"Lịch sử hoài
thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc
cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời
giáo huấn cho thế hệ sau."
Cervantes (Tây Ban Nha)
Thứ Năm, 27 tháng 5, 2021
TT&HĐ III - 32/?
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hành trình tìm đường cứu nước
Lịch sử về chủ tịch Hồ Chí Minh đáng kính
Hồ Chí Minh-Chân dung một con người
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
"Lịch sử là bằng
chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là
thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
Cicero (La Mã)
Cicero (La Mã)
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
CHƯƠNG XI (XXXII): ANH HÙNG
Heroism
on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that
goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
Heroism
on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that
goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn
"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều
vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
-Albert Einstein
-Albert Einstein
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy
cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu
Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng
để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh
"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
“Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn!”
Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
Phạm Khắc Hòe
.Hồ Chí Minh
"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
Phạm Khắc Hòe
(Tiếp theo)
***
Đến đây, cuộc trường chinh dài dặc đi đòi độc lập dân tộc của dân tộc Việt trên con đường đầy gian lao và thấm đẫm biết bao máu xương mới thực sự kết thúc. Sau khi sự nghiệp cứu nước hoàn thành, dân tộc Việt lại bước vào công cuộc kiến thiết, xây dựng Tổ Quốc ngày một giàu mạnh. Có thể coi đây là cuộc trường chinh mới, cũng đầy khó khăn gian khổ tuy không tốn máu xương, với tên gọi "xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội". Con đường này chắc dài lắm, vì cho đến nay, hàng chục năm qua rồi mà hình bóng xã hội thiên đường ấy chưa thấy tăm hơi đâu. Và bất giác chúng ta tự hỏi: chúng ta đã "định hướng Chủ Nghĩa Xã Hội"....đúng chưa?
Theo hiểu biết chúng ta thì mục đích đầu tiên, trực tiếp và duy nhất của Nguyễn Tất Thành (tên thời trẻ của Hồ Chí Minh) khi ông ra đi "tìm đường cứu nước" là tìm cách đánh đuổi Thực dân Pháp xâm lược, giành lại chủ quyền Dân Tộc. Chỉ thế thôi!
Tình hình thực tế thời bấy giờ cho thấy sự xâm lược của thực dân gắn liền với quần chúng thuộc địa bị nô dịch, bị áp bức bóc lột thậm tệ. Cho nên việc đánh đuổi thực dân cũng đồng thời thực hiện được mục đích thứ hai là giải phóng nô dịch, xóa bỏ bóc lột, xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh. Thực ra đó là hai cuộc cách mạng độc lập nhau nhưng cùng chiều.
Trong bối cảnh đó, Lênin đã soạn thảo những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa. Tác phẩm ngắn gọn, vô cùng quan trọng này đã củng
cố những nguyên tắc mácxít về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Những
luận cương đó đã được Đại hội II Quốc tế Cộng sản thông qua và coi là
cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản trong
tình hình lúc bấy giờ. Mười hai luận điểm trong Luận cương toát lên 5 tư tưởng chiến lược lớn: Một là,
đặt vấn đề dân tộc đi đôi với vấn đề thuộc địa; quyền tự quyết của các
dân tộc gồm quyền tự quyết của các dân tộc thuộc địa phải đi đến công
nhận, thực hiện quyền độc lập tự chủ chứ không chỉ có tự trị văn hóa. Hai là,
chỉ rõ trách nhiệm trọng đại của các Đảng Cộng sản ở các nước đế quốc
là phải ủng hộ, giúp đỡ một cách tích cực nhất đối với phong trào giải
phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Ba là, khẳng định
các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc không những có nhiệm vụ giải phóng
khỏi ách thống trị của nước ngoài, mà còn phải đấu tranh chống lại các
lực lượng phản động ở ngay trong nước mình, những lực lượng đó thường là
đồng minh của đế quốc thực dân. Bốn là, đề ra một nhiệm vụ lớn
của cách mạng thế giới là sự đoàn kết chặt chẽ giữa phong trào giải
phóng các dân tộc thuộc địa bị áp bức với các nước đã làm cách mạng XHCN
thành công. Năm là, Quốc tế III đóng vai trò bộ tham mưu chung
của cách mạng thế giới, nước Nga xô viết là ngọn cờ đầu, căn cứ địa,
thành trì của cách mạng thế giới.
Luận cương Lênin có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định việc lựa
chọn con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc (tên thời trẻ của Hồ Chí Minh), bởi lẽ: Đây là văn bản
chính thức đầu tiên bênh vực cho các nước thuộc địa, các dân tộc “nhược
tiểu”. Những tư tưởng cơ bản trong Luận cương có nhiều điểm phù
hợp với tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt là sự đau xót trước nỗi
thống khổ của quần chúng lao động khắp thế giới và sự quan tâm đến vấn
đề giải phóng các dân tộc thuộc địa cũng như tinh thần đoàn kết của quần
chúng lao động trong đấu tranh. Chính điều này đã làm cho Nguyễn Ái
Quốc phấn khởi và tin theo, dứt khoát đi theo Quốc tế III. Dưới ánh sáng
Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy rằng, tinh thần yêu
nước, tinh thần dân tộc cần phải gắn bó chặt chẽ với tinh thần quốc tế
vô sản và vấn đề độc lập dân tộc của Việt Nam cần phải gắn bó khăng khít
với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Người đã tìm thấy ở Luận cương của
Lênin con đường giải phóng đất nước và nhân dân mình. Nguyễn Ái Quốc đã
rút ra kết luận quan trọng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Có thể khẳng định, Luận cương của Lênin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Như vậy, chính Luận cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn
bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính
trị của Nguyễn Ái Quốc: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngày nay chúng ta đều thấy "định hướng XHCN" không phải là con đường duy nhất tiến lên dân giàu nước mạnh! Tiến lên dân giàu nước mạnh mục đích không nhiều thì ít, là nỗ lực có xu thế hầu như tất yếu của hầu hết các thể chế, các chính quyền nhà nước trên thế giới. Nguyên do, thứ nhất là vì lẽ sống còn, thứ hai là vì có như thế mới có văn minh! Các nước Trung Quốc, Triều Tiên...có định hướng XHCN không, nếu có định hướng thì sao lạ thế? Còn Singapore và các nước Bắc Âu...thì sao?
Có lẽ con đường định hướng tiến lên dân giàu nước mạnh duy nhất đúng là con đường xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà thực chất là của dân, do dân và vì dân. Và lúc đó, nên vứt bỏ nhãn mác "định hướng XHCN" đi vì thừa, không cần thiết nữa!
***
Tháng 3 năm 1931, với bí danh Anh Năm, ông chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 2 tại Sài Gòn bàn việc chấn chỉnh Đảng sau đợt khủng bố của thực dân Pháp. Hội nghị khẳng định: "Đảng [Cộng sản Việt Nam] là đảng tiền phong của giai cấp vô sản, Đảng chiến đấu cho lợi ích sống còn của dân tộc, cho quyền lợi các giai cấp bị bóc lột, bị áp bức, nhưng không phải là đảng của Công Nông. Kiên quyết chống tả khuynh, chống hữu khuynh". Hội nghị đã vạch ra nghị quyết về nhiệm vụ hiện tại của Đảng, nghị quyết về tổ chức của Đảng, nghị quyết về cổ động tuyên truyền. Tại hội nghị này, một quyết định về "Tổ chức ra cộng sản thanh niên Đoàn là một nhiệm vụ thâu phục một bộ phận quan trọng của vô sản giai cấp, là một vấn đề cần kíp của Đảng phải giải quyết". Đây được xem là tiền đề để hình thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về sau này. Theo Sophie Quinn-Judge, tác giả cuốn "Hồ Chí Minh: Những năm chưa biết đến" (Hochiminh: The missing years), mối quan hệ giữa Ban chấp hành trung ương với ông Hồ Chí Minh, lúc đó đã xuống dốc rất nhiều. Ông Hồ lúc đó bị chỉ trích vì người ta bắt đầu xem ông là một nhà cải cách theo xu hướng quốc gia
Tấm biển trên căn hầm tại ngôi nhà số 90 phố Thợ Nhuộm, Hà Nội ghi: Tại đây đồng chí Trần Phú đã viết bản "Luận cương về cách mạng tư sản dân quyền" của ĐảngTuy nhiên, ngay sau Hội nghị, do sự phản bội của Ngô Đức Trì, ngày 19 tháng 4 năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt tại nhà số 66 đường Champagne (đường Lý Chính Thắng hiện nay), Sài Gòn.
Biết ông là cán bộ cao cấp, chính quyền thực dân tìm cách dụ dỗ và tra tấn để khai thác thông tin. Nhưng với chí khí kiên cường, ông không bị khuất phục, dù bị đày ải nhiều lần. Ngày 6 tháng 9 năm 1931, ông qua đời tại Nhà thương Chợ Quán ở tuổi 27 với lời nhắn nhủ bạn bè "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu".
Anh chị em tù chính trị ở khám lớn Sài Gòn năm 1931 đã làm thơ:
“ | Trần Phú anh ơi đã thác rồi | Thác mà như thế đẹp gương soi Bao phen sóng gió đâu sờn dạ Mấy trận đòn tra chẳng hở môi Giọt máu anh hùng giờ tơi tả Trái tim vô sản vẫn không rời Tuy anh đã thác gương còn sáng Thác được như anh sáng suốt đời |
” |
Về
phụng sự “dưới trướng” một lãnh tụ thiên tài, kiệt xuất thường là những
cá nhân có năng lực nổi trội, có biệt tài xuất chúng. Hồ Chí Minh đã có
được một tập thể những con người ưu tú như vậy, chẳng hạn là: Trần Phú,
Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà… Một lãnh tụ thiên tài
và một tập thể lãnh đạo tài giỏi, hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc cũng là một trong những nguyên nhân quyết định cho sự thành công
vang dội trong cuộc kháng chiến cứu nước ngót 30 năm của Cách mạng Việt
Nam. Trong niềm vui và tự hào khôn xiết của cả Dân tộc là niềm vui và tự
hào khôn xiết của cả tập thể ấy vì đối với họ, đúng như câu thơ Trần Văn Trà đã viết:
“Ra đi hai bàn tay trắng
Khi về một dải giang sơn”
Nguyễn Chí Thanh
Tại chiến trường, ông là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh", lối đánh này dùng phương châm cơ động áp sát nhằm hạn chế ưu thế hỏa lực của quân Mỹ.
Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1967 tại Hà Nội do một cơn nhồi máu cơ tim khi ra Hà Nội để báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình miền Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tại Đại hội Đảng bộ Quân đội năm 1960
Năm 1982, ông cho in cuốn Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, trong đó có ghi những nhận định chủ quan của nhiều lãnh đạo Đảng Lao động, khi đã đánh giá quá cao khả năng quân sự của mình và đánh giá quá thấp khả năng của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trước và trong dịp Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Sách mới in đến tập 5 thì bị thu hồi do quan điểm bị coi là không chính thống, nên các tập sau không được xuất bản.
Sinh thời, Thượng tướng Trần Văn Trà thường dành nhiều thời gian để viết hồi ký và tham luận khoa học trong các hội thảo
Tuy
nhiên hai câu thơ đó làm cho chúng ta ngậm ngùi nhớ về nhiều con người
hữu danh cũng như vô danh đã gục ngã, đã khuất trên dọc đường trường
chinh ấy, nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông thực sự đã “ra đi hai bàn
tay trắng” để giành lại giang sơn cho dân tộc Việt, nhưng ông đã không
có mặt trong ngày Toàn Thắng.
Ngay
từ năm 1960, Hồ Chí Minh đã tiên đoán rằng chậm nhất là 15 năm nữa,
miền Nam sẽ được giải phóng, Nam - Bắc sẽ xum họp một nhà và thường trực
trong ông một mong ước tột cùng là đến ngày đó ông sẽ vào thăm hỏi đồng
bào Miền Nam. Mong ước đó đã không bao giờ thành hiện thực: Hồ Chí Minh
từ trần vào ngày 2-9-1969 (đúng vào ngày Quốc Khánh của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng Hòa - cuộc đời của những thiên tài thường hay có những điểm
kỳ lạ mà chỉ có thể giải thích được bằng con đường tâm linh).
Hồ
Chí Minh chưa bao giờ kể về đời mình, chắc rằng không phải ông “làm
cao” mà có lẽ ông định sau khi thống nhất nước nhà, thực sự mãn nguyệt
rồi, lúc đó ông sẽ kể? Hay là vì điều này: Hồ Chí Minh là một vĩ nhân và
những bậc vĩ nhân thường phải hội đủ hai mặt: danh tiếng “nổi như cồn”
đồng thời cuộc đời có nhiều uẩn khúc? Và phải chăng địa linh nhân kiệt
hun đúc nên vĩ nhân, anh hùng và đồng thời cũng bày ra sự trái ngược ấy
để vĩ nhân, anh hùng đi vào lịch sử, bất tử ở đó với những câu chuyện
truyền kỳ đượm sắc thái lung linh, huyền thoại liên quan đến thân thế,
sự nghiệp họ?
Trong
chính sử, điều rõ ràng là ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An có
phó bảng Nguyễn Sinh Sắc lấy vợ là Nguyễn Thị Loan, sinh được ba người
con: Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Sinh Cung. Cả ba
người con ấy sau này đều không lấy vợ (hay chồng) nên cũng không có con.
Lịch sử không nói đến thân phụ của Nguyễn Sinh Sắc là ai và cũng không
cho biết Nguyễn Sinh Sắc là con một. Lịch sử về thân thế dòng họ Nguyễn
Sinh, cơ bản chỉ có vậy. Người ta có cảm giác một dòng họ đột ngột được
sinh ra từ trời đất, duy trì được 2 đời rồi tuyệt nhiên trở về trời đất,
mất hút. Thật kỳ lạ!
Nguyễn Sinh Sắc (còn gọi là Nguyễn Sinh Huy), báo chí thường gọi bằng tên cụ Phó bảng; 1862–1929) là cha đẻ của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nguyễn Sinh Sắc (còn gọi là Nguyễn Sinh Huy), báo chí thường gọi bằng tên cụ Phó bảng; 1862–1929) là cha đẻ của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngưỡng
mộ và kính phục Hồ Chí Minh, trong một thời gian dài, chúng ta đã cố
gắng tìm hiểu nguồn gốc, dòng họ của Nguyễn Sinh Cung (tên lúc còn nhỏ
của Hồ Chí Minh), từ Nguyễn Sinh Sắc - thân phụ ông, trở về trước và
không thu được một manh mối thực sự đáng tin nào. Đành rằng ở Nam Đàn,
Nghệ An cũng có một dòng họ Nguyễn Sinh, và cũng có thông tin kiểu “rỉ
tai, truyền khẩu” rằng Nguyễn Sinh Sắc là con em ruột thịt của dòng họ
này. Nhưng vì thông tin đó tỏ ra manh mún, mờ nhạt và hơn nữa ẩn chứa
nhiều mâu thuẫn nên rất khó lòng mà tin được. Thời Nguyễn Sinh Sắc so
với ngay thời nay vẫn là một quá khứ “rất gần”, so với thời Hồ Chí Minh
còn sống, còn gần hơn nữa. Sao trong thực tế lịch sử thấy mối quan hệ
giữa cha con Nguyễn Sinh Sắc với dòng họ Nguyễn Sinh có vẻ hời hợt,
thiếu mật thiết? Chưa từng nghe Hồ Chí Minh có chú, bác ruột. Điều đó
phải chăng vì Nguyễn Sinh Sắc là con trai một? Nếu thế sao không thấy
Nguyễn Sinh Sắc lập bàn thờ, ít ra là thờ cha mẹ mình theo truyền thống
dân tộc Việt. Tại sao lúc về già, Nguyễn Sinh Sắc giã từ con cái (ông
Khiêm, bà Thanh), rời bỏ quê hương bản quán, hành phương Nam, đến Cao
Lãnh - Đồng Tháp xa xôi hành nghề bốc thuốc và hoạt động yêu nước rồi
mất tại đó?
Dứt
khoát thông tin “rỉ tai, truyền khẩu” nói trên chưa xuất hiện khi ông
Khiêm, bà Thanh và Hồ Chí Minh còn sống, vì không ai trong số họ, như
mọi người dân Việt khác lại vô cớ chối bỏ dòng họ, ông bà mình. Nếu lúc
đó đã có thông tin đó thì nó phải là sự thực, có tính công khai và phải
có rất nhiều người biết, còn không, chỉ là một sự vu khống. Mà ai lúc đó
dám mở miệng vu khống? Có thể nghĩ rằng đó là một thông tin thất thiệt,
mãi về sau mới được tung ra và đơn giản là chỉ vì một ước muốn háo danh
thầm kín nào đó chăng?
Như
vậy, nếu suy luận của chúng ta có lý thì họ Nguyễn Sinh của Nguyễn Sinh
Sắc và dòng họ Nguyễn Sinh ở Nam Đàn - Nghệ An chỉ là một sự trùng hợp
ngẫu nhiên, còn không, nó phải hàm chứa một uẩn khúc nào đó. Để giải tỏa
cái uẩn khúc đó thì trước tiên phải trả lời được câu hỏi: Nguyễn Sinh
Sắc thực sự là ai, tại sao lại mang họ Nguyễn Sinh? Theo một bài viết (theo
tác giả, "Đây là những lời truyền miệng nhân gian, cho nên cùng lắm,
chúng chỉ có thể coi là những giai thoại mà, nếu không khó tính lắm,
ta cũng có thể gọi là những giai thoại lịch sử.") của giáo sư Trần Quốc Vượng, là một trong những nhà khảo cổ học và nghiên cứu sử Việt Nam hàng đầu:
"Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ. Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
"Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ. Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy
không phải là thuộc dòng máu mủ của họ. Nguyễn Sinh làng này. Mà là con
của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo.
Cử
nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử
cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn
thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn
Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ
giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ
Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở
Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ
nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học
- là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng
đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có
thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã
Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là
một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".
Chủ
tịch Hồ Chí Minh chúc mừng cụ Tôn Đức Thắng được bầu làm Phó Chủ tịch
nước tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá II (tháng 7/1960).Long Hy (Sưu
tầm)
Bác Hồ với các Anh hùng, chiến sĩ thi đua miền Nam (1965) - Ảnh Vũ Đình Hồng.
Bác làm việc trong vườn Phủ Chủ tịch, 1957. Long Hy (Sưu tầm)
Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch 1969. Long Hy (Sưu tầm)
Ảnh chụp Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch năm 1969. Long Hy (Sưu tầm)
Bác Hồ thăm hỏi đồng bào. Long Hy (Sưu tầm)
Bác Hồ tại Chiến dịch Biên giới 1950. Long Hy (Sưu tầm)
Bác Hồ làm việc trong vườn ở Phủ Chủ tịch. Long Hy (Sưu tầm)
Bác Hồ với đồng bào dân tộc. Long Hy (Sưu tầm) Long Hy (Sưu tầm)
Bác Hồ tự làm vườn trong Phủ Chủ tịch. Long Hy (Sưu tầm)
Bác Hồ tại nhà sàn trong Phủ Chủ tịch. +Long Hy (Sưu tầm)
Nhà họ Hà có cô con gái tên là
Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là
múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà
dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô
Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết
mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi
truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong
truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự
thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ
quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người
ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô
loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi
vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông
cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm
lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài
gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông
cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng
nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh
nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được
hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc
bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao
mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và
người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn
Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một
người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ - mong ém
nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công việc
rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận.
Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc
thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông
dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi,
lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử
Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai
mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời
chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm
điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở
riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ
kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh
Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông,
con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì"
hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm
vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con -
lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì
của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời
vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi,
lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau
đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn,
về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha
lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ
muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".
Không
cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về
vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm
thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của
cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu
cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May
có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó,
xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác,
lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi
Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu
lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn
nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở
riêng.
Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc
gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sơn
"quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị
Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt)
đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này
là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên
ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân
Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà
đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.
Tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua (nước Pháp), tháng 12/1920, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. |
Sau Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 5, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu tham gia cách mạng Trung Quốc, đồng thời lo xây dựng phong trào cách mạng Việt Nam và Đông Dương. |
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. |
Người làm việc trong phòng làm việcở Phủ Chủ tịch năm 1946. |
Người làm việc trong hang đá ở Việt Bắc năm 1951. |
Là người sáng lập và lãnh đạo quân đội ta, Hồ Chủ tịch đã theo dõi mặt trận suốt thời gian chiến dịch biên giới. |
Hình ảnh Bác thăm một xưởng công binh tại căn cứ Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. |
Chủ tịch Hồ Chí Minh sau ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954). |
Đại biểu học sinh trường trung học Trưng Vương (Hà Nội) đến chúc thọ Bác (5/1956). |
Năm 1956, Người căn dặn các cán bộ phụ nữ toàn miền Bắc “đoàn kết chặt chẽ, ra sức tham gia xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà và giữ gìn hòa bình thế giới”. |
Tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, III toàn miền Bắc ngày 13/9/1958, Người tới thăm và căn dặn: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. |
Người đến thăm các chiến sĩ của lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội năm 1966. |
“Người ngồi đó với cây chì đỏ Vạch đường đi từng bước, từng giờ” (Tố Hữu). |
Bác Hồ trong trang phục của Hải quân. |
Qua
giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu
cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng
Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học
thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi
(1895), ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi
gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các
quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi
như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng
biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con
cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không
có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm
sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một
"cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi
tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc
Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày
22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh
đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng
chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh ngày nay) trở thành con trai út.
Nguyễn
Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc
dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng
và được "vinh quy bái tổ" về làng.
Theo
thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê
nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân
xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh
đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về
làng.
Thế là buộc lòng ông phải về "quê
nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh
Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn
hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi tho ông.
Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng
gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên.
Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan
(1904) ở bộ Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị
đổi đi tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan),
khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sài gòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ
ông về làng Sen trở lại nữa.
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người
ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua
Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội
nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái
đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông
sang Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn
- Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở
làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa,
khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa
chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không
kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này...
Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau
cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai
thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân
quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí
Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm
1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và
biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức
của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí
Minh được hình thành trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà
Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được
hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa
là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa (mystified).
Ngay
sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về
Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng
tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau
nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù
là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ.
Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở
lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng:
Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực
của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và
dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau
cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh
Nghệ An - cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê
nội".
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi.
Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với
quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải
làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi
không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó
không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời
truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái
"mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán
Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng
quê...".
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét