Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2021

TT&HĐ III - 30/b


PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


.

CHƯƠNG IX (XXX): THỜI CUỘC

“Nếu như sau cái đêm tối tăm của thời trung cổ, các ngành khoa học đột nhiên sống lại với một sức mạnh không ngờ và bắt đầu phát triển nhanh chóng một cách kỳ diệu, thì sự kỳ diệu ấy cũng chính là nhờ sản xuất mà có”
Ph. Ăngghen

"Tình yêu giống như chiến tranh, dễ bắt đầu nhưng rất khó để dừng lại."


"Tôi không biết chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ sử dụng vũ khí nào nhưng tôi biết rằng chiến tranh thế giới thứ 4 sẽ sử dụng gậy gộc và đá!"  - Albert Einstein
"Chúng ta từng tự hỏi chiến tranh sống ở đâu, và điều gì khiến nó gớm guốc như vậy. Và giờ chúng ta nhận ra mình biết nó sống ở đâu... ở trong chúng ta."  -


"Người ta vẫn gọi chiến tranh là tội giết người. Không phải: nó là tự sát."
  - Ramsay MacDonald


"Chưa từng có lúc nào thế giới không chiến tranh. Dù trong bảy nghìn, mười nghìn hay hai mươi nghìn năm. Những nhà lãnh đạo khôn ngoan nhất, hay những vị vua cao quý nhất, hay cả Nhà thờ - không ai trong số họ có thể ngăn chặn nó. Và đừng chịu thua thứ lòng tin dễ dãi rằng những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội nóng vội có thể ngăn được chiến tranh. Hay có thể chia tách được chiến tranh vì lẽ phải hay đúng đắn ra khỏi phần còn lại. Luôn có hàng nghìn hàng nghìn người mà đối với họ thậm chí cả chiến tranh theo kiểu đó cũng là vô nghĩa và phi lý." - Aleksandr Solzhenitsyn


"Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó." - Benjamin Franklin

"Chiến tranh là sự ngu dại tột bậc của cuộc sống"
Thầy Cãi

 
 
 
 (Tiếp theo)
 
                                                                   ***

Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Tháng 4-1922, Hội xuất bản tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Nhiều bài báo của Nguyễn Ái Quốc đã được đưa vào tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, xuất bản năm 1925. Đây là tác phẩm nghiên cứu, vạch trần bản chất bóc lột của thực dân, đế quốc.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô (tên gọi tắt của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết) để học hỏi, tìm hiểu, nghiên cứu cách mạng vô sản Nga và tham gia hoạt động trong Quốc Tế Cộng Sản. Tại Đại hội V của Quốc Tế Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc đã đọc một bản tham luận quan trọng, bảo vệ quan điểm của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Trong thời gian này, ngoài công việc trong Quốc Tế Cộng Sản và cùng với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc cũng luôn theo dõi diễn biến tình hình đấu tranh cách mạng trong nước.


                          Nguyễn Ái Quốc, chụp tại Liên Xô năm 1923.
Năm 1924, tại thành phố Moskva, ông viết và nộp cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế một bản Báo cáo về tình hình Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Nhận thấy phong trào đấu tranh giai cấp tại Việt Nam có sự khác biệt với phong trào đấu tranh giai cấp bên Tây phương đương thời, ông có nhận xét về các tầng lớp địa chủ, tăng lữ,... của Việt Nam như sau:

Ông cho rằng:

Ngày 11-11-1924, với tư cách ủy viên Ban Phương Đông của Quốc Tế Cộng Sản và ủy viên Đoàn Chủ tịch Quốc Tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, ông vừa làm việc trong đoàn cố vấn Bôrôdin của chính phủ Liên Xô bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên, vừa tìm hiểu và tiếp xúc với những người Việt Nam yêu nước sang, chọn một số thanh niên yêu nước thuộc tổ chức Tâm tâm xã, trực tiếp mở lớp huấn luyện, đào tạo cấp tốc. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp lại, in thành cuốn sách “Đường Cách Mệnh”, một tác phẩm quan trọng đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam. Nội dung cơ bản của tác phẩm này là:
  • Muốn cứu nguy dân tộc thì phải làm cách mạng. Cuộc cách mạng tháng Mười Nga là triệt để nhất. Cho nên Cách mạng Việt Nam muốn thành công thì phải noi theo Cách mạng tháng Mười Nga.
  • Động lực của Cách mạng Việt Nam chủ yếu là Công - nông. Còn học sinh, tiểu thương, điền chủ nhỏ chỉ là bầu bạn của Cách mạng.
  • Cách mạng Việt Nam là bộ phận của Cách mạng thế giới, do đó đoàn kết quốc tế là vấn đề quan trọng đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam, bên cạnh tinh thần tự lực tự cường, tự chủ làm cách mạng.
  • Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi thì phải có Đảng cách mạng. Muốn Đảng vững mạnh thì phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập tổ chức “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội” tại Quảng Châu, với nòng cốt là những thanh niên đã qua huấn luyện; ra tuần báo “Thanh niên” nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Một số thanh niên đã qua huấn luyện cùng lần lượt được phái về nước hoạt động tuyên truyền, vận động cách mạng.
Hà Nội, từ đó trở thành nơi đưa đón thanh niên yêu nước từ trong nước sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện, từ Quảng Châu về nước hoạt động và cũng là nơi rất sớm đón nhận sách báo, tài liệu cách mạng ở Pháp sang, ở Trung Quốc về theo con đường bí mật, bất hợp pháp. Đặc biệt, các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đường cách mệnh”, báo “Thanh niên”… đã được người dân Hà Nội khao khát tìm đọc, bất chấp sự theo dõi, khủng bố của thực dân Pháp.
Cuối năm 1926, chi bộ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội” được thành lập tại một địa điểm ở làng Dịch Vọng (Từ Liêm). Đến năm 1927, cơ sở của Hội được mở rộng. Tháng 3-1927, kỳ bộ Bắc Kỳ của Hội được thành lập và cơ quan chỉ đạo được đặt ngay tại Hà Nội để từ đó đẩy mạnh việc tuyên truyền, phát triển tổ chức ở các địa phương. Tháng 6-1927, tỉnh bộ Hà Nội của Hội được thành lập và đẩy mạnh hoạt động (theo chủ trương của kỳ bộ Bắc Kỳ thì phạm vi hoạt động của tỉnh bộ Hà Nội gồm các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hưng Yên, Phú Thọ và huyện Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh cũ).
Tháng 5-1927, Nguyễn Ái Quốc từ Quảng Châu trở lại Mátxcơva, sau đó đi Béclin (Đức), đi Brúcxen (Bỉ), tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc, rồi đi Ý. Từ tháng 7-1928 đến tháng 11-1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với một số đại biểu dự Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần V
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với một số đại biểu dự Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần V
                            Bác Hồ vào năm 1933 khi vừa từ Trung Quốc trở lại Nga (ảnh do Bảo tàng Hồ Chí Minh thu thập được trong chuyến công tác tại Nga cuối năm 2006)
 Hồ Chí Minh vào năm 1933 khi vừa từ Trung Quốc trở lại Nga
Mùa thu 1928, ông từ châu Âu đến Xiêm La (Thái Lan), cải trang là một nhà sư đầu trọc, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều tại Xiêm, đồng thời xuất bản báo gửi về nước. Từ năm 1928, thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, nhiều hội viên của Hội đã xâm nhập vào đời sống công nhân, đến trực tiếp làm việc tại các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền… để tự cải tạo mình thành những người cách mạng có lập trường kiên định của giai cấp vô sản, đồng thời tích cực tuyên truyền, vận động, lôi kéo công nhân. Nhờ thế, phong trào đấu tranh ngày càng nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Đó cũng là kết quả bước đầu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Cuối năm 1929, ông rời khỏi Vương quốc Xiêm La và sang Trung Quốc.


                   Nhà lưu niệm Hồ Chí Minh ở Nakhon Phanom, Thái Lan, do người Việt ở đây xây dựng.
Thực tiễn phát triển của phong trào công nhân lúc này đã cho thấy tổ chức “Thanh niên cách mạng đồng chí Hội”, không còn đủ khả năng lãnh đạo; đòi hỏi phải có một chính đảng thực sự của giai cấp vô sản. Cuối tháng 3-1929, để đáp ứng tình hình đó, những phần tử tiên tiến trong kỳ bộ Bắc Kỳ và tỉnh bộ Hà Nội là Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh… đã họp tại nhà số 5 Đ, phố Hàm Long, gấp rút thành lập ra một chi bộ Cộng sản. Lần đầu tiên một chi bộ Cộng sản đã xuất hiện trên lãnh thổ Việt Nam.
Tại Đại hội kỳ bộ Bắc Kỳ lần thứ II (28-3-1929), chủ trương thành lập Đảng Cộng sản được nhiệt liệt tán thành. Nhưng đến Đại hội của “Thanh niên cách mạng đồng chí Hội” toàn quốc họp ở Hương Cảng (Trung Quốc) ngày 1-5-1929, đề nghị thành lập Đảng Cộng sản của đoàn Bắc Kỳ do Ngô Gia Tự làm trưởng đoàn đã bị bác bỏ. Ngay sau đó, đoàn Bắc Kỳ bỏ Đại hội ra về, triệu tập cuộc họp tại chùa Hương Tuyết (Bạch Mai) bàn về việc thành lập đảng. Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Đông Dương Cộng sản Đảng chính thức được thành lập, chính cương và tuyên ngôn của Đảng được công bố. Tờ báo Búa Liềm, cơ quan trung ương của Đảng, các tổ chức quần chúng của Đảng cũng lần lượt ra đời tại Hà Nội. Tỉnh bộ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội chuyển thành Thành ủy lâm thời của Đông Dương Cộng Sản Đảng.
Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng đã có ảnh hưởng to lớn đến phong trào cách mạng trong cả nước. Tháng 10-1929, An Nam Cộng sản Đảng ra đời ở Nam Kỳ. Tháng 1-1930, phái tả trong Đảng Tân Việt ở Trung Kỳ cũng tự tổ chức thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Chỉ trong một thời gian ngắn, ba tổ chức Đảng Cộng sản nối tiếp nhau ra đời tại Việt Nam đã nói lên sự bức bách mang tính tất yếu phải có một chính đảng vô sản để lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam.

Phòng họp của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
Phòng họp của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chi Hội
Có lẽ, sự thất bại trong đau thương nhưng hừng hực khí phách của cuộc khởi nghĩa chưa chín muồi do Quốc Dân Đảng phát động đã báo hiệu kết thúc quá trình đấu tranh tư tưởng cùng với trào lưu đấu tranh cách mạng cải lương, bất toàn, manh mún và không triệt để của cách mạng Việt Nam; mở ra một thời kỳ mới đầy hy vọng nhờ qui tụ được về một mối lực lượng quần chúng ngày càng đông đảo hơn, giác ngộ hơn, nhờ vào một đội ngũ lãnh đạo trung kiên hơn, kinh nghiệm hơn qua quá trình hoạt động đấu tranh yêu nước và cách mạng trước đó cũng như qua việc nhận thức ngày một sâu sắc nguyên lý của cách mạng vô sản, và nhất là nhờ có được một mục đích cách mạng cụ thể, rõ ràng, phù hợp với nguyện vọng của Đại Chúng, đáp ứng được quyền lợi sát sườn của quần chúng cần lao Việt Nam, mà công đầu vạch đường mở lối đã gắn liền với cái tên, nghe đã rung động lòng người: Nguyễn Ái Quốc.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long thuộc Hương Cảng, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, nhằm giải quyết những mâu thuẫn đang có giữa những người cộng sản ở Đông Dương, ông thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam") và cũng thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với Lời kêu gọi do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện này, cùng với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Cách Mệnh” đã đánh dấu sự hình thành về cơ bản tư tưởng của con đường cách mạng Việt Nam. Nội dung cơ bản về đường lối do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo lúc đó có thể nêu vắn tắt là: Cách mạng Việt Nam sẽ trải qua hai giai đoạn, trước làm cách mạng dân chủ tư sản, sau làm cách mạng xã hội chủ nghĩa; hai giai đoạn đó nối tiếp nhau không được chia tách, “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa Cách mệnh để đi tới xã hội cộng sản”; trong giai đoạn làm “cách mệnh tư sản dân quyền”, cách mạng thực hiện nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của Thực dân Pháp và vua quan phong kiến, tư sản phản cách mạng, giành độc lập tự do dân tộc, dựng nên Chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông, tịch thu hết sản nghiệp của đế quốc, tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản cách mạng đem chia cho dân cày nghèo, tiến hành “cách mệnh ruộng đất”, thực hiện khẩu hiệu “dân cày nghèo có ruộng”; lực lượng đánh đổ thực dân, phong kiến, tư sản phản động là công nhân và nông dân, “công nông là gốc cách mệnh” đồng thời cách mạng “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp; còn đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa lộ “rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập”; Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới; Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Việt Nam, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng.
. Cũng vào năm này, khởi nghĩa Xô Viết Nghệ Tĩnh nổ ra, do Đảng Cộng sản chỉ đạo, nhưng thất bại. Pháp cấm Đảng Cộng sản Đông Dương, và Nguyễn Ái Quốc bị xử tử hình vắng mặt.
Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
Chúng ta thấy, đường lối cách mạng cơ bản này, chính là sự rút ra bài học về nguyên tắc từ cuộc cách mạng tháng Mười Nga (Có một điều đáng ngạc nhiên là tình hình xã hội của nước Nga và Việt Nam, cũng như bước đường đấu tranh giành và giữ chính quyền của Cách mạng tháng Mười và Cách mạng Việt Nam sau đó đã có những nét tương đồng lớn lao. Có như thế phải chăng bản chất của chế độ Đế quốc phong kiến quân phiệt Nga đã không khác bao nhiêu so với bản chất chế độ thực dân - nửa phong kiến Việt Nam? Nếu đúng như thế thì là ngẫu nhiên hay định mệnh? Dù sao thì hiện tượng này vẫn cứ gợi nhớ đến Sự Tương Tự - một đặc tính vĩ đại và phổ biến của Tự Nhiên Tồn Tại trình hiện ra trước quan sát - nhận thức. Và điều này có lẽ thiêng liêng hơn: thành quả phi thường của Cách mạng tháng Mười Nga và của Cách mạng tháng Tám Việt Nam, trong tương lai sẽ mãi mãi được người đời khâm phục, một khi còn đấu tranh cách mạng giành quyền sống cơ bản của con người).

Nguyễn Ái Quốc (hàng đầu, thứ 2 từ phải) tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản (lần thứ 5) tại Moskva năm 1924 cùng Joseph Gothon-Lunion (thứ 3) và Leon Trotsky (thứ 4)Nguyễn Ái Quốc (hàng đầu, thứ 2 từ phải) tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản (lần thứ 5) tại Moskva năm 1924 cùng Joseph Gothon-Lunion (thứ 3) và Leon Trotsky (thứ 4)
Thế nhưng, tại Đại hội VI, Quốc tế Cộng Sản đã phê phán đường lối (dự thảo) đó của Nguyễn Ái Quốc. Cho nên hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng 10-1930, đã theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản vạch “án nghị quyết” thu hồi “Chính cương vắn tắt” và “sách lược vắn tắt”, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tại sao lại như vậy? Chúng ta sẽ quay lại với cuộc đấu tranh tư tưởng về vấn đề dân tộc và thuộc địa trong Quốc Tế Cộng Sản!
Để thảo luận “Những luận cương” của Lênin, Đại hội II Quốc Tế Cộng sản đã thành lập một tiểu ban riêng gồm 20 người, trong đó có đại biểu của Anh, Áo, Bungari, Hungari, Đức, Hà Lan, Ấn Độ, Inđônêxia, Aixơlen, Trung Hoa, Triều Tiên, Mêhicô, Nga, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Nam Tư. Cuộc tranh luận của Tiểu ban xoay quanh vấn đề: Quốc Tế Cộng sản tuyên bố ủng hộ phong trào dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa lạc hậu là đúng hay không đúng: Nói cách khác, cách mạng thuộc địa là cách mạng gì và từ đó nảy sinh ra những vấn đề gì.
Theo nhãn quan mácxít, tình hình cụ thể ở đa số các thuộc địa và phụ thuộc lúc đó là: nông dân chiếm 90% dân số, các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa, phong kiến, gia trưởng còn thống trị hay chiếm ưu thế; còn giai cấp vô sản công nghiệp thì đang hình thành, hoặc còn rất bé nhỏ, chưa giác ngộ giai cấp sâu sắc, chưa có tổ chức riêng của mình; chủ nghĩa cộng sản chưa được tuyên truyền một cách có hệ thống trong giai cấp công nhân… Trong điều kiện đó Lênin đã đi đến kết luận rằng: “Không còn nghi ngờ gì nữa, mọi phong trào dân tộc chỉ có thể là dân chủ tư sản thôi, vì quảng đại quần chúng nhân dân ở các nước lạc hậu là nông dân, tức là những đại biểu cho giai cấp tư sản - tư bản”. Cho nên “nhất thiết phải có sự giúp đỡ của tất cả đảng cộng sản đối với phong trào giải phóng dân chủ tư sản những nước ấy”. Tuy nhiên Lênin viết: “Chúng ta phải và sẽ chỉ ủng hộ những phong trào giải phóng có tính chất tư sản trong những nước thuộc địa, khi những phong trào đó thực sự có tính chất cách mạng, khi những đại biểu của các phong trào đó không ngăn trở chúng ta giáo dục và tổ chức - theo tinh thần cách mạng - nông dân và quảng đại quần chúng bị áp bức. Nếu không có những điều kiện như thế thì những người cộng sản chúng ta ở trong các nước đó phải đấu tranh chống giai cấp tư sản cải lương”. Để thể hiện rõ hơn tư tưởng đó, sau khi thảo luận, Tiểu ban đã nhất trí thay thế danh từ “dân chủ tư sản” bằng “dân tộc cách mạng”. Như vậy, theo quan điểm của Lênin, một mặt, phải ủng hộ phong trào dân chủ tư sản mà chủ yếu là phong trào nông dân để thúc đẩy phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa phát triển, lôi kéo các dân tộc thuộc địa tham gia quá trình cách mạng thế giới và qua thực tiễn đấu tranh tự quyết định vận mệnh của mình, mặt khác vì sự hạn chế của phong trào dân chủ tư sản, nhất là của giai cấp tư sản đang lãnh đạo phong trào ở một số nước, cho nên “không bao giờ được sát nhập với phái đó và phải kiên quyết giữ vững tính độc lập của phong trào vô sản, dù cho phong trào ấy còn ở dưới hình thức phôi thai nhất”.
Trong quá trình thảo luận “Những luận cương” tại Đại hội II Quốc Tế Cộng sản, một số người cộng sản phương Đông, tiêu biểu là M.N.Rôi (Ấn Độ) đã phản đối những quan điểm nêu trên của Lênin, đề ra những quan điểm sau này gọi là “tả khuynh, biệt phái”. Theo Rôi: phong trào dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa không phản ánh được nguyện vọng của quần chúng, các thủ lĩnh của nó không tin vào những người lao động, không được công nhận và nông dân ủng hộ; do đó phong trào dân chủ tư sản không thể thành công. Trái lại, việc quần chúng không ủng hộ phong trào dân chủ tư sản đã mở đường cho những người cộng sản giành quyền lãnh đạo cách mạng, cho nên nhiệm vụ hàng đầu là thành lập ngay các đảng cộng sản. Biên bản tóm tắt của hội nghị Tiểu ban về vấn đề dân tộc và thuộc địa có ghi: “Đồng chí M.N.Rôi đi đến kết luận cần phải bỏ một đoạn trong luận cương thứ 11 về vấn đề dân tộc nói rằng tất cả các đảng cộng sản phải gíup đỡ phong trào giải phóng dân chủ tư sản ở các nước phương Đông. Quốc Tế Cộng Sản chỉ cần giúp xây dựng và phát triển phong trào cộng sản ở Ấn Độ. Còn Đảng Cộng Sản Ấn Độ thì chỉ cần quan tâm đến việc tổ chức quảng đại quần chúng để đấu tranh vì những lợi ích của họ”. Về vấn đề tính chất của cách mạng thuộc địa, Rôi còn cho rằng Ấn Độ và các nước phương Đông khác đang đứng trước cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; làm cách mạng xã hội, các dân tộc bị áp bức vừa tự giải phóng được khỏi ách thống trị của bọn tư bản đế quốc nước ngoài, vừa ngăn chặn được sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nước, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đó cần phải có Đảng cộng sản; vì ở các nước thuộc địa, giai cấp vô sản hoặc còn rất yếu, hoặc chưa ra đời cho nên Đảng cộng sản có thể bao gồm những phần tử nông dân bị áp bức. Hơn nữa, theo Rôi thì lực lượng trung tâm và then chốt của quá trình cách mạng thế giới là phương Đông. Biên bản hội nghị Tiểu ban còn lưu lại: “Đồng chí Rôi bảo vệ tư tưởng cho rằng vận mệnh của phong trào cách mạng châu Âu hoàn toàn phụ thuộc vào quá trình cách mạng phương Đông. Không có thắng lợi của cách mạng ở các nước phương Đông thì phong trào cộng sản ở phương Tây có thể chỉ là con số không… Bọn tư bản châu Âu trong trường hợp cần thiết có thể cho công nhân tất cả giá trị thặng dư và bằng cách đó kéo họ về phía mình, giết chết ý chí cách mạng ở họ. Nhờ giai cấp vô sản ủng hộ, chính bản thân bọn tư sản sẽ tiếp tục bóc lột châu Á… Vì vậy, cần phải phát triển và đẩy mạnh phong trào cách mạng ở phương Đông và phải chấp nhận một luận cương cơ bản nói rằng vận mệnh của chủ nghĩa cộng sản thế giới phụ thuộc vào thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản ở phương Đông”.
Trên đây là hai quan điểm về dân tộc và thuộc địa đã từng tồn tại một thời gian dài trong Quốc Tế Cộng Sản và cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai quan điểm ấy đã kéo dài suốt từ Đại hội II đến Đại hội VII của Quốc Tế Cộng Sản.
Nhưng dù thế nào thì vào thời đoạn đầu của thế kỷ XX, trước chủ nghĩa thực dân Pháp tham lam và ngoan cố, muốn giải phóng dân tộc cứu nước, đúng như Nguyễn Ái Quốc khẳng định "...không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản".

Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản 1935. Từ trái sang phải, hàng ngồi : André Marty, G.Dimitrov, Palmiro Togliatti, V. Florin, Vương Minh; hàng đứng : M. Moskvin, Otto Kuusinen, Klement Gottwald, Wilhelm Pieck, Dmitry Manuilsky.Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản 1935. Từ trái sang phải, hàng ngồi : André Marty, G.Dimitrov, Palmiro Togliatti, V. Florin, Vương Minh; hàng đứng : M. Moskvin, Otto Kuusinen, Klement Gottwald, Wilhelm Pieck, Dmitry Manuilsky.
Ngày nay, khi đứng ở vị trí cách xa thời cuộc ấy ngót 100 năm, đã đủ khoảng cách và độ công tâm để nhìn lại, chúng ta phân vân tự hỏi: “Vậy thì Lênin đúng hay Rôi đúng?” Có lẽ cả hai đều có đúng có sai và muốn tìm nguyên nhân gốc rễ của sự đúng sai ấy phải tìm trong những quan niệm xã hội của chủ nghĩa Mác. Xin nhắc lại, mục đích chính yếu của mọi cuộc cách mạng trong lịch sử xã hội loài người, kể cả cách mạng vô sản, là thiết lập một xã hội ưu việt hơn, người dân dễ mưu sinh hơn như trong xã hội cũ, chứ không phải mục đích chính yếu là giành chính quyền cho riêng tầng lớp nào.  Dù vậy, nếu hiểu sự vật - hiện tượng xã hội theo quan niệm của chủ nghĩa Mác thì Lênin gần chân lý hơn. Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn rằng: các nước thuộc địa giành được độc lập dân tộc rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội thật hiếm hoi và không riêng gì thuộc địa mà hầu hết các nước, bằng con đường khác tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong thời kỳ xây dựng xã hội ấy, chỉ phát triển gọi là nhanh vào thời kỳ đầu, khi vẫn còn sự kích thích tinh thần trong xã hội, rồi chậm dần đi, rồi thì hoặc sụp đổ để biến thái hoặc phải rẽ sang con đường khác, không từ bỏ nhãn mác chủ nghĩa xã hội nhưng cũng biến thái nốt. Đặc biệt là chất lượng cuộc sống của Đại Chúng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, cũng chẳng lấy gì làm hay ho hơn, thậm chí là còn “đạm bạc” hơn nếu đem so với chất lượng cuộc sống Đại Chúng ở các nước tư bản hoặc ở một số nước dân chủ tư sản cùng thời. Vì sao vậy? Có thể có nhiều nguyên nhân, có thể có nguyên nhân từ những hoạt động thù địch từ hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, nhưng không thể đổ vấy tất cả cho yếu tố khách quan được và phải có một nguyên nhân có tính cốt lõi, có tính cội rễ của mọi nguyên nhân gây ra hiện tượng có tính phổ biến đó. Vậy nguyên nhân cội rễ đó là gì? Phải chăng là do nhận thức còn cực đoan, lý tưởng hóa, siêu hình ...về một số quan niệm trong triết học duy vật về cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội? Một xã hội"đạm bạc" mà bền vững, mức sống tối thiểu của nhân dân luôn được đảm bảo chưa chắc là không tươi đẹp!...
Nhưng thôi, chúng ta quay về để tiếp tục kể câu chuyện về Tổ quốc muôn vàn kính yêu của mình, về thủ đô Hà Nội linh thiêng của mình.
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét