” 35 ổ gián điệp, “Tài liệu của Bộ Tổng tham mưu, Tổng tham mưu trưởng chưa đọc mà Hà Nội đã đọc rồi”ảnh tình báo việt nam,tình báo
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, rất nhiều điệp viên của ta đã chui sâu, leo cao vào hàng ngũ kẻ thù để khai thác tin tức, phục vụ kháng chiến. Thiếu tướng Đặng Trần Đức cũng là một điệp viên như thế, nhưng vị trí công tác của ông rất đặc biệt: Ông hoạt động ngay trong sào huyệt cơ quan tình báo của địch – Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo ngụy.
Anh Hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Nguyễn Văn Thương
Những “cuộc chiến” trong thời bình, Đối mặt và làm vật thí nghiệm của CIA, bị cưa chân 6 lần vẫn không khai.

ảnh tình báo việt nam,tình báo

Phạm Xuân Ẩn đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng 11 huân chương các loại và được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Cuối cùng, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ ngót 30 năm của dân tộc Việt chống hai thế lực xâm lăng hùng mạnh, lần lượt là thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ, nói theo Xalăng (Raul Salan), viên tướng Pháp ở Việt Nam lâu nhất và hiểu Việt Nam nhiều nhất, đã từng là Tổng tư lệnh các lực lượng viễn chinh Pháp toàn Đông Dương kiêm Cao ủy Pháp ở miền Bắc Việt Nam, trong cuốn “Đông Dương đỏ” của mình thì: “Bí quyết của sức kháng chiến phi thường của nhân dân Việt Nam, phải được tìm kiếm trong tổ chức lao động hợp tác của họ, đã phát triển trong quá trình 4.000 năm đấu tranh với thiên nhiên và truyền thống chiến tranh nhân dân được thể hiện trong những cuộc kháng chiến của họ chống xâm lăng trước đây. Trên cơ sở những nhân tố đó, phải có một lãnh tụ tài giỏi, một tập thể lãnh đạo kiên cường, quả cảm, tiến hành một cuộc cách mạng triệt để, liên tục biết phá vỡ những tổ chức chính quyền và hệ tư tưởng cũ, tổ chức chính quyền mới, đề xướng một hệ tư tưởng mới có khả năng huy động được mọi lực lượng”.
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã lùi sâu vào dĩ vãng nhưng những bài học mà nó để lại cho thế giới từ cả hai phía vẫn còn nóng bỏng tính thời sự. Có rất nhiều học giả từ trước đến nay đề cập đến vấn đề này. Jean Christophe Oberg, đã từng là đại sứ Thụy Điển ở Hà Nội, có bài viết chúng ta cho là rất hay. Chúng ta sẽ trích vài đoạn từ đó:
“… Cuộc kháng chiến khốc liệt của dân tộc Việt Nam chống lại một siêu cường quốc giàu có nhất, mạnh nhất thế giới phải được khắc sâu như một bài học không thể quên được đối với tất cả các siêu cường quốc và các nước khác hằng mơ ước đạt tới (siêu cường). Nước Việt Nam, mặc dầu lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật, đã chứng minh được rằng một dân tộc nhỏ bé có thể huy động lực lượng và toàn bộ phương tiện cần thiết để không thể bị quật ngã khi nền độc lập của nó bị đe dọa”.
“Đây là bài học có tầm quan trọng hàng đầu đối với tất cả những ai, với những lý do khác nhau, chỉ có thể trông cậy vào chính bản thân mình, để thực sự bảo vệ được nền độc lập và thống nhất dân tộc mình…”.
“Cuộc chiến tranh của Việt Nam đã đóng góp tích cực vào việc tạo ra một trật tự mới có tính chất bình đẳng hơn giữa các nước lớn, nhỏ và trung bình. Ngày nay, những ai muốn và đòi củng cố nền hòa bình thế giới theo những nguyên lý, những học thuyết của họ, những kẻ đó sẽ phạm sai lầm lớn khi ứng dụng những định lý có tính chất ảo tưởng của họ mà không muốn nhớ lại vực thẳm Việt Nam”.
“Bây giờ có thể chúng ta đã có đầy đủ lý do, mặc dù đã không biết được điều này sớm hơn, suy nghĩ trong chốc lát, để bày tỏ lời ca ngợi hàng triệu người Việt Nam vô danh, với vô vàn đau thương và hy sinh của họ, với giá của máu họ, đã đóng góp để tạo ra một trật tự mới của thế giới, mà trong đó Đông và Tây, Bắc hay Nam sẽ nhận thấy sự cần thiết tương trợ lẫn nhau chung sống hòa bình”.

                                            Tướng chỉ huy tình báo Trần Văn Danh

Trong tác phẩm “Không thể chuộc lỗi” của Allen Hassan, bác sĩ dân sự người Mỹ, từng có mặt tại Nam - Việt Nam năm 1968 làm công việc chữa trị nhân đạo, chúng ta đọc được những đoạn này:
“Nước Mỹ nhớ rất kỹ những gì người khác gây cho họ nhưng lại quên rất nhanh những gì họ đã gây ra cho những người khác. Người chết không thể sống dậy, người tàn tật mãi mãi tàn tật, và nỗi đau mãi mãi là nỗi đau…”.
“Ở Việt Nam, chúng ta tiến hành một cuộc chiến tranh để ngăn chặn Cộng sản, nhưng chiến tranh đã không ngăn chặn được Cộng sản. Chúng ta gây thiệt hại to lớn cho nhân dân Việt Nam và cho chúng ta. Tại Việt Nam, quân đội chúng ta chú trọng đến việc đếm xác chết, nhưng trong những cuộc chiến tranh sau này như ở Irắc, thì lãnh đạo quân sự của chúng ta không còn bận tâm đến việc đếm xem có bao nhiêu thi thể thường dân tử vong nữa. Pascal nói: “Con người không bao giờ làm điều ác một cách hoàn toàn và vui vẻ như khi họ làm điều đó vì một đức tin tôn giáo”. Đã đến lúc phải quan tâm tới khái niệm về nghiệp chướng của người châu Á, theo đó, những điều chúng ta đã gây ra cho thế giới này một lúc nào đó sẽ trở lại với chúng ta…”.
“… Sự hiểu biết sẽ cải hóa và làm con người trở nên nhân bản. Lẽ phải làm cho chúng ta hòa nhã, nhưng thành kiến thì tận diệt mọi khuynh hướng hòa diu và dẫn đến chiến tranh. Nếu như chúng ta không thay đổi cách xử sự và trở lại là một đất nước hòa bình, hào phóng, sâu sắc và chu đáo, thì chúng ta sẽ tiếp tục đặt cược số phận của mình vào một ván bài, để rồi tự hủy hoại chính mình, hủy hoại cả hành tinh với vũ khí hạt nhân, vũ khí giết người hàng loạt, nước và thực phẩm bị nhiễm độc bởi chiến tranh sinh hóa.

Ông là Đại tá tình báo Nguyễn Văn Minh, Anh hùng LLVT nhân dân.
Điệp viên H3 và Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu (ngụy), nơi ông hoạt động trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Điệp viên H3 và Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu (ngụy), nơi ông hoạt động trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Nguyễn Văn Minh SN 1933, quê Hưng Yên, trong một gia đình thợ thủ công. Lớn lên, ông vào Sài Gòn tìm việc làm, lòng yêu nước đã thôi thúc ông tìm đến với cách mạng.
20 tuổi, ông đã là một công nhân hoạt động bí mật cho Mặt trận Liên Việt giữa lòng Sài Gòn. Đến năm 1959, ông được Quận ủy Thủ Đức phái khiển tìm cách lọt vào quân đội ngụy quyền Sài Gòn.
Năm 1963, lợi dụng sự kiện chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các phe phái ngụy quân, ngụy quyền chèn ép nhau để tranh quyền, đoạt lợi, ông đã tìm cách chui sâu vào hàng ngũ kẻ thù với chức danh nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Có.
Không lâu sau đó, Nguyễn Cao Kỳ lật đổ Nguyễn Hữu Có nhưng với vỏ bọc là một nhân viên quân sự mẫn cán, tận tụy với công việc, được nhiều người trong văn phòng quý mến nên ông được tân Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên tiếp tục tin dùng.
Từ đó, H3 trở thành một trong 4 nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng.
Công việc hằng ngày của H3 là tiếp nhận và lưu trữ công văn đi-công văn đến giữa Văn phòng Tổng tham mưu trưởng với các cơ quan, đơn vị trong quân đội ngụy; đặc biệt là trao đổi công văn với Phủ Tổng thống, với các cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân đoàn, quân khu.
Công việc này tạo cơ hội để H3 tiếp xúc với các tài liệu tối mật của địch. Chính vì vậy, những tài liệu, tin tức mà H3 cung cấp cho ta rất có giá trị, bảo đảm độ chính xác cao.
Làm việc trong môi trường tối mật như vậy, H3 luôn bị các cơ quan mật vụ, an ninh của địch để ý, theo dõi nhưng anh đã tìm ra cách hoạt động để che mắt kẻ thù.
Hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân của ông viết ngắn gọn nhưng đã phần nào ghi lại những thành tích 'huyền thoại' của ông:
'Được sự chỉ đạo chặt chẽ của cơ quan tình báo, đồng chí đã cung cấp nhiều tài liệu có giá trị chiến dịch, chiến lược quan trọng mà tình báo cần, với nhiều tài liệu nguyên bản đạt độ tin cậy và chính xác cao, giúp cho cơ quan chỉ đạo chiến lược của ta hiểu rõ âm mưu ý đồ của địch như:
Ý đồ bình định nông thôn, kế hoạch lấn chiếm xóa các vùng giải phóng theo kiểu 'lấp lỗ da báo'.
Các tin tình báo do đồng chí Minh cung cấp là cơ sở tin cậy cho cơ quan chỉ đạo đánh giá đúng âm mưu ý đồ của Mỹ sau khi ký Hiệp định Paris năm 1973.
Tin của đồng chí luôn giúp trên khẳng định: 'Đối với Mỹ không có nửa hòa, nửa chiến, Mỹ chỉ tìm cách xóa ta, nếu ta mạnh, Mỹ chịu thua, nếu ta yếu, Mỹ lấn tới'.
Tháng 3/1974, đồng chí Nguyễn Văn Minh đã cung cấp kế hoạch quân sự vùng 4 (kế hoạch Lý Thường Kiệt), đây là kế hoạch quân sự hàng năm sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết.
Tháng 4/1974, đồng chí tiếp tục báo cáo bổ sung về hoạt động của các đơn vị dự bị chiến lược dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, không quân... đồng thời báo cáo tóm tắt kế hoạch quân sự toàn miền Nam của Mỹ-ngụy
Những tin tức của đồng chí cung cấp đã phục vụ cho Quân ủy Trung ương giải đáp một loạt các vấn đề chiến lược quan trọng trong một thời điểm then chốt.
Chân dung Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Minh
Chân dung Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Minh
Khi ta chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, tin tức của đồng chí đã giúp trên khẳng định:
'Khi ta đánh vào Sài Gòn thì Mỹ không trực tiếp tham chiến trở lại', 'Mỹ coi như chiến tranh ở Việt Nam đối với Mỹ đã kết thúc, Mỹ sẽ không chi viện cho quân ngụy bằng lực lượng chiến đấu của Mỹ'.
Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chọn giải pháp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 trong thời gian ngắn nhất'.
Những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1973 - 1975), đồng chí là cơ sở chủ yếu cung cấp được khối lượng lớn tin tức, tài liệu về chiến dịch, chiến lược của địch, góp phần tích cực vào đại thắng Mùa xuân 1975, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao.
Trong sự kiện ngày 30/4/1975, khi Quân giải phóng đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu ngụy, chính Nguyễn Văn Minh đã động viên các viên chức trong văn phòng của tướng Cao Văn Viên gìn giữ, niêm phong kho tàng, hồ sơ, bảo toàn tài liệu, máy móc trong văn phòng để bàn giao cho Quân giải phóng.
Chuyện kể rằng, khi đồng chí Bảy Vĩnh (cũng là một cán bộ tình báo), chỉ huy một bộ phận Quân giải phóng xông vào Bộ Tổng Tham mưu ngụy đã 'đụng' một viên thượng sĩ nhất của ngụy như đang chờ đợi.
Viên thượng sĩ 'quèn' đó đã ở lại cho tới 3 giờ chiều, khi mọi việc giao nộp sổ sách cho Quân giải phóng xong xuôi.
Hệ thống máy tính lưu trữ hồ sơ của hơn 1 triệu quân ngụy cùng toàn bộ giấy tờ tại Văn phòng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên được niêm phong không mất một tờ nào.
Viên thượng sĩ ấy trực tiếp trao chìa khoá, dẫn Quân giải phóng tiếp quản tất cả những gì còn lại ở cơ quan đầu não của Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
32 năm sau (năm 2007), trong một gian nhà nhỏ ở TP HCM, Đại tá tình báo Bảy Vĩnh (cũng là Anh hùng LLVT nhân dân) nhớ lại khoảnh khắc đó:
'Khi tôi và anh em xông vào thì thấy 2 nhân viên văn phòng ngồi chờ. Các ngăn tủ đã được khoá kín. Tôi hỏi đường lên nóc Bộ Tổng Tham mưu thì một người đàn ông cao, gầy chỉ đường...
Mãi về sau này, tôi mới có dịp gặp lại 'kẻ chỉ đường' trong một tình huống hoàn toàn bất ngờ: Cuộc gặp mặt những anh em đồng đội của Phòng tình báo J22-Bộ Tham mưu Quân giải phóng miền Nam'.
Cả 2 ông khi đó đã vào tuổi 'thất thập cổ lai hy', đều cùng nghỉ hưu với quân hàm đại tá.
Thiếu tướng tình báo Sáu Trí (Nguyễn Văn Khiêm), nguyên Trưởng phòng tình báo Miền J22, đã ghi lại những dòng tưởng thưởng về người đồng đội ẩn danh H3:
'Anh đã lấy tin, tài liệu về các phòng hành quân (BTTM); tin tức, tài liệu giá trị lâu dài như kế hoạch Lý Thường Kiệt; về lực lượng đặc biệt. Âm mưu và thủ đoạn bình định của địch.
Tình hình quân số, bố trí quân (chủ lực và địa phương). Có những tin định kỳ quan trọng như biệt kích đổ bộ; tàu lặn, tinh thần quân đội Sài Gòn ở Quân khu 1 sau chiến dịch Quảng Trị của ta...
Chất lượng công tác của H3 đáp ứng đúng yêu cầu của lãnh đạo trong giai đoạn then chốt của cuộc chiến tranh: Ta cần hiểu sâu về địch để giành toàn thắng'.
H3-Nguyễn Văn Minh trở thành một trong những điệp viên huyền thoại, khiến kẻ thù kinh ngạc về bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần 'thép' của ông.
Năm 1999, ông vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng LLVT nhân dân.
Chúng ta chưa chuộc lỗi với những thiệt hại mà bom đạn và hóa chất của chúng ta đã gây ra tại Việt Nam. Tôi hy vọng rằng một ngày nào đó, chúng ta có thể giúp đất nước tươi đẹp này tẩy xóa hết hóa chất độc hại, những bom mìn chưa nổ, và rồi tạ lỗi cùng nhân dân Việt Nam về tất cả những gì chúng ta đã gây nên. Tôi hy vọng là chúng ta sẽ không quá kiêu hãnh và ngạo mạn để có thể thốt lên: “Chúng tôi chân thành xin lỗi!”, bằng tiếng Việt”.
“Theo truyền thống, người Mỹ tán thành và có thiện chí đối với các cuộc chiến tranh giành tự do hoặc các cuộc chiến tranh nhằm thiết lập một thể chế dân chủ. Chúng ta là nền dân chủ đầu tiên của Tân Thế Giới. Sức mạnh và ảnh hưởng của chúng ta lớn hơn bao giờ hết. Nhưng những hành vi quá khích đi cùng sự gây hấn và chinh phục sẽ làm người ta nhận ra sự hung bạo, làm cho người ta chán ghét, ghê tởm bởi những vụ thảm sát thường dân dưới danh nghĩa Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Những lời dối trá về sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã đưa những công dân chúng ta đến chiến trường Việt Nam, và những lời cáo giác dối trá về vũ khí giết người hàng loạt đã đưa chúng ta đến với chiến trường Irắc. Không còn nghi ngờ gì nữa, thái độ ngạo mạn của Hoa Kỳ đối với các nước thuộc thế giới thứ ba đang đưa chúng ta vào một vòng tròn vô tận của các cuộc chiến tranh không bao giờ dứt…”.
“Chủ nghĩa khủng bố sẽ dần tiêu tan trên trái đất nếu như các cường quốc, những nước giàu mạnh đối xử với các nước thứ ba và nguyên thủ của họ bằng sự tôn trọng thực sự, và cùng nhau làm việc để đạt được mục tiêu chung. Tôn trọng đức tin của mỗi một dân tộc cũng như lịch sử của họ… Sự cao quí của người Mỹ không phải là sự cao quí của một đức vua hay của một tư lệnh hạm đội, mà là sự cao quí dân chủ rộng mở với bản tính tự nhiên, làm cho hầu hết công dân chúng ta đặc biệt thích làm điều tốt lành”.
“…, nhà khoa học Pháp vĩ đại Louis Pasteur đã nói trong một bài diễn văn ngày 27-12-1892: “Tôi có niềm tin chắc chắn rằng khoa học và hòa bình sẽ chiến thắng sự dốt nát và chiến tranh, rằng các quốc gia sẽ liên kết, không phải để hủy diệt mà là để xây dựng, và rằng tương lai sẽ thuộc về những ai cống hiến hết mình cho nhân loại”.
“… Cuốn sách này là nỗ lực cuối cùng ghi lại chính xác các sự kiện đối với những hành động tàn nhẫn mà tôi đã mục kích ở Việt Nam. Sách cũng bày tỏ những hy vọng của tôi về xứ sở mà tôi sinh ra, vốn vẫn tiềm tàng khả năng là một đất nước vĩ đại thực sự. Thật là chán nản khi thấy những hành vi tàn ác, vô nhân đạo vẫn tiếp tục mang danh nghĩa tổ quốc tôi, mang danh nghĩa đất nước mà tôi mến yêu, nơi tôi ra đời, một đất nước đã cho tôi quá nhiều… Nếu như chúng ta có thể hình dung ra một tương lai nhân bản hơn và nỗ lực để nó trở thành hiện thực thì đó chính là niềm hy vọng cho hòa bình trên thế giới”.
“… Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ long trọng tuyên bố: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Quyền được sống là quyền trước tiên, Quyền được sống bị tước đoạt một cách phi pháp thì nói đến hàng trăm, hàng ngàn quyền khác của con người là điều vô nghĩa, là đạo đức giả…”.

                           Cuộc đời & Sự nghiệp Tướng tình báo chiến lược Phạm Xuân Ẩn



(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------


 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

NGẬM SẦU (ĐL)