Thứ Tư, 24 tháng 2, 2021

TT&HĐ III - 30/e


 
Nguyên Nhân Thực Sự Của Thế Chiến 2


PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


.

CHƯƠNG IX (XXX): THỜI CUỘC

“Nếu như sau cái đêm tối tăm của thời trung cổ, các ngành khoa học đột nhiên sống lại với một sức mạnh không ngờ và bắt đầu phát triển nhanh chóng một cách kỳ diệu, thì sự kỳ diệu ấy cũng chính là nhờ sản xuất mà có”
Ph. Ăngghen

"Tình yêu giống như chiến tranh, dễ bắt đầu nhưng rất khó để dừng lại."


"Tôi không biết chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ sử dụng vũ khí nào nhưng tôi biết rằng chiến tranh thế giới thứ 4 sẽ sử dụng gậy gộc và đá!"  - Albert Einstein
"Chúng ta từng tự hỏi chiến tranh sống ở đâu, và điều gì khiến nó gớm guốc như vậy. Và giờ chúng ta nhận ra mình biết nó sống ở đâu... ở trong chúng ta."  -


"Người ta vẫn gọi chiến tranh là tội giết người. Không phải: nó là tự sát."
  - Ramsay MacDonald


"Chưa từng có lúc nào thế giới không chiến tranh. Dù trong bảy nghìn, mười nghìn hay hai mươi nghìn năm. Những nhà lãnh đạo khôn ngoan nhất, hay những vị vua cao quý nhất, hay cả Nhà thờ - không ai trong số họ có thể ngăn chặn nó. Và đừng chịu thua thứ lòng tin dễ dãi rằng những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội nóng vội có thể ngăn được chiến tranh. Hay có thể chia tách được chiến tranh vì lẽ phải hay đúng đắn ra khỏi phần còn lại. Luôn có hàng nghìn hàng nghìn người mà đối với họ thậm chí cả chiến tranh theo kiểu đó cũng là vô nghĩa và phi lý." - Aleksandr Solzhenitsyn


"Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó." - Benjamin Franklin

"Chiến tranh là sự ngu dại tột bậc của cuộc sống"
Thầy Cãi
 
 
 
 
 (Tiếp theo)

***
Sau đây là câu chuyện về một thời ly loạn nhất của “Lịch sử thế giới” mà chúng ta đã nghe từ lâu qua lời kể của Nguyễn Anh Thái (chủ biên) và bây giờ đem kể lại. Vì trí nhớ và khả năng diễn đạt có hạn nên câu chuyện kể lại này so với “gốc” của nó đã không còn đúng và đủ về chi tiết nữa mà may ra chỉ có thể đúng về cốt lõi sự kiện. Biết làm sao được khi những câu chuyện truyền khẩu đều phải chịu sự “bóp méo” như thế. Tuy nhiên, nói như Vương Hồng Sển thì: “Coi vậy mà xài được!”. Chúng ta bắt đầu:
Ngày xửa ngày xưa vào thời… hiện đại (hay đã là cận đại?)…
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước thắng trận mở “Hội nghị hòa bình” ở Vécxai (ngoại vi Pari - thủ đô nước Pháp) để phân chia lại thế giới.
Hội nghị khai mạc ngày 18-1-1919 và kéo dài suốt năm sau, trong bối cảnh thế giới đã có nhiều biến đổi lớn lao:
Do hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất và sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga mà một cao trào đấu tranh cách mạng đã bùng nổ và phát triển mạnh mẽ trong những năm 1918 - 1923 ở hầu hết các nước tư bản lẫn các nước thuộc địa, phụ thuộc. Chiến tranh cũng đã tàn phá nghiêm trọng các nước tham chiến ở châu Âu và làm thay đổi căn bản tương quan lực lượng giữa các nước tư bản: ba nước đế quốc lớn là Đức, Áo - Hung, Thổ Nhĩ Kỳ bị bại trận thì suy sụp, phân rã; các nước Anh, Pháp, Ý, Nhật tuy thắng trận nhưng cũng bị suy yếu nghiêm trọng; riêng Mỹ vì tham gia chiến tranh muộn lại thu về 24 tỷ đôla nhờ buôn bán vũ khí nên đã vươn lên hàng đầu về kinh tế, trở thành chủ nợ của các nước châu Âu.

Hội nghị Versailles
Hội nghị Versailles đưa nước Đức lên máy chém
Ngày 8-1-1918, tổng thống Mỹ là Uynxơn đưa ra “Chương trình 14 điểm” dưới hình thức một thông điệp gửi Quốc hội Mỹ nhằm lập lại hòa bình. Nội dung 14 điểm của Uynxơn gồm:
  1. Hòa ước ký công khai (không thương lượng riêng hoặc kín).
  2. Hoàn toàn tự do đi lại trên mặt biển.
  3. Hủy bỏ những hàng rào kinh tế.
  4. Giảm vũ khí các nước đến mức tối thiểu.
  5. Giải quyết công tâm những vấn đề thuộc địa, chiếu cố các dân tộc bản xứ và các chính phủ.
  6. Rút quân khỏi Nga, để Nga tự chọn lấy chính phủ.
  7. Rút quân khỏi Bỉ, không hạn chế chủ quyền.
  8. Rút quân khỏi Pháp và hoàn lại Andát - Loren cho Pháp
  9. Điều chỉnh biên giới Ý theo nguyên tắc dân tộc.
  10. Đảm bảo quyền phát triển tự lập của các dân tộc Thổ, tự do quốc tế vùng eo biển.
  11. Rút quân khỏi Rumani, Môngtênêgiơrô. Mở đường ra biển cho Xécbi.
  12. Bảo đảm quyền phát triển tự lập của các dân tộc Thổ, tự do quốc tế vùng eo biển.
  13. Phục hưng Ba Lan độc lập, có đường ra biển.
  14. Thành lập một “Tổng hội các dân tộc”.
Bóng bẩy như thế nên ngày 11-11-1918, các bên tham chiếu chấp nhận ngưng xung đột vũ trang theo chủ trương của Mỹ và “chương trình 14 điểm” được coi là nguyên tắc để thảo luận tại hội nghị Vécxai.
Tham dự Hội nghị gồm đại biểu của 27 nước thắng trận. Điều khiển Hội nghị là 5 cường quốc Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Nhật nhưng thực sự nắm quyền quyết định Hội nghị là Mỹ, Anh, Pháp. Các cường quốc thắng trận đều muốn bảo vệ quyền lợi ích kỷ của mình nên cũng có những ý đồ, tham vọng hết sức khác nhau trong việc phân chia, thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh. Do đó Hội nghị Vécxai đã diễn ra hết sức gay go, quyết liệt. Ý đồ của Pháp (nước có lực lượng bộ binh mạnh nhất Châu Âu) là muốn làm bá chủ Châu Âu lục địa, đòi chuyển biên giới với nước Đức đến tận sông Ranh, muốn làm suy yếu hẳn nước Đức bằng cách bắt nước Đức bồi thường thật nhiều, hạn chế lực lượng quân sự Đức xuống mức tối thiểu, tán thành mở rộng lãnh thổ một số nước Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Xécbi, Rumani để kiềm chế Đức và hình thành “vành đai vệ tinh” chống chủ nghĩa Bônxêvich. Ngoài ra, Pháp còn nhòm ngó đến thuộc địa của Đức ở Châu Phi và một phần đất của Tiểu Á của đế quốc Ôtôman trước kia. Tuy nhiên trước Anh và Mỹ, con nợ Pháp phải nhận những biện pháp thỏa hiệp dù không muốn. Lập trường của Anh thì muốn làm yếu Đức về mặt hải quân, thủ tiêu hệ thống thuộc địa của Đức, đồng thời cũng muốn duy trì một nước Đức tương đối mạnh ở trung tâm châu Âu để chống lại phong trào cách mạng đang sôi sục ở khu vực đó, chống lại âm mưu bá chủ lục địa Châu Âu của Pháp. Mỹ ủng hộ chính sách “cân bằng lực lượng này”. Bên cạnh đó, Anh còn muốn củng cố địa vị ở Trung Cận Đông, chiếm miền Trung Á của Liên Xô, xây dựng quyền thống trị của mình trên các eo biển thuộc Biển Đen ở Iran và Ápganixtan. Nhật không những muốn củng cố địa vị ở Trung Quốc mà còn định chiếm cả vùng viễn đông của Liên Xô, mở rộng ảnh hưởng ra cả vùng Châu Á - Thái Bình Dương. Ý thì muốn mở rộng lãnh thổ của mình xuống vùng Địa Trung Hải và vùng BanCăng. Các nước nhỏ như Ba Lan, Rumani… cũng yêu cầu được mở rộng đất đai. Tóm lại, các nước thắng trận họp Hội nghị đều cố đấu đá, tranh giành hết khả năng để thu được càng nhiều càng tốt những lợi lộc, béo bở về cho mình. Lênin đã bình luận châm biếm về Hội nghị Vécxai như sau “… Chúng đã cãi cọ nhau từ 5 tháng nay, chúng không còn kìm chế được mình và bầy thú dữ đó cắn cấu nhau loạn xạ đến nỗi chỉ còn lại cái đuôi”
Sau 3 lần có nguy cơ tan vỡ vì tranh cãi, bất đồng, cuối cùng thì các cường quốc thắng trận cũng thỏa hiệp được với nhau và đi đến ký kết cái gọi là “Hệ thống hòa ước Vécxai”.
Nội dung chủ yếu của Hệ thống này là: thành lập “Hội Quốc Liên” và ký hòa ước với các nước bại trận.
Quy ước thành lập Hội Quốc Liên (ký ngày 25-1-1919) nêu rằng mục đích thành lập tổ chức này là nhằm phát triển sự hợp tác, đảm bảo hòa bình và an ninh cho các dân tộc, theo nguyên tắc: không dùng vũ lực trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lý, phải thi hành những cam kết quốc tế… Tuy nhiên, về thực chất là nhằm giữ gìn trật tự của thế giới do các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã xếp đặt lại tại Hội nghị Vécxai. Nó là kết quả của sự tạm thời dung hòa các mâu thuẫn trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa và không thể là một công cụ bảo vệ hòa bình hữu hiệu vì chiến tranh có nguồn gốc từ chính sự tồn tại và cạnh tranh kinh tế của chủ nghĩa đế quốc.
Hòa ước Vécxai với Đức (ký ngày 28-6-1919) bao gồm ba loại điều khoản chủ yếu về lãnh thổ, về đảm bảo an ninh và về bồi thường chiến tranh. Với hòa ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/2 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt; chỉ được giữ lại 10 vạn bộ binh với vũ khí thông thường, không có không quân và hải quân (chỉ có một hạm đội nhỏ); phải bồi thường  khoản chiến phí to lớn (sẽ do một Ủy ban xác định sau, lên tới 130 tỷ mác)… Tiếp đó, những hòa ước Vécxai ký với các nước khác là Hòa ước Xanh Giécmanh (ký với Áo ngày 10-9-1919), Hòa ước Nơiy (ký với Bungari ngày 27-11-1919), Hòa ước Trianông (ký với Hungari ngày 4-4-1920) và Hòa ước Xevrơ (ký với Thổ Nhĩ Kỳ ngày 11-8-1920) đều theo lối áp đặt kiểu “đè đầu cưỡi cổ” tương tự như vậy. Lênin nói “Đấy là một thứ hòa ước kỳ quái, một thứ hòa ước ăn cướp. Nó đẩy hàng chục triệu con người, trong đó có những người văn minh nhất, rơi vào tình cảnh bị nô dịch. Đấy không phải là một hòa ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao buộc một nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận…”
Tóm lại Hệ thống hòa ước Vécxai không những không làm giảm mà còn làm tăng thêm sự chia rẽ, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa; gây ra mầm mống chiến tranh mới, đe dọa hòa bình thế giới. Đến nguyên soái Phốc, nguyên tổng tư lệnh quân đội Đồng Minh ở Châu Âu cũng nói: “Đây không phải là hòa bình. Đây là một cuộc hưu chiến trong 20 năm”. Uyliam Bulít, cộng tác viên đắc lực của Uynxơn, khẳng định: “Hội nghị hòa bình chỉ làm được một việc là chuẩn bị những xung đột quốc tế trong tương lai”.
Sau khi Hệ thống hòa ước Vécxai đã ký kết, các nước phe thua ấm ức đã đành, các nước phe thắng cũng chẳng thỏa mãn. Mỹ nhân thời cơ thuận lợi, ra sức củng cố quyền lực của mình trên thế giới. Do đó, mâu thuẫn Anh - Mỹ trở nên gay gắt. Tuy nhiên hai nước này vẫn có lúc phải bắt tay nhau nhằm chống lại Pháp (định nắm quyền bá chủ lục địa Châu Âu), và chống Nhật (muốn giành ưu thế ở Thái Bình Dương). Hơn nữa Thượng nghị viện Mỹ đã không thông qua Hòa ước Vécxai. Năm 1920, Đảng Cộng Hòa ở Mỹ lên nắm quyền, người của Đảng Cộng hòa là Hácđinh thắng cử tổng thống, bắt đầu thực hiện đường lối mới, nhất là về mặt đối ngoại.
Ngày 25-8-1921, Mỹ ký hòa ước với Đức theo quan điểm của mình. Tháng 11-1921, Mỹ mời 8 nước là Anh, Pháp, Ý, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc họp hội nghị tại Oasinhtơn. Nội dung hội nghị là thảo luận và quyết định tỷ lệ hải quân giữa các cường quốc, các vấn đề ở Thái Bình Dương và Viễn Đông. Chính quyền Mỹ tuyên truyền rầm rộ là hội nghị này nhằm “hạn chế vũ trang”; phù hợp với mong muốn hòa bình của nhân dân thế giới và Hácđinh được đề cao như là vị “cứu tinh của văn minh thế giới”.
Những nghị quyết quan trọng nhất của Hội nghị Oasinhtơn thể hiện tập trung trong 3 hiệp ước quan trọng nhất: Hiệp ước 4 nước, Hiệp ước 9 nước và Hiệp ước 5 nước.
Ngày 3-12-1921, bốn nước Mỹ, Anh, Nhật, Pháp ký “Hiệp ước cùng đảm bảo không xâm phạm đến các đảo thuộc địa ở Thái Bình Dương”. Đây là việc xác nhận lại về mặt pháp lý việc phân chia thuộc địa đã được tiến hành ở Hội nghị Vécxai cho phù hợp với tình hình mới. Trong dịp này, Mỹ đã gây áp lực để Anh không gia hạn thêm Hiệp ước liên minh Anh - Nhật (ký từ năm 1902), nhằm cô lập Nhật thêm một bước.
Hiệp ước 9 nước, được ký ngày 6-2-1922, công nhận nguyên tắc “hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền Trung Quốc”, đồng thời cũng nêu nguyên tắc “mở rộng cửa Trung Quốc” cho các nước tự do vào buôn bán trên cơ sở bình đẳng (thực chất là biến Trung Quốc thành thị trường chung của các nước đế quốc, bất chấp lợi ích dân tộc của Trung Quốc, trong đó nhờ tiềm lực kinh tế vượt trội của mình, Mỹ có lợi nhất). Hiệp ước này và hiệp ước trên còn thể hiện rõ sự cấu kết giữa các nước đế quốc trong việc chống lại phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc và ở các nước thuộc địa châu Á khác.
Cùng ngày 6-2-1922, năm nước Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Ý cùng ký “Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân” nhằm quy định lại tỷ lệ lực lượng hải quân cho mỗi nước. Theo Hiệp ước, trọng tải tàu chiến của Mỹ và Anh bằng nhau, là 525.000 tấn; Nhật là 315.000 tấn; Pháp và Ý bằng nhau, là 175.000 tấn. Xét ra lực lượng hải quân của các cường quốc đế quốc không bị hạn chế mà còn được tăng lên, do đó rõ ràng Hiệp ước này chỉ là sự tranh phân quyền lực giữa các cường quốc đế quốc chứ không vì mục đích hòa bình nào. Nhật không thỏa mãn vì xếp sau Mỹ và Anh; Pháp không thỏa mãn vì xếp sau Nhật; Anh cũng chẳng thỏa mãn vì mất quyền bá chủ trước đây trên mặt biển.
Nhìn chung kết quả của Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mỹ. Được như thế là do Mỹ đang có ưu thế nổi trội về kinh tế và quân sự nhờ “gặt hái” được qua cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (trong đó có một phần nhờ “lái súng”, cho vay).
Một trật tự thế giới mới, vượt ra khuôn khổ Hội nghị Vécxai và được điều chỉnh, bổ sung từ Hội nghị Oasinhtơn, hình thành và tuân thủ nguyên tắc, luật lệ mới gọi là “Hệ thống Vécxai - Oasinhtơn”.
Nói chung, bắt đầu từ năm 1924, các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã chế ngự được phong trào đấu tranh cách mạng dâng cao trong những năm 1918 đến năm 1923, khôi phục được nền kinh tế và bước vào thời kỳ phát triển phồn thịnh trong giai đoạn những năm 1924 - 1929. Trong thời kỳ này, nhờ tích tụ tư bản mà xuất hiện những công ty tư bản độc quyền khổng lồ mới mà về qui mô vượt hơn tất cả những gì đã có trước năm 1914; nhờ sự tiến bộ, những phát minh khoa học kỹ thuật, nhờ hợp lý hóa sản xuất, tổ chức lao động hiệu quả (nổi tiếng là phương pháp Taylo (Taylor)), nên công nghiệp tư bản chủ nghĩa tăng trưởng mạnh mẽ.
Sự ổn định và phát triển kinh tế của các nước tư bản châu Âu phần quan trọng là nhờ vào vốn đầu tư và tín dụng của Mỹ, phụ thuộc về tài chính vào Mỹ. Đây là thời kỳ chuyển trung tâm kinh tế - tài chính của hệ thống tư bản chủ nghĩa từ châu Âu sang Mỹ.
Kinh tế phồn vinh làm giảm bớt nạn thất nghiệp, nâng cao đời sống nhất định cho tầng lớp lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa đã kéo theo sự ổn định xã hội, củng cố quyền lực tư sản, các đảng phái, tổ chức chính trị của giai cấp tư sản ở đó cũng lấy lại được địa vị đã bị mất trước kia. Phong trào cách mạng vô sản đi vào thoái trào.
Hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, với những nền kinh tế hàng hóa - thị trường cạnh tranh tự do, xô bồ vô tổ chức, trong khi khả năng tiêu thụ (hoặc cung ứng) của thị trường có hạn, tất yếu làm xuất hiện mặt trái của sự phát triển. Mặt trái đó ngày một bị dồn nén và nếu không có biện pháp giải tỏa nó (thường không giải quyết kịp thời được bởi lòng tham là mù quáng!) thì ở trạng thái tột độ, nó sẽ bục vỡ, phát nổ, tạo thành khủng hoảng (thừa hoặc thiếu).
Tháng 10-1929, cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở Mỹ, sau đó lan ra tất cả các nước tư bản chủ nghĩa và kéo dài đến năm 1933, chấm dứt thời kỳ ổn định 1924 - 1929. Khủng hoảng diễn ra trên tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính và đưa đến giảm sút mạnh mẽ mậu dịch thế giới. Nguyên nhân chủ yếu đưa đến cuộc khủng hoảng này là do sản xuất của chủ nghĩa tư bản tăng lên, tương ứng làm hàng hóa ngày càng giảm giá và trở nên ế thừa, dẫn tới suy thoái trong sản xuất.
Cuộc khủng hoảng năm 1929 - 1933 đã tàn phá nặng nề nền kinh tế, từ đó mà làm bất ổn xã hội, gây hậu quả tai hại về chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc khủng hoảng này, số công nhân thất nghiệp đã lên tới 50 triệu. Hàng triệu người mất nhà cửa vì không trả được tiền cầm cố. Hàng triệu nông dân bị mất ruộng đất, lâm vào nghèo đói. Ở nhiều nước đã không có bảo hiểm xã hội và thất nghiệp không được phụ cấp hoặc phụ cấp ít ỏi không thể đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống. Tình hình đó đã làm cho phong trào đấu tranh cách mạng trỗi dậy: từ thoái trào tiến dần lên cao trào. Hàng ngàn cuộc biểu tình, tuần hành của những người thất nghiệp, trong nhiều trường hợp đã xung đột với cảnh sát và quân đội. Nhiều cuộc bãi công chống việc hạ thấp tiền lương đã nổ ra ở hầu khắp các nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong thời gian từ năm 1928 đến cuối năm 1933, số người tham gia bãi công ở các nước tư bản chủ nghĩa đã lên tới 17 triệu, còn số ngày bãi công là khoảng hơn 2.500 ngày (?).

Ngày thứ năm  đen tối -24-10-1929; 1,2 tỷ cổ phiếu Mỹ  được bán làm  thị trường chứng khoán Mỹ  rung động.
Kinh tế học là một ngành khoa học không phải… đùa, bởi vì nó rất khó! Do có quá nhiều mối quan hệ kinh tế - xã hội phụ thuộc nhau, đan xen nhau, tác động lẫn nhau “xảy ra hàng ngày, hàng giờ”, khắp nơi trong “thế giới nhân loại” mà đến tận ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu được cho là uyên bác, khi nói thì rất bùi tai, rất… hùng biện, nhưng khi cho ra tham mưu quản lý một nền kinh tế “tầm tầm bậc trung” nào đấy thì… không ít vị bị nó “quật” cho te tua, và xin lỗi “ngài cố vấn”, coi chừng… chết chứ chả chơi đâu! Tuy nhiên, đối với chúng ta, những kẻ hoang tưởng bạt mạng nhất, đến bí ẩn của Tự Nhiên Tồn Tại cũng phải… chào thua, thì kinh tế học kể ra cũng… dễ. Dễ theo cách nhìn nhận chất phác, thô mộc của chúng ta!
Nguyên lý Tự Nhiên đã làm trình hiện ra trước quan sát - nhận thức sự vận động và chuyển hóa (tùy theo định nghĩa, qui ước mà có thể vận động cũng là chuyển hóa hoặc là bộ phận của chuyển hóa, mà cũng có thể quan niệm ngược lại, tùy thích!). Ở mức độ khả năng và phạm vi có hạn độ quan sát của loài người thì sự trình hiện ấy chính là sự ảnh hưởng, tương tác, trao đổi, làm biến đổi lẫn nhau giữa các sự vật - hiện tượng và giữa các sự vật - hiện tượng với môi trường (thực ra môi trường cũng là một sự vật - hiện tượng, có tính bao hàm, dung dưỡng, nền tảng…) “chứa” chúng. Quá trình đó là không ngừng làm suy tàn, mất đi những sự vật - hiện tượng “cũ”, “lỗi thời”, đồng thời làm xuất hiện, phát triển những sự vật - hiện tượng “mới”, “hợp thời” hơn. Trong một chừng mực nhất định và cũng do bản chất cảm nhận của quan sát ở loài người (nói riêng) mà chúng ta thấy tồn tại (đúng hơn là hiện hữu) có tính duy trì trong thời gian. Nhưng qua nhận thức hay quan sát gián tiếp nhờ các thiết bị hỗ trợ quan sát tinh vi hơn (chúng ta cho rằng nhận thức cũng chính là một dạng đặc thù của quan sát, có tính siêu phàm), chúng ta lại thấy tồn tại (hay hiện hữu) là luôn thay đổi. Vì thế mà người ta nói ổn định là nhất thời (gián đoạn, tương đối), biến đổi là vĩnh viễn (liên tục, tuyệt đối). Thế nhưng đừng tùy tiện “áp” câu nói đó cho mọi trường hợp về bản thân nó cũng lại chỉ là tương đối thôi. Chẳng hạn, đối với Tự Nhiên Tồn Tại thì ổn định có thể là vĩnh viễn, tuyệt đối mà cũng có thể… đừng nói như thế!
Trong một giai đoạn thích hợp, môi trường thiên nhiên Trái Đất sẽ làm hình thành nên một lực lượng đặc thù, có tính bộ phận của nó, nhận nó làm nền tảng, đó là sinh vật. Một sinh vật (hay một lực lượng sinh vật) tồn tại được là nhờ có vận động nội tại. Vận động nội tại chính là một biểu hiện sự tương tác, chuyển hóa làm biến đổi lẫn nhau giữa sinh vật đó với môi trường, hay chúng ta thường gọi quá trình đó là sự trao đổi chất. Có thể nói trao đổi chất là nguyên tắc của tồn tại và duy trì tồn tại ở sinh vật. Sinh vật nhận được ở môi trường những chất (ở đây nên hiểu “chất” với ý nghĩa rộng hơn, bao gồm cả chẳng hạn như ánh nắng mặt trời, nhiệt…) cần thiết cho sự sống và đào thải những chất “cặn bã” (cặn bã đối với nó thôi!). Theo một chu trình “vĩ đại” hơn, các cặn bã sẽ được môi trường biến đổi để tạo nên, tái tạo lại những chất cần thiết cho sự sống sinh vật tiếp theo. Nhiều loại rác thải nhân tạo “kiểu công nghiệp” đã là “trái đắng khó gặm” của môi trường và con người hãy coi chừng!).
Sự trao đổi chất ấy, đứng về phía tồn tại sinh vật mà xét, là sự cung - cầu và mối quan hệ giữa môi trường và sinh vật về sự cung - cầu được gọi là mối quan hệ cung - cầu. Chính mối quan hệ cung - cầu này, cùng với những biến động của nó, cũng như sự chuyển hóa lực lượng giữa cung và cầu đã là giềng mối làm phát sinh ra tất cả những hiện tượng: đấu tranh sinh tồn, tiến hóa thích nghi, đa dạng giống loài, hình thành loài người… trong thế giới sinh vật.
Như vậy, khi xuất hiện một sinh vật thì ngay lập tức cũng xuất hiện một nhu cầu và vì có nhu cầu ấy mà “cung” được xác định. “Cung” là thứ có sẵn, thứ làm nên “cầu” nhưng trước nhận thức thì được đặt tên sau “cầu”. Chúng ta nói: Cung - cầu là một quá trình biện chứng thống nhất, có cầu ắt có cung và cung làm phát sinh, mở rộng cầu về chất và lượng, từ đó đến lượt cầu sẽ làm tăng khả năng cung.
Loài người, là một lực lượng sinh vật, do đó không thể thoát được sự tác động mạnh mẽ của mối quan hệ cung - cầu cùng với sự biến đổi tương quan về mặt lực lượng giữa cung và cầu. Nếu chúng ta phân định tương đối khái niệm “tự nhiên” ra thành “tự nhiên” và “xã hội” thì có thể nói rằng mối quan hệ cung - cầu vốn dĩ là tự nhiên, nhưng khi xuất hiện trong xã hội loài người, bị tính chủ động thích nghi cao độ của loài người tác động rất đáng kể đến tương quan lực lượng cung - cầu, làm cho nó cũng biến đổi một cách nhân tạo ngày một rõ rệt hơn, mạnh mẽ hơn, đã trở thành mối quan hệ mang nặng tính xã hội nữa, và trong nền sản xuất hàng hóa, nó đã trở thành một qui luật kinh tế cơ bản, có tính tác động chủ yếu, quyết định đến mọi mặt đời sống xã hội.
Thuở sơ khai, khi cung không đủ cầu, con người đã chế tạo công cụ để tăng khả năng cung. Cung tăng lên làm cho cầu tăng theo. Sự phát hiện ra cây lương thực và phương thức mưu sinh bằng trồng trọt - chân nuôi đã là một cuộc cách mạng vĩ đại làm cho cung trở nên dồi dào và ổn định, làm phương thức sống của con người chuyển sang định cư và sản xuất nông nghiệp. Phương thức sống đó đã làm cho loài người phát triển nhanh về số lượng và nâng cao về mức sống, nghĩa là làm cho cầu tăng nhanh bởi hai hướng số lượng nhân khẩu và đa dạng hóa. Chính hướng tăng đa dạng hóa nhu cầu đã làm xuất hiện những khả năng cung “sản xuất phi lương thực” - tiền đề cho sản xuất trao đổi hàng hóa cũng như tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp sau này…

Bơ Lum Lê Ông - Người đứng đầu chính phủ mặt trận nhân dân pháp 1936
Mặt trận Bình dân Pháp thắng cử
Dù có thế nào chăng nữa, dù nhu cầu tiêu dùng có đa dạng đến mấy chăng nữa thì nhu cầu về “miếng ăn” vẫn cứ luôn là mục tiêu đầu tiên và tối hậu, là động lực tối thượng, cốt lõi của mọi quá trình hoạt động cung ứng, có thể thấy được trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự xuất hiện hàng hóa trao đổi, mua bán chính là vì nhu cầu miếng ăn. Trong một xã hội chủ yếu là sản xuất nông nghiệp thì khi việc cung ứng miếng ăn đạt mức dư thừa sau khi đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu ăn (no và ăn ngon), sẽ làm xuất hiện những nhu cầu “cái mặc” (và mặc ấm và đẹp, chỉ chung những nhu cầu không phải là ăn). Theo đó mà kích thích loại hình cung “cái mặc” ra đời, phát triển để thỏa mãn những nhu cầu đó và thông qua đó mà thỏa mãn luôn nhu cầu về ăn mới phát sinh. Đó là quá trình vận động xã hội làm cân bằng cung - cầu mà chủ yếu là do tăng cầu. Cầu miếng ăn ngày một tăng rồi sẽ vượt cung miếng ăn, hay là do thiên tai, mất mùa… sẽ gây ra hiện tượng cung miếng ăn không đủ cầu miếng ăn nữa. Điều đó sẽ làm “đình đốn” sản xuất hàng hóa phi thức ăn, góp phần làm tăng nhanh lực lượng cầu thức ăn. Sự mất cân bằng cung - cầu theo hướng cung thiếu, cầu dư ngày một trầm trọng. Để giải quyết, tự nhiên là phải tăng cường sản xuất nông nghiệp tạo thêm “miếng ăn” để đáp ứng “miệng ăn”. Thế nhưng, trình độ sản xuất chưa kịp phát triển, đất đai thiên nhiên có hạn và thậm chí là điều kiện thời tiết khí hậu đang ở giai đoạn chưa qua thiên tai đã hạn chế khả năng giải quyết theo hướng này, thậm chí là đến mức bế tắc. Vậy thì phải theo hướng nào? Một cách hoàn toàn tự nhiên, theo như chúng ta nhìn nhận, phải giảm cầu bằng cách cần phải chết bớt (nghe ghê quá!) do đói, bệnh tật, hoặc một bộ phận cầu phải “đi chỗ khác chơi” (lan tỏa dân cư). Nếu không thế thì chỉ còn cách nổi dậy phá bỏ sự bóc lột, đè ép của tầng lớp thống trị, bóc lột (nếu có) để giải phóng điền địa (nếu là nguyên nhân của không đủ cung), và cuối cùng là phải đi xâm lược, cướp bóc khắp nơi để thỏa mãn nhu cầu miếng ăn (nếu muốn sống còn). Hình như thời cổ, trung đại, chiến tranh là một biện pháp thường xuyên tạo lập cân bằng của cán cân cung - cầu khi cầu tăng vượt quá cung đến mức tột độ? Phải chăng chiến tranh là giải pháp cuối cùng, duy nhất để giải quyết sự mất cân đối cung - cầu ấy? Trong suốt quá trình tồn tại của xã hội loài người? Không, chúng ta hi vọng là không phải, dù quá khứ đã là như vậy! Còn một cách giải quyết hữu hiệu nạn mất cân đối cung - cầu dạng cầu vượt quá cung là áp dụng khoa học - kỹ thuật (tất yếu xuất hiện ở giống loài có tư duy và biết chủ động thích nghi) một cách có ý thức vào việc tăng khả năng cung ứng miếng ăn, cái mặc một cách phù hợp, đồng thời với việc giảm và duy trì cầu ở mức tương xứng. Đây có thể là một giải pháp khả thi ở tương lai, khi não người đã thực sự tiến hóa hơn, đã thấu tỏ hơn về thân phận con người và làm cho lòng tham của con người bị giới hạn đến chừng mực vừa đủ thực sự, như là một sự kìm hãm hoàn toàn bản năng. Còn bây giờ, vẫn là một ước mơ!
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét