TT&HĐ III - 28/g
Tướng quân Bãi Sậy - Ngô Quang Huy - Phần 1+2
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
Cervantes (Tây Ban Nha)
Cicero (La Mã)
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
CHƯƠNG VII (XXVIII): BẤT KHUẤT
(Tiếp theo)
***
-Khởi nghĩa Bãi
Sậy là một trong các cuộc khởi nghĩa
của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại
ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn ra từ năm 1883 và kéo dài đến năm
1892 mới tan rã. Bãi Sậy là một trong những trung tâm chống Pháp lớn
nhất vào cuối thế kỷ 19.
Trong thời kỳ đầu (1883 - 1885), phong trào do Đinh Gia Quế lãnh đạo, các địa bàn hoạt động lúc này còn giới hạn ở vùng Bãi Sậy (bao gồm địa phận các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mỹ thuộc tỉnh Hưng Yên). Từ năm 1885 trở đi, vai trò lãnh đạo thuộc về Nguyễn Thiện Thuật. Ông là thủ lĩnh cao nhất của nghĩa quân Bãi Sậy. Bố chánh Thái Nguyên Vũ Giác là người giúp đỡ rất nhiều cho cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Văn
chỉ Bình Dân, xã Tân Dân, huyện Khoái Châu, Hưng Yên- nơi đây từng là
đại bản doanh của nghĩa quân Bãi Sậy (Bộ văn hóa xếp hạng di tích Lịch
sử- Văn hóa năm 1962)
Sau khi đánh chiếm Nam Kỳ, người Pháp tiến quân ra Bắc và tiếp tục đánh chiếm Bắc Kỳ của Việt Nam. Nhà Nguyễn hạ lệnh các cánh quân chống Pháp hạ vũ khí, Nguyễn Thiện Thuật kháng lệnh triều đình, quyết tâm đánh Pháp. Tháng 8 - 1883, Pháp chiếm Hải Dương, Nguyễn Thiện Thuật đã mộ quân, mưu đánh chiếm tỉnh lị, việc không thành, ông kéo quân lên phối hợp với Hoàng Tá Viêm chống Pháp ở Sơn Tây. Ông về Đông Triều mộ quân, hợp lực với tướng quân Cờ Đen là Lưu Vĩnh Phúc chống Pháp. Ông liên lạc với Đinh Gia Quế
phát triển lực lượng ở vùng đồng bằng, tập hợp được nhiều tướng như
Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Thiện Giang (Lãnh Giang), Đốc Tít, Đốc Cọp, Đốc
Sung, Đề Ban, Đội Văn, Đề Tính, bà Đốc Huệ và các nhà nho Ngô Quang Huy,
Nguyễn Hữu Đức tham gia. Cuối năm 1883, sau khi ký Hiệp ước Harmand, nhà Nguyễn ra lệnh bãi binh đợi chỉ dụ. Nguyễn Thiện Thuật không nghe theo, mang quân lên Tuyên Quang cùng với Nguyễn Quang Bích
giữ thành. Sau khi các thành Hưng Hóa và Lạng Sơn thất thủ, Nguyễn
Thiện Thuật chạy sang Long Châu (Trung Quốc) chuẩn bị lực lượng tiếp tục
chiến đấu.
Sau cuộc tấn công ở kinh thành
Huế đã thất bại, Tôn Thất Thuyết mang vua Hàm Nghi chạy ra ngoài. Tháng 7
năm 1885, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương. Nguyễn Thiện Thuật trở về
nước, thành lập căn cứ địa Bãi Sậy do Đồng Quế trao lại. Vua Hàm Nghi
phong cho ông làm Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần, gia trấn Trung
tướng quân, nên nhân dân còn gọi ông là quan Hiệp thống. Dưới sự lãnh
đạo của Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa Bãi Sậy lan ra khắp tỉnh Hưng Yên
và một số tỉnh lân cận.
Tháng 9 năm 1885 nghĩa quân vượt sông Hồng sang đánh phá các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa. Đêm 28 rạng ngày 29 tháng 9, quân Bãi Sậy tấn công thành Hải Dương, quân Pháp phải điều hai pháo hạm tuần tiễu trên sông Thái Bình để bảo vệ.
Tháng 10 năm 1885 Thống tướng Roussel de Courcy giao cho thiếu tướng François de Négrier, trung tá Donnier cùng Hoàng Cao Khải
mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Bãi Sậy. Được tin, Nguyễn Thiện Thuật
lệnh cho các tướng bí mật tấn công vào các đồn địch, chặn đường địch
hành quân. Sau đó, ông nhử địch vào sâu căn cứ nơi đặt trận địa mai
phục. Khi quân Pháp biết bị mắc lừa định rút lui thì quân Bãi Sậy nổ
súng và dùng đoản đao, mã tấu đánh giáp lá cà. Nhiều quân Pháp bị giết, tướng Négrier chạy thoát.
Tại căn cứ Hai Sông, vào tháng 11-1885, suốt trong 2 tuần, nghĩa quân
đã phải chống cự quyết liệt với một binh đoàn lớn do Falcon và Faure
chỉ huy.
Ngoài hoạt động chống càn quét, nghĩa quân còn tổ chức nhiều trận tập
kích hiệu quả. Ngày 26/6/1886, nghĩa quân tấn công một đồn Pháp ở Cầu Đuống. Tháng 9/1885, Nguyễn Thiện Thuật trực tiếp chỉ huy nghĩa quân tấn công chiếm lại thành Hải Dương,
rồi tỏa ra đóng giữ các làng xung quanh. Nhưng do lực lượng quá yếu,
nên sau đó nghĩa quân phải rút lui. Tháng 9/1886, nghĩa quân chặn đánh
binh đoàn Bazinet và tấn công đồn Bần Yên Phú, đẩy mạnh các hoạt động ra
các miền phụ cận Hà Nội, Bắc Ninh.
Ngày 12/2/1887, một trận đụng độ lớn đã xảy ra ở vùng Kẻ Sặt (Hải Dưong). Từ cuối năm 1888 đến đầu năm 1889, nghĩa quân còn tổ chức đánh thắng quân Pháp nhiều trận, như các trận ở Lang Tài (Bắc Ninh), Dương Hòa (Hưng Yên)...
Đạn trái cam dùng trong khởi nghĩa Bãi Sậy
Thống tướng De Courcy bị bãi chức, Charles-Auguste-Louis Warnet
sang thay. Warnet thực hiện càn quét quy mô lớn bằng chiến lược phân
tán quân đội, lập các đồn nhỏ để dễ tuần tiễu, đồng thời chuyển chế độ
cai trị bằng quân sự sang dân sự, nhưng cũng không thành công.
Ngày 9 tháng 2 năm 1888, em Nguyễn Thiện Thuật là Nguyễn Thiện Dương
bị tử trận trong cuộc đụng độ với quân Pháp do viên đội Fillipe chỉ huy.
Được tin em chết, ngay đêm đó Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho Tuần Vân, Đề
Tính tấn công đồn Ghênh và đồn Bần Yên Nhân để trả thù, giết chết 21
quân địch.
Ngày 11 tháng 11 năm 1888, Hoàng Cao Khải cùng giám binh Ney chỉ huy
đồn Mỹ Hào đưa lính về gặt lúa ở Liêu Trung tổng Liêu Xá, muốn buộc dân
hết lương phải ra đầu thú, xa rời quân Bãi Sậy. Nguyễn Thiện Thuật được
tin, lệnh cho các tướng Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Văn Sung, Vũ Văn Đồng
đem 800 quân trong đó có 400 tay súng giả dạng phu gặt để phục kích.
Quân Bãi Sậy nổ súng giết chết 31 quân địch, trong đó có giám binh Ney,
Bang tá Nguyễn Hữu Hào. Hoàng Cao Khải trốn thoát về Mỹ Hào rồi nhờ giáo
dân Kẻ Sặt đưa đường chạy về Hải Dương.
Tháng 6 năm 1889, Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh thành lập đạo quân Tuần cảnh do Hoàng Cao Khải với chức Khâm sai Bắc Kỳ
làm Tư lệnh trưởng, Muselier làm Cảnh sát sứ. Quân Bãi Sậy giao chiến
quân Tuần cảnh suốt 8 tháng, gây cho địch khá nhiều thiệt hại. Trận Đông Nhu,
quân Bãi Sậy giết viên quản khố xanh Leglée; ngày 24 tháng 7 giết chết
viên quản khố xanh Escot ở làng Hoàng Vân. Ngày 18 tháng 10 Nguyễn Thiện
Thuật bắn viên quản Montillon bị trọng thương. Ngày 11/4/1891 quân của Hai Kế và Đề Vinh bị vây ở Mậu Duyệt, hai bên bắn nhau, viên quản Desmot bị giết, giám binh Lambert bị thương.
Nhiều lần không thắng được, người Pháp phải tặng Nguyễn Thiện Thuật danh hiệu "Vua Bãi Sậy".
Sức mạnh của quân Bãi Sậy cũng suy yếu dần. Quân Pháp thiết lập được nhiều đồn quanh căn cứ Bãi Sậy, các tướng Lãnh Điều, Lãnh Lộ, Lãnh Ngữ, Đề Tính cùng một số tướng lĩnh khác tử trận, số còn lại bị truy kích.
Hoàng Cao Khải nhân danh vua Đồng Khánh
chiêu dụ Nguyễn Thiện Thuật ra hàng và hứa khôi phục chức tước. Ông đã
viết vào tờ sớ dụ này 4 chữ "Bất khẳng thụ chỉ" (Không chịu nhận chỉ).
Toàn cảnh khu lưu niệm Tướng quân Nguyễn Thiện Thuật (xã Xuân Dục, thị xã Mỹ Hào)
Từ tháng 7/1889, Pháp tập trung binh lực bao vây và tấn công nghĩa
quân tại Trại Sơn là đại bản doanh của đội quân Hai Sông. Quân Pháp chia
thành 4 đạo, vây chặt căn cứ trung tâm, rồi dùng tàu bè đi tuần tiễu
ngày đêm trên tất cả ngả sông quanh căn cứ. Nghĩa quân phải rút chạy hết
nơi này qua nơi khác. Quân Pháp thắt chặt vòng vây, tăng cường truy
quét và khủng bố nhân dân trong vùng nhằm cắt đứt mối liên hệ giữa nghĩa
quân và nhân dân.
Thế
cùng lực kiệt (lương thực, đạn dược hết), ngày 12/8/1889, Đốc Tít phải ra hàng, rồi bị đày sang Algérie. Sau những tổn thất nặng nề đó, phong trào kháng Pháp ở vùng Hưng Yên, Hải Dương
bị giảm sút rõ rệt, nhưng vẫn còn duy trì thêm một thời gian nữa. Đến
năm 1892, khi thủ lĩnh cuối cùng của phong trào Bãi Sậy là Đốc Vinh bị
giết, lực lượng nghĩa quân Bãi Sậy mới tan rã hẳn. Nguyễn Thiện Kế trước
đó cũng bị Pháp bắt và đày đi Côn Đảo.
Tóm lại, khỏi nghĩa Bãi Sậy - Hai Sông (1883 - 1892) là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của nhân dân đồng bằng Bắc Kỳ cuối thế kỷ XIX. Cuộc khởi nghĩa này đã để lại nhiều bài học bổ ích.
-Khởi nghĩa Ba Đình là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn ra vào năm 1886-1887 tại Ba Đình, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Hưởng ứng phong trào Cần Vương, Tháng 3 năm 1886 các Lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa tổ chức cuộc họp tại Đồng Biên (Bồng Trung nay thuộc xã Vĩnh Tâm, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) bàn kế hoạch chống Pháp. Hội nghị đã quyết định giao cho Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt phụ trách xây dựng căn cứ Ba Đình ở vùng đồng bằng phía bắc huyện Nga Sơn. Căn cứ Ba Đình là nơi bảo vệ cửa ngõ miền Trung và là bàn đạp tỏa đánh địch ở đồng bằng. Đinh Công Tráng (1842 - 1887) cùng với các đồng đội của mình đã chọn vùng đất thuộc ba làng là: Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mỹ Khê (vì mỗi làng có một ngôi đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia, nên gọi là căn cứ Ba Đình; nay thuộc xã Ba Đình, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa) làm căn cứ kháng chiến lâu dài. Căn cứ Ba Đình cách huyện lỵ Nga Sơn 4 km, tây bắc giáp huyện Hà Trung. Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước mênh mông, tách biệt với các làng khác.
Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, các lãnh tụ Ba Đình đã cho bao bọc xung quanh căn cứ là lũy tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, cắm đầy chông tre. Ở trong là một lớp thành đất cao 3 m, chân rộng 8 đến 10m. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm xếp vững chắc có những khe hở làm lỗ châu mai sẵn sàng chiến đấu. Thành rộng 400 m, dài 1.200 m. Phía trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận chuyển lương thực và vận động khi chiến đấu. Ở những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các hầm chiến đấu được xây dựng theo hình chữ "chi", nhằm hạn chế thương vong.
Ở mỗi làng, tại vị trí ngôi đình được xây dựng một đồn đóng quân.
Ở Thượng Thọ có đồn Thượng, ở Mậu Thịnh có đồn Trung và ở Mỹ Khê có đồn
Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ tác chiến cho nhau khi bị tấn công, đồng
thời cũng có thể chiến đấu độc lập. Có thể nói rằng căn cứ Ba Đình có vị
trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng ngự quy mô nhất thời kỳ
Cần Vương cuối thế kỷ 19. Ngoài Ba Đình, còn có các căn cứ hỗ trợ: căn cứ Phi Lai của Tống Duy Tân và Cao Điển, căn cứ Quảng Hóa của Trần Xuân Soạn, căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao.
Từ đây, nghĩa quân có thể tỏa đi các
nơi, kiểm soát các tuyến giao thông quan trọng trong vùng, tổ chức phục
kích các đoàn xe vận tải của đối phương đi lại trên con đường
Bắc-Nam...Chính vì vậy, mà quân Pháp rất quyết tâm đánh dẹp.
Theo giúp Đinh Công Tráng có nhiều cộng sự, trong đó có Phạm Bành là người tài giỏi và đắc lực, đã cùng ông chỉ huy lực lượng nghĩa quân đánh bại hai đợt tấn công quy mô lớn của Pháp ngày 18 tháng 12 năm 1886 và ngày 6 tháng 1 năm 1887.
Đinh Công Tráng sinh năm Nhâm Dần (1842), quê ở làng Trinh Xá, huyện Thanh Liêm (Hà Nam). Là một người yêu nước, nên khi quân Pháp đến xâm chiếm, đang làm chánh tổng, Đinh Công Tráng đã rời quê gia nhập đội quân của Hoàng Kế Viêm. Khi Hoàng Kế Viêm phối hợp với quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc cầm cự với Henri Rivière, Đinh Công Tráng đã tham gia trận đánh ở Cầu Giấy. Nhờ có kinh nghiệm chiến đấu, ý chí dũng cảm và tư chất thông minh nên ông đã trở thành lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Ba Đình.
Phạm Bành (?-1887) là một viên quan chủ chiến, quê ở làng Tương Xá (Hậu Lộc, Thanh Hóa). Hưởng ứng phong trào Cần Vương, ông đã treo ấn từ quan về quê vận động sĩ phu và nhân dân khởi nghĩa. Trong cuộc khởi nghĩa này, ông là người đứng thứ hai sau Đinh Công Tráng.
Hoàng Bật Đạt (1827-1887) là người làng Bộ Đầu, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Năm Tự Đức thứ 21 (1868), ông thi đỗ Cử nhân, được bổ làm Giáo thụ huyện Phong Doanh (nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Sau, ông được cử làm Tri huyện Lang Tài (nay là huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh). Sau trận kinh thành Huế (tháng 7 năm 1885), phe chủ chiến thất bại, khiến vua Hàm Nghi phải chạy ra Sơn phòng Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị) ban bố dụ Cần Vương. Hưởng ứng, Hoàng Bật Đạt cùng với Phạm Bành mộ quân, rồi hiệp cùng lực lượng của Đinh Công Tráng, Nguyễn Đôn Tiết, v.v...đi đánh quân Pháp.
Lực lượng nghĩa quân Ba Đình lúc đầu chỉ có khoảng 300 người, nhưng sau đó được bổ sung thêm. có lúc đông tới hai vạn người, tuyển từ ba làng và các vùng Thanh Hóa, bao gồm cả người Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10 toán, mỗi toán có một hiệp quản chỉ huy. Về vũ khí, nghĩa quân tự trang bị bằng súng hỏa mai, giáo mác, cung nỏ, vài khẩu súng thần công.
Đinh Công Tráng và Phạm Bành
Năm 1886, nghĩa quân liên tiếp tiến công các phủ, thành, huyện lỵ, chặn đánh các đoàn xe, các toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 12 tháng 3 năm 1886 lợi dụng phiên chợ đã tấn công Tòa Công sứ Thanh Hóa. Và tiếp đó, nghĩa quân đã tấn công nhiều phủ thành, chặn đánh các đoàn xe, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại.
Ngày 18/12/1886, quân Pháp mở cuộc tấn công quy mô lần thứ nhất vào căn cứ Ba Đình. Quân Pháp gồm 500 lính, có đại bác 80 ly yểm hộ. Mở đầu quân Pháp đã nã tới 16.000 quả đại bác trong vòng một ngày trời, biến căn cứ Ba Đình thành biển lửa. Sau đó chúng tấn công căn cứ Ba Đình từ hai hướng. Hướng tây nam do trung tá Metzanhzơ (Metzinzer), hướng đông bắc do trung tá Đôt (Dodds) chỉ huy. Trận này cả 2 cánh quân của địch bị chặn đứng trước những tay súng, tay cung thiện xạ của nghĩa quân. Nhiều tên giặc đã phải chôn xác dưới bùn sâu, cuộc tấn công của Pháp vào căn cứ Ba Đình lần thứ nhất thất bại, bị nghĩa quân đánh lui.
Ngày 6/1/1987, giặc Pháp tấn công lần thứ hai, quân giặc chia làm 3 mũi tiến công sau một hồi pháo kích giữ dội vào căn cứ. Khi chúng tiến sâu vào đến gần thành lũy đã bị nghĩa quân Ba Đình chặn lại, một số tên mạo hiểm leo lên thành đều bị đôi cảm tử của nghĩa quân tiêu diệt. Ở những nơi khác, quân địch bị xa lầy trong bùn nước sâu, lại bị hỏa lực của nghĩa quân bắn trúng nên rất hoang mang, địch đã tổn thất nặng nề và đành rút lui.
Sau trận này, thấy không thể thắng nhanh được, nên quân Pháp chuyển sang phương án bao vây. Ngày 6 tháng 1 năm 1887, Trung tá Đôt lại cho quân tấn công đợt nữa, nhưng cũng không thành công, ông bèn cho quân rút ra xa, tổ chức bao vây và chờ viện binh.
Không
thể để căn cứ Ba Đình tồn tại giữa vùng đồng bằng giáp ranh Thanh Hóa
và Ninh Bình, làm cản trở công cuộc thôn tính nước Việt, Bộ Tư lệnh quân
viễn chinh Pháp quyết định:
-Nâng số quân Pháp đánh Ba Đình lên 3.530 lính (1.580 lính Âu và
1.950 lính bản xứ). Ngoài ra, còn 5 nghìn dân binh và giáo dân của linh mục Trần Lục đến tiếp tay.
-Tăng số pháo sử dụng lên 36 khẩu, trong đó có 4 khẩu 95 ly, 10 khẩu 81 ly, 4 khẩu 65 ly,...
-Đưa 4 pháo hạm và nhiều thuyền lớn đến yểm trợ và lo việc tiếp vận.
-Cử Đại tá Brixô (Brissaud) làm tổng chỉ huy.
Tội lỗi nhất là Linh
mục Trần Lục đã bày mưu cho Pháp để vô hiệu hoá khu ngập nước với bãi
chông và luỹ tre bảo vệ Ba Đình: chúng khơi con kênh bao quanh Ba Đình
để nước thoát dần ra sông khi triều xuống, cho giáo dân ken tre
làm phên, phủ rơm dần lên bãi chông và luỹ tre, tạo điều kiện cho
Pháp thực hiện kế hoả công, vô hiệu hoá bãi chông và đốt cháy luỹ tre
Sau khi cắt đứt xong đường tiếp tế của nghĩa quân, Đại tá Brissaud
liền cho quân tiến đánh căn cứ Ba Đình. Lần này, Brissaud vừa cho phun
dầu đốt cháy các lũy tre, vừa cho nã pháo tới tấp, biến căn cứ Ba Đình thành một biển lửa.
Ngày 15/1/1887, Pháp mở đợt tấn công vào căn cứ Ba Đình lần ba. Lần này chúng tăng thêm một vòng vây phía trong và một tay Lưới đón lỏng, chuẩn bị cho đợt tấn công mới. Chúng đã vẽ được sơ đồ chiến lũy Ba Đình do khai thác được từ một số tù binh và quyết định tập trung mũi nhọn đánh vào vị trí phía Bắc Thượng Thọ. Sáng gày 20/1/1887, toán công binh của địch đã tiến sát phòng tuyến thứ nhất của chiến lũy bao quanh Ba Đình. Công binh Pháp đã phải tưới dầu hỏa vào những cây tre bằng rơm chữa cháy rồi phóng hỏa, nhưng chỉ một phần bắt lửa, bọn địch dẫm bừa lên xác chết xông vào. Cuộc chiến trở nên vô cùng ác liệt. Bệnh tả, kiết lỵ bắt đầu xuất hiện bên phía nghĩa quân do nguồn nước bị ô nhiễm.
Nghĩa quân Ba Đình đã chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm chống lại đối
phương đông gấp 12 lần, được trang bị vũ khí tối tân hiện đại. Trong
trận chiến đấu vô cùng ác liệt này, nghĩa quân đã tỏ ra mưu trí dũng
cảm, nhưng vì hỏa lực mạnh của đối phương nên nghĩa quân Ba Đình bị
thương vong nhiều.
Trước sức mạnh của đối phương, để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, dành sức cho cuộc chiến tiếp theo, Phạm Bành và Đinh Công Tráng quyết
định rút quân khỏi căn cứ Ba Đình vào đêm 20/1/1887 trong màn sương dày
đặc, tiết trời giá rét. Đội cảm tử do Đốc Khế chỉ huy bất ngờ tiến công
các đồn địch phía trong và nghĩa quân do Trần Xuân Soạn chỉ huy cũng tấn
công các đồn ngoại vi của chúng. Giữa lúc đấy, đại bộ phận của nghĩa
quân Ba Đình do Đinh Công Tráng và Phạm Bành chỉ huy, theo hai hướng
khác nhau, vượt qua 800m bãi lầy, ngăn cách họ với phòng tuyến của địch
và thoát ra ngoài. Nhiều nghĩa quân đã được nhân dân Nga Sơn nuôi dấu.
Cuộc rút lui của các chiến sĩ Ba Đình hoàn toàn thắng lợi, nghĩa quân Ba Đình đã mở đường máu vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút về căn cứ dự phòng ở Mã Cao.
Sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp chiếm được cứ điểm Ba Đình. Sau khi ra sức tàn phá, họ còn bắt buộc triều đình nhà Nguyễn phải xóa tên ba làng trên bản đồ hành chính.
Thủ lĩnh Đinh Công Tráng vừa đến Mã Cao, chưa kịp củng cố lực lượng, thì đã bị quân Pháp đuổi theo tấn công. Ngày 2 tháng 2 năm 1887,
một trận giao tranh ác liệt đã xảy ra ở đây. Thấy không đủ sức kháng
cự, lợi dụng lúc đêm tối, các thủ lĩnh đành phải cho quân rút theo hướng
Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóa sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước.
Kết cục, thủ lĩnh Nguyễn Khế tử trận. Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự sát... Hoàng Bật Đạt sau bị bắt và bị Pháp chém đầu vì tinh thần bất khuất, không hàng giặc. Đinh Công Tráng thì chạy về Nghệ An. Một số khác theo Đinh Công Tráng rút về Nghệ An. Về Nghệ An, Đinh Công Tráng định gây lại phong trào. Quân Pháp treo giải cái đầu ông với giá trị tiền thưởng rất cao. Vì tham tiền thưởng, viên lý trưởng làng Chính An đã mật báo cho quân Pháp đến lùng bắt và sát hại Đinh Công Tráng. Ông hy sinh ngày 5 tháng 10 năm 1887 trong trận chiến đấu với đối phương tại làng Trung Yên, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Nghĩa quân cuộc Khởi nghĩa Ba Đình bị bắt
Tướng Pháp tên là Mason nhận định về Đinh Công Tráng như sau:
- "(Ông) là người có trật tự, trọng kỷ luật, cương trực, hay nghiêm trị những thủ hạ quấy nhiễu dân; có chí nhẫn nại, biết mình, biết người, không bao giờ hành binh cẩu thả, giỏi lập trận thế."
Đề cập đến sự thất bại của ông, nhóm tác giả sách "Đại cương lịch sử Việt Nam" (Tập 2) cho rằng:
"Thất bại của ông bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, mà trực tiếp là
do chiến thuật phòng ngự bị động, với việc lập chiến tuyến cố thủ tại
một vùng đồng chiêm trũng, địa bàn chật hẹp, dễ dàng bị cô lập khi bị
đối phương bao vây hoặc tấn công. Đây được coi là điển hình của lối đánh
chiến tuyến cố định".
Cuộc khởi nghĩa Ba Đình và các lãnh tụ Ba Đình được lịch sử đánh giá rất cao. Chính người Pháp đã phải thừa nhận "1886-1887, cuộc công hãm Ba Đình là quan trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu hút nhiều quân lực nhất và làm cho các cấp chỉ huy lo ngại nhiều nhất". Mặc dù bị thất bại nhưng khởi nghĩa Ba Đình đã gây cho Pháp nhiều tổn thất.
Năm 1945, Bác sĩ Trần Văn Lai được cử làm Đốc lý Hà Nội (Thị trưởng). Vốn là một trí thức có tinh thần dân tộc, ngay sau khi nhận chức, ông đã quyết định đổi một loạt tên đường phố từ tiếng Pháp sang tiếng Việt lấy theo tên của các vị anh hùng Việt Nam như: Phố Garnier thành phố Đinh Tiên Hoàng, phố Boulevard Carnot thành phố Phan Đình Phùng... Vườn hoa Pugininer trước Phủ Toàn quyền được ông đổi tên thành Vườn hoa Ba Đình để kỷ niệm khởi nghĩa Ba Đình. Tại đây, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho xây dựng một lễ đài, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc Tuyên ngôn độc lập và chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân, chính thức khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
130 năm Khởi nghĩa Ba đình
(Còn tiếp)---------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét