Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2021

TT&HĐ III - 28/k

 

                                                      Hào Khí Nguyễn Trung Trực

                            

                                                          NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

                                                

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


CHƯƠNG VII (XXVIII): BẤT KHUẤT

“… Tinh thần Hà Nội, tính cách Hà Nội - đó là tổng hợp tất cả những gì tốt đẹp nhất trong tâm hồn Việt Nam cao quí… Hà Nội khởi dậy từ trong lòng mình sức trẻ mới của một xã hội đang đi lên kết hợp với truyền thống nghìn xưa quyện trong không khí mà mỗi tấc đất đều thấm máu anh hùng của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội”
(Trích xã luận báo Nhân Dân, số ra ngày 26-12-1972)
 
"Khi ai hỏi đến tác phẩm lớn nhất của dân tộc mình, công trình kiến trúc vững nhất của giống nòi mình, người Việt có thể kiêu hãnh đáp rằng : «Đó là lãnh thổ mà bao nhiêu đời dân Việt đã góp công sức tạo thành và không ngừng nghỉ điểm tô». Đó là chứng chỉ cụ thể và hùng hồn nhất của cái tinh thần bất khuất, đó cũng là cái văn bằng xứng đáng hơn hết của óc sáng tạo thiên tài.
(...) 
Có lẽ chúng ta sẽ công bình hơn khi nói rằng trí thức Việt còn có nhiều người thông minh đến độ lỗi lạc tuyệt vời, và nhiều người sống rất đam mê lý tưởng, không ngừng hy sinh cho sự tồn tại, vươn cao của dân tộc họ. Chúng ta, dù ở quốc gia nào khác, cũng nghiêng mình trước họ, vì họ là niềm kiêu hãnh của một giống nòi."
(Trích "Người Việt cao quý" - Chương V - tác giả A. Pazzi)
 
"Đối diện với quân đội Mỹ là cả một dân tộc kiên quyết như quả núi đá, có một tâm hồn cao thượng đáng khâm phục, một tinh thần dũng cảm vô song, không hề biết sợ trước bất cứ kẻ thù nào".
(Báo Thế Giới (Le Monde) của Pháp)


 
 
 
(Tiếp theo)

***
Có thể cho rằng nếu chọn ngày Đề Thám bị sát hại làm mốc thì sau khoảng 55 năm đối với cả nước kể từ trận Thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên đánh Đà Nẵng và sau khoảng 40 năm đối với Bắc Kỳ kể từ phát súng đại bác đầu tiên công thành Hà Nội lần thứ nhất của chúng, tiếng súng đấu tranh vũ trang trực diện với quân xâm lược Pháp của nhân dân Việt Nam tạm thời ngừng nổ, kết thúc một thời kỳ có thể gọi là bi phẫn nhất trong lịch sử Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam đã từng trải nhiều thăng trầm, cũng không ít lần đất nước bị ngoại bang chà đạp gây cảnh đau thương, nhưng chưa bao giờ lại phải chịu cái tình trạng khốn khổ, đầy uất ức như thời đoạn đó. Triều đình bạc nhược đến mất hết tinh thần, cắt dần đất nước dâng cho Pháp để mua lòng khoan dung của kẻ xâm lược, không đếm xỉa gì đến con dân của mình… Nhân dân mong mỏi triều đình đứng ra lãnh đạo chiến đấu thì triều đình bãi binh, đòi rút quan tướng về triều. Nhân dân phải tự phát nổi dậy chiến đấu thì không những triều đình bỏ mặc họ mà còn đòi giải tán họ và sau này còn quay sang tiếp tay cho Thực dân Pháp đàn áp họ. Sự hợp tác của triều đình với quân xâm lược đã khuyến khích nhiều quan lại, quần thần cầu vinh, theo Pháp, nhiều kẻ quay lại đánh phá phong trào kháng chiến, trở thành khét tiếng. Đó cũng là một nguyên nhân làm cho phong trào kháng chiến của nhân dân mất tập trung, thiếu tính mục đích cụ thể nên cũng mờ mịt về phương hướng và rốt cuộc dẫn đến tản mạn, manh mún. Lời kêu gọi Cần Vương muộn màng, và sự tồn tại ngắn ngủi của ông vua kháng chiến Hàm Nghi đã không đủ sức chuộc lại cái tội bỏ dân, bán nước trước đó của triều đình nhà Nguyễn, chưa đủ thời gian tạo điều kiện cho lòng dân qui tụ về. Giữa lòng dân Bắc Kỳ sôi sục kháng chiến mà quân triều đình cứ chiến đấu như kẻ mất hồn, bỏ qua hết thời cơ này đến thời cơ khác có cơ may chiến thắng rõ ràng. Được nhân dân ủng hộ, được chiến đấu giữa lòng dân như thế là một thuận lợi to lớn, thế mà quân triều đình đã hành động cứ như kẻ đơn thương độc mã, hầu hết là thụ động chống đỡ, cầu hòa. Như vậy có phải là bi phẫn không?
Nếu không thì phải chăng là điều này: Quân dân muốn đánh giặc thì triều đình không cho đánh, khi đã đánh và chuẩn bị giáng thêm đòn quyết định chiếm thế thượng phong thì triều đình hốt hoảng sợ mất lòng Pháp, chuẩn bị giành được thắng lợi thì triều đình đã nhanh tay ký thỏa ước, nhượng bộ, đầu hàng?
Hay bi phẫn chính là hiện tượng này: hàng loạt quan lại triều đình mang nặng tư tưởng Nho giáo đầy nhiệt huyết và năng lực đã bị giằng xé tâm hồn ghê gớm và đau đớn trước sự lựa chọn khó khăn giữa trung quân và ái quốc? Trong số họ, có bao nhiêu con người phải chết trong uất hận vì đã không tìm được lối thoát? Cùng dân đánh giặc cứu nước thì mắc tội khi quân, còn muốn giữ tiếng trung quân thì phải bỏ dân, quên nước, không thể lựa chọn cả hai thì chọn cái nào đây?
Bao nhiêu sĩ phu yêu nước, cùng dân đánh giặc mà bị triều đình gọi là “giặc” thì có bi phẫn không?
Trường hợp sau đây kể về một ông quan đã hành động đúng, có cuộc đời tương đối “suôn sẻ”, nhưng cũng cho chúng ta thấy cuộc đấu tranh tư tưởng hết sức gay gắt thời bấy giờ giữa ơn vua - nợ nước.
Dựa theo “Thế giới mới” số 808 thì Đỗ Quang sinh năm 1807 trong một gia đình nhà Nho nghèo. Quê ông ở Gia Lộc, Hải Dương. Ông là người học giỏi, năm 18 tuổi đỗ tú tài, năm 21 tuổi đỗ cử nhân, năm 25 tuổi đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1832) đời Minh Mạng.
Với tài học rộng, kiến thức cao sâu, lại khẳng khái, trung thực nên Đỗ Quang được giữ nhiều trọng trách khác nhau trong triều chính và là đại thần ở cả 3 đời vua: Minh Mạng, Thiên Trị, Tự Đức.
Sự thanh liêm hết mực của quan Đỗ Quang được dân thì tin yêu, vua thì mến phục. Lần đầu, khi làm Tuần phủ Định Tường (địa bàn các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp ngày nay), ông bị cách chức. Vua Tự Đức tra xét kỹ rồi chỉ dụ rằng: “Được biết Đỗ Quang ở Định Tường khi bị cách chức, dân trong hạt khóc lóc như mưa. Nếu không phải ngày thường được dân yêu thì làm sao được như thế!”. Lần thứ hai, khi giữ chức Bố chính Nghệ An, ông mắc phải vạ. Tổng đốc Nghệ An lúc đó tâu về triều rằng ông là người “ngay thẳng, liêm khiết trước tiền tài, cảnh nhà thanh bần”, nên ông được miễn phạt. Vua Tự Đức chỉ dụ: “Đỗ Quang làm quan thanh liêm được mọi người khen ngợi, do phạm vào án, phải bồi thường cũng chỉ vì không khéo biện lý. Hãy miễn cho tất cả để khuyến khích người liêm khiết”.
Năm Canh Thân (1860), Đỗ Quang được cử làm tuần phủ Gia Định. Cũng trong năm đó, Nguyễn Tri Phương được phong làm Thống tướng quân vụ đại thần. Vào Nam không lâu, vào tờ mờ sáng ngày 24 tháng 2 năm 1861, quân Pháp nổ súng tấn công Đại đồn Chí Hòa. Hai ông dốc sức chỉ huy đánh Pháp, nhưng ngay tối hôm đó thì đại đồn bị hạ. Thất trận, Nguyễn Tri Phương chủ trương rút về Biên Hòa nhưng Đỗ Quang không đồng ý. Nguyễn Tri Phương hỏi: “Đại đồn đã mất rồi, ở lại sao được?”. Đỗ Quang đáp: “Tuy đại đồn thất thủ nhưng còn đất, còn dân thì ta còn đánh được”. Câu nói này đã thể hiện cái tư tưởng quân sự rất sâu và rất đúng của Đỗ Quang. Nó phù hợp với cách đánh truyền thống của dân tộc Việt. Tiếc rằng Nguyễn Tri Phương đã không cảm thụ được cái chân lý hàm chứa trong câu nói giản dị đó. Dù sao thì Nguyễn Tri Phương đã không phải là Trần Quốc Tuấn. Với quan niệm “công - thủ” cứng nhắc tương tự Hồ Quí Ly, trước một đội quân xâm lược không đông nhưng tạm có ưu thế áp đảo về hỏa lực, ông quyết định lùi quân theo kiểu “chạy dài” về Thuận Kiều, và như ông nói là để củng cố lực lượng tìm cách lấy lại Gia Định. Đến khi triều đình nghị tội, ông bị cách chức nhưng vẫn được lưu dụng.
Than ôi! Ngày 25-2-1861 Đại đồn thất thủ thì ngày 28-2, quân Pháp đánh Thuận Kiều. Quan quân rút về Biên Hòa thì ngày 3-3 giặc chiếm đóng Trảng Bàng, coi như làm chủ Gia Định. Thừa thắng, ngày 12-3, chúng càn quét vùng phụ cận Sài Gòn (Biên Hòa, vùng sông Vàm Cỏ Tây, rạch Vũng Gù và đường bộ Sài Gòn - Mỹ Tho). Gia Định, nơi dấy nghiệp đế của Nguyễn Ánh, vĩnh viễn “từ biệt” triều đình Huế.
Sau thất bại này, triều đình cử Nguyễn Bá Nghị vào chỉ huy cuộc kháng chiến. Dưới con mắt nhát cáy và phản dân của Nghị thì tình thế đã đến lúc “đánh, giữ đều không được”. Và ông ta tâu về triều: “Trừ một chước hòa, tôi chỉ còn chịu tội”. Trong khi đó thì sự thể khác hẳn: cuộc chiến đấu của những đoàn “dân dũng”, những đội quân “dân ấp, dân lân” đang làm cho quân Pháp lúng túng, thất điên bát đảo; một bộ phận chiến đấu sát cánh với quân triều đình, một bộ phận khác tự động tổ chức đánh giặc và đánh giặc khắp nơi. Chính Barê (Pallu de La Barrière), một tác giả người Pháp cũng ghi nhận: “Thực tế đâu đâu cũng là trung tâm kháng chiến. Cuộc kháng chiến có cơ sở và hệ thống khắp nơi. Có thể nói rằng hễ có bao nhiêu người An Nam thì có bấy nhiêu ổ kháng chiến. Đúng hơn là phải xem mỗi người nông dân đang bó lúa là một du kích quân”
Thật là bi phẫn! Và càng bi phẫn hơn nữa khi nhớ về thời Trần, về câu nói bất hủ khi can vua định hàng giặc của Trần Thủ Độ và của Trần Quốc Tuấn! Phải nói: Bá Nghị ẹ ơi là ẹ!
Khi Nguyễn Tri Phương rút lui, Đỗ Quang về Gò Công cùng Trương Định chống giặc. Thấy Trương Định là người mưu trí, có tài thao lược lại lập nhiều chiến công nên tuần phủ Đỗ Quang tấu trình về triều, vua Tự Đức liền phong cho Trương Định làm Phó lãnh binh.
 

                                     Bàn thờ Trương Định ở bên trong đền
                                 Mộ và Đền thờ Trương Định ở thị xã Gò Công
Ngày 10-12-1861, đạo quân ứng nghĩa do Nguyễn Trung Trực chỉ huy, đốt cháy tàu chiến Pháp trên sông Nhật Tảo, tiêu diệt phần lớn quân địch trên tàu, khích lệ mạnh mẽ tinh thần cứu nước của nhân dân lục tỉnh. Cũng năm đó, nghĩa binh Cần Giuộc tấn công tiêu diệt một số quân Pháp nữa. Nhưng bên ta cũng tổn thất. Dịp này, chính Đỗ Quang đã nhờ cụ Đồ Chiểu (Nguyễn Đình Chiểu) viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” nổi tiếng và rất cảm động, để đọc tại lễ truy điệu những “dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ” đã anh dũng hy sinh.


             Chân dung Nguyễn Trung Trực trong đền thờ tại Phú Quốc, Việt Nam.
                Tượng Nguyễn Trung Trực tại sân đền thờ chính ở TP Rạ
Đến đầu năm 1862, tuy thực dân Pháp chiếm được 4 tỉnh thành (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long) nhưng chưa thể tổ chức được bộ máy cai trị vì luôn phải tích cực đối phó với cuộc kháng chiến quyết liệt của quân dân ta. Những trung tâm kháng chiến ở Cần Giuộc (do Quản Là chỉ huy), Thủ Dầu Một, Trảng Bàng và Tây Ninh ở phía bắc sông Vàm Cỏ, ở Tháp Mười (do Võ Duy Dương chỉ huy), đã chặn đứng được ý đồ đánh thọc sâu vào vùng nông thôn nhằm bao vây tiêu diệt lực lượng kháng chiến của giặc. Các nguồn tư liệu khác nhau cho thấy những tháng đầu năm 1862 là thời gian khủng hoảng nặng nề nhất của quân viễn chinh Pháp ở chiến trường Việt Nam. Một mặt là do phong trào kháng chiến đang dâng cao của nhân dân Nam Kỳ, một mặt là do những tác động tiêu cực từ thất bại của Pháp ở Xiri (Syrie), ở Mêhicô (Mexique) và làn sóng phản đối của nhân dân Pháp.
Giữa lúc đó, nếu triều đình Huế hạ chiếu Cần Vương, hô hào trung quân, ái quốc thì nhất định quân viễn chinh Pháp sẽ bị cuốn phăng ra biển cả hoặc ở lại dưới những nấm mồ. Nhưng không, triều đình Huế hèn nhát và ngu ngốc đã làm điều ngược lại là chủ động “nghị hòa”, đến Thực dân Pháp cũng phải ngỡ ngàng: “May mắn thay, đang lúc phải đón đợi một tình thế xấu thì Huế lại yêu cầu ký hòa ước”. Thế là hòa ước Nhâm Tuất ra đời ngày 5-6-1862. Đây là “thành quả” cơ bản mà triều đình Huế đã đạt được nhờ hòa ước ấy: “Trọn ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn nhượng đứt cho Pháp… Vua An Nam ra lệnh chấm dứt các cuộc nổi loạn đang diễn ra trong các tỉnh Gia Định, Định Tường và những người cầm đầu các cuộc nổi loạn phải đi khỏi để trong xứ có an ninh và qui thuận”.
Thế có bi phẫn không?!
Triều đình bãi binh. Đau khổ và đơn độc, nhưng nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu. Một số quan quân triều đình đã không nỡ bỏ dân, chấp nhận tiếng “khi quân”, ở lại cùng sĩ phu yêu nước và dân nghĩa dũng, hiến dâng đời mình cho Tổ quốc. Trong số đó có: Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Hồ Huấn Nghiệp, Hà Mậu Đức, Nguyễn Tấn Kiều, Bùi Quang Diệu… và tiêu biểu là Trương Định. Ông được nhân dân Nam Kỳ tôn vinh là “Bình Tây Đại nguyên soái”. Trong văn bia tại lăng mộ ông còn ghi:
“… Năm Kỷ Mùi (1859), (Pháp) chiếm thành Gia Định, ông theo giúp việc nơi quân thứ. Năm Canh Thân (1860), đại đồn thất thủ, ông về Gò Công mộ nghĩa binh… quyết chí thu phục giang sơn cũ. Tiếp đó ông được nhận chức Phó Lãnh binh Gia Định…
Năm Nhâm Tuất (1862), do việc hòa nghị, ông được điều bổ về An Giang. Lúc đầu ông không có ý cưỡng lệnh triều đình, nhưng lại cũng không muốn phụ lòng mọi người. Do lòng trung phẫn, họ ngăn ông lại giữa đường, không muốn cho ông đi nhậm chức, đồng lòng suy tôn ông làm đại tướng quân…
Năm Quý Hợi (1863), đồn Gò Công thất thủ, ông lại quay trở về đây và lại khởi binh. Ngày 19 tháng 7 năm Tự Đức thứ mười bảy, ông tử trận ở rừng Tân Phước, được đem về táng ở làng Thuận Ngãi…”.
Thực tế là ngày 25-9-1863, được bọn tay sai mật báo, quân Pháp đột kích căn cứ Lý Nhơn. Nghĩa quân phá vòng vây trở về vùng Gò Công, giấu lực lượng tại một nơi hiểm yếu bên hữu ngạn sông Soài Rạp. Đêm tối 19-8-1864, được Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường, quân Pháp kéo đến đột kích, bất ngờ bao vây đánh úp. Bản doanh Đám lá tối trời thất thủ. Sáng 20-8, Trương Định thoát được vòng vây nhưng bị địch bắn theo, gãy cột sống, bị thương nặng. Để bảo toàn khí tiết, ông đã rút gươm tự sát tại Ao Dinh (Gò Công) vào rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864. Khi ấy, ông 44 tuổi.
Hậu thế còn lưu được khẩu khí mộc mạc nhưng bất khuất của ông.  Sau đây là một vài câu trong số đó.
Tuyên bố của Trương Định trong thư trả lời thư dụ hàng của tướng Pháp Bonard vào cuối năm 1862:

Tuyên bố của Trương Định gửi các quan ở Vĩnh Long, để tỏ ý ly khai với Nam triều (vì sau hòa ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức ra lệnh ông phải bãi binh) vào tháng 2 năm 1863:


Hịch của Trương Định (tháng 8 năm 1864):

Khoảng cuối tháng 1-1866, Phan Thanh Giản có thi hành lệnh “giải giáp” của triều đình nhưng theo ghi nhận của một học giả thực dân Pháp thì: “Chúng ta ngỡ rằng vị quan này sẽ ra lệnh ngưng được mọi cuộc nổi loạn, nhưng tình hình vẫn như cũ. Lệnh của Phan Thanh Giản vẫn vô hiệu. Bọn phiến loạn Đồng Tháp ngày càng gia tăng hoạt động. Các đồn bốt vùng Mỹ Tho bị tấn công. Đầu tháng 2 (1866), bọn phiến loạn truyền hịch kêu gọi dân chúng nổi dậy, hứa hẹn sẽ thành công…”.

Tượng đài anh hùng dân tộc Trương Công Định tại thị xã Gò Công (Tiền Giang)         Tượng đài anh hùng dân tộc Trương Công Định tại thị xã Gò Công (Tiền Giang)
Tinh thần kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ là như thế đó!
Trở lại chuyện Đỗ Quang. Trong gần 2 năm lăn lộn cùng quân dân Nam Kỳ kháng chiến, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng trong những chiến công đánh Pháp, được mọi người nể phục. Sau hòa ước Nhâm Tuất, triều đình gọi Đỗ Quang về làm Tuần phủ Nam Định. Ông cho đó là hành động trốn giặc, đáng xấu hổ, bèn không nhận lệnh rồi dâng sớ từ quan với giọng văn đầy đau xót, phẫn uất.
“… Ngày thần ra về, kẻ sĩ và nhân dân đứng chật đường mà nói rằng: từ nay cha bỏ con, quan bỏ dân, quan về lại làm quan còn dân thì không được làm dân của triều đình nữa. Tiếng khóc nghẽn đường. Thần cũng phải gạt nước mắt mà ra đi. Trộm nghĩ thần tầm thường kém cỏi không có tài cán gì, nhưng lâu nay quanh quẩn với dân, vốn không nghĩ đến ngày được sống trở về. Nay thần được gọi về, còn nghĩa sĩ, nghĩa dân thì không được vì triều đình mà góp sức, góp của nữa, không biết đặt mình vào đâu. Như thế là thần trên đã phụ triều đình, dưới phụ trăm họ, tội đã rõ ràng không thể chối cãi. Nếu nay thần lại được nhận chức ở địa phương Nam Định thì đối với nhân dân Gia Định biết nói sao đây, đối với công luận thiên hạ biết nói thế nào? Thần còn chút làm người biết xấu hổ nên cúi đầu xin thu hồi lệnh đã ban, bãi chức cho thần được trở về với vườn ruộng để cho hả cái nỗi phẫn uất của nhân dân và còn để cho giữ được cái tiết liêm sỉ của thần hạ”.
Bài sớ của Đỗ Quang rất nổi tiếng, đương thời được nhân dân cả nước hoan nghênh, cảm phục.
Tuy chống lệnh nhưng triều đình không bắt tội ông, còn triệu về kinh bổ nhiệm chức Tham Tri. Ông cũng từ chối.
Năm Giáp Tý (1864), miền Hải Dương, Quảng Ninh bị nạn phỉ hoành hành, quan quân triều đình đối phó rất vất vả. Triều đình lại gọi Đỗ Quang ra giữ chức Tham tán quân vụ Hải An rồi Tuần phủ Bắc Ninh. Ông nhận, hăng hái làm tròn trọng trách. Sau khi dẹp yên bọn phỉ, ông lại cáo quan về ở ẩn. Năm Bính Dần (1866), Đỗ Quang lại có lệnh triệu làm Tuần phủ Bắc Ninh. Ra giúp dân được ít lâu, vào tháng 7 (âm lịch) cùng năm, ông bị ốm nặng, phải xin vua cho về nghỉ. Bệnh không khỏi, vào tháng 9 (âm lịch) năm đó (Bính Dần, 1866), ông mất lúc 59 tuổi. mất tại quê nhà, giữ tròn tiếng "trung quân" nhưng chưa tròn tiếng "ái quốc", ôm theo nỗi bất bình đối với tư tưởng chủ hòa đầy bạc nhược của triều đình, về “ngậm khóc” nơi chín suối.
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét