TT&HĐ III - 30/g
Đại Khủng Hoảng (1929 - 1939) - Thảm Hoạ Kinh Tế Khủng Khiếp Nhất Lịch Sử
CHƯƠNG IX (XXX): THỜI CUỘC
“Nếu
như sau cái đêm tối tăm của thời trung cổ, các ngành khoa học đột nhiên
sống lại với một sức mạnh không ngờ và bắt đầu phát triển nhanh chóng
một cách kỳ diệu, thì sự kỳ diệu ấy cũng chính là nhờ sản xuất mà có”
Ph. Ăngghen
"Chúng ta từng tự hỏi chiến tranh sống ở đâu, và
điều gì khiến nó gớm guốc như vậy. Và giờ chúng ta nhận ra mình biết nó
sống ở đâu... ở trong chúng ta." - Albert Camus
"Chiến tranh là sự ngu dại tột bậc của cuộc sống"
Thầy Cãi
"Chưa từng có lúc nào thế giới không chiến tranh. Dù
trong bảy nghìn, mười nghìn hay hai mươi nghìn năm. Những nhà lãnh đạo
khôn ngoan nhất, hay những vị vua cao quý nhất, hay cả Nhà thờ - không
ai trong số họ có thể ngăn chặn nó. Và đừng chịu thua thứ lòng tin dễ
dãi rằng những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội nóng vội có thể ngăn được
chiến tranh. Hay có thể chia tách được chiến tranh vì lẽ phải hay đúng
đắn ra khỏi phần còn lại. Luôn có hàng nghìn hàng nghìn người mà đối với
họ thậm chí cả chiến tranh theo kiểu đó cũng là vô nghĩa và phi lý." - Aleksandr Solzhenitsyn
"Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó." - Benjamin Franklin
"Chiến tranh là sự ngu dại tột bậc của cuộc sống"
Thầy Cãi
(Tiếp theo)
***
Chính
phủ Huvơ đã không giải quyết được khủng hoảng mà còn có những biện pháp
không phù hợp làm tăng mức độ nghiêm trọng của tình hình. Năm 1930,
Huvơ ký ban hành thuế biểu mới (thuế biểu Hawky - Smooth) cao hơn thuế
biểu ban hành năm 1920, làm Châu Âu không thể mua lúa mì của Mỹ, càng
làm cho hàng nông phẩm ế thừa. Huvơ không thi hành biện pháp gì để cứu
trợ những người thất nghiệp; phản đối dành một khoản ngân sách liên bang
để cứu trợ nghèo đói. Hơn nữa, chính quyền Huvơ còn đồng ý giảm tiền
lương công nhân và đàn áp phong trào bãi công, biểu tình phản đối của
quần chúng.
Một người mẹ trẻ và 2 đứa con vô gia cư ở California
Chúng
ta sẽ tìm hiểu tình hình “thời sự” của một số cường quốc chủ yếu trong
thời kỳ đại khủng hoảng năm 1929 - 1933, sau này đã góp mặt “xứng danh
anh hào” trong việc gây ra chiến tranh thế giới thứ hai mà đến ngày nay,
từ thế kỷ XXI nhìn lại, chúng ta thấy cuộc chiến tranh đó chỉ đạt được
một mục đích duy nhất là đã tàn phá lực lượng sản xuất nhân loại, tiêu diệt được một lực lượng con người (sức
lao động và miệng ăn) khổng lồ, còn ngoài ra là hoàn toàn vô tích sự.
Nhưng ở góc độ khác, nó lại “vô tình” tạo cơ hội có một không hai cho
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa.
1 - Nước Mỹ:
“Chúng
ta đã đi gần đến chỗ xóa sạch nạn nghèo đói hơn bất kỳ nước nào trên
thế giới”, đó là câu nói thiếu hiểu biết một cách “vui vẻ” nhất của Huvơ
(Hoover), ứng cử viên đảng Cộng Hòa, trúng cử tổng thống Mỹ vào năm
1928. Nhiều người Mỹ cũng đã tin như thế vì họ chưa thấy được cái ngày
gọi là “Ngày thứ năm đen tối” ở thị trường chứng khoán Niu Óoc đã ở ngay
trước mặt.
Ngày
24-10-1929, giá cổ phiếu đột nhiên hạ xuống mức thấp kỷ lục, kích hoạt
tình trạng hoảng loạn chưa từng có trong lịch sử thị trường chứng khoán
Niu Óoc vào ngày 29-10-1929. Lúc này giá một loại cổ phiếu được coi là
bảo đảm nhất đã sụt 80% so với tháng 9, các cổ đông đã mất 15 tỷ đôla,
và giá trị các loại chứng khoán đã giảm 40 tỷ đôla. Hàng triệu người đã
mất sạch số tiền mà họ tiết kiệm cả đời.
Bức ảnh nổi tiếng Người mẹ di cư do Dorothea Lange chụp vào tháng 3 năm 1936, miêu tả cô Florence Owens Thompson, 32 tuổi có 7 đứa con ở California.

Tiếp
theo là sự suy thoái diễn ra như con ngựa bất kham, không thể kìm chế
nổi: Hàng loạt nhà tư bản phá sản, hàng loạt nhà máy đóng cửa, hàng ngàn
ngân hàng theo nhau sụp đổ, hàng triệu người thất nghiệp, mất nhà cửa
và phương kế sinh sống; nhà nước không thu được thuế, công chức và giáo
viên không được trả lương.
Đến
năm 1932, cuộc khủng hoảng đã đạt đến đỉnh điểm. Tổng sản lượng công
nghiệp chỉ đạt 53,8% so với năm 1929. Sản xuất than hạ xuống mức của năm
1904, gang xuống mức năm 1896, thép lùi về mức 1901. Công nghiệp đúc
thép chỉ hoạt động còn 16% công suất. Có 115.000 xí nghiệp công thương
nghiệp, 58 công ty đường sắt bị phá sản, 10 vạn ngân hàng (40% tổng số
ngân hàng Mỹ) đóng cửa. Trong nông nghiệp thì nông sản bị mất giá trầm
trọng. Trong những năm 1929 - 1930, đã có tới 75% trang trại bị phá sản.
Diện tích gieo trồng ở các bang miền Nam bị thu hẹp còn khoảng 80%. Giá
trị hàng xuất khẩu giảm từ 5,241 tỷ xuống còn 2,4 tỷ đôla; giá trị nhập
khẩu giảm từ 4,399 tỷ xuống còn 1,322 tỷ đôla. Thu nhập quốc dân giảm
một nửa. Đến năm 1932, số người thất nghiệp lên tới 12 triệu.
Các
nguyên nhân dẫn đến cuộc suy thoái nặng nề nhất và cũng kéo dài nhất
này trong lịch sử nước Mỹ, theo các nhà kinh tế học Mỹ là như sau:
* Khả
năng sản xuất đã vượt quá khả năng tiêu thụ thực tế. Trong khi lợi
nhuận công ty tăng 76% (thời kỳ 1922 - 1929) thì công nhân và nông dân
vẫn không được nhận thêm phần xứng đáng của họ trong thu nhập quốc dân,
do đó không tăng được sức mua xã hội.
* Chính
sách của chính phủ về thuế và nợ chiến tranh làm cho hàng hóa khó bán
ra nước ngoài, đặc biệt là những hàng nông sản truyền thống: lúa mì,
bông, thuốc lá.
* Việc
cấp tín dụng quá dễ dàng đã tạo ra sự lạm dụng. Người ta mua chứng
khoán chủ yếu là để đầu cơ. Nợ của chính phủ và của tư nhân đã vượt qua
số 100 tỷ đôla.
* Sự cơ giới hóa được đẩy mạnh đã làm giảm nhu cầu về thợ không lành nghề làm tăng lực lượng thất nghiệp.

Trong
cuộc bầu cử năm 1932, Huvơ tiếp tục ứng cử, nhưng ứng cử đại diện cho
đảng Dân Chủ là Rudơven (Franklin D.Roosevelt) đã thắng và trở thành
Tổng thống Mỹ với lời hứa thực hiện “chính sách mới” (New Deal). Cơ sở
lý luận của “Chính sách mới” chính là học thuyết kinh tế Kên (John
Maynard Keynes), một học thuyết có cái nhìn sâu sắc hơn về nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa, đặt nền móng cho sự xuất hiện hình thức nhà nước tư
bản độc quyền (điều tiết vĩ mô nến kinh tế đất nước). Trong bài diễn văn
nhậm chức, Rudơven khẳng định sẽ cứu trợ nạn thất nghiệp, nghèo đói,
lập lại sự cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, tiến hành kiểm tra
chặt chẽ các hoạt động ngân hàng… Ông đề nghị Thượng Nghị viện cho tổng
thống những quyền hành rộng rãi hơn để ông có thể đương đầu với những
thảm họa quốc gia và khắc phục nó. Thượng Nghị viện chấp nhận và thông
qua tất cả những biện pháp mạnh mẽ và táo bạo của ông.
Với
việc thực thi “Chính sách mới”, có thể không có lĩnh vực nào trong đời
sống kinh tế Mỹ mà những cải cách của Rudơven không đụng chạm tới.
Trong
lĩnh vục ngân hàng, Rudơven cho đóng cửa tất cả các ngân hàng rồi cho
mở lại với sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ và thiết lập chế độ bảo
đảm đối với tiển gửi của khách hàng. Ông phá giá đồng đôla để nâng giá
các nhu yếu phẩm, giám sát thị trường chứng khoán, qui định những nguyên
tắc thương mại công bằng để chấm dứt gian lận, đặt mức thuế cao hơn đối
với các công ty và người giàu, điều chỉnh phần nào sự phân phối của của
cải của các bang và cả liên bang. Trong hai nhiệm kỳ đầu làm tổng thống
(8 năm), Rudơven đã quyết định chi 16 tỷ đôla cứu trợ trực tiếp cho
những người thất nghiệp, lập ra nhiều quĩ liên bang giúp những doanh
nghiệp đang tan rã, tạo thêm nhiều việc làm mới bằng cách lập chương
trình rộng lớn và xây dựng những tiện nghi, công trình công cộng đồng
thời tạo ngân quĩ cho các công ty xây dựng vay tiền.
“Đạo
luật khôi phục công nghiệp quốc gia” (National Industrial Recovery Act,
viết tắt là NIRA, được Thượng Viện Mỹ thông qua vào tháng 6-1933) nhằm
cải thiện quan hệ sản xuất, tổ chức lại sản xuất. Trong đó có qui định
việc cơ cấu các xí nghiệp cùng ngành thành những liên hiệp xí nghiệp để
thông qua những hợp đồng về sản xuất và tiêu thụ, qui định công nhân có
quyền cử đại biểu thương lượng với chủ về mức lương và chế độ làm việc
nhằm mục đích giảm giờ làm, tăng lương và đảm bảo quyền lợi những hợp
đồng tập thể… Hai năm sau, Tòa án tối cao Pháp viện Mỹ đã phán quyết đạo
luật này là vi hiến. Tuy nhiên sau này, một số chủ trương của nó đã
được lấy lại trong một số đạo luật khác.
Người Mỹ xếp thành hàng dài chờ nhận đồ cứu tế ở thành phố New York năm 1932.
Nhờ
có “Đạo luật điều chỉnh nông nghiệp (tháng 5-1933, gọi tắt là “AAA”) mà
tình trạng của nông nghiệp được cải thiện đáng kể: nâng giá nông sản,
giảm bớt sản xuất thừa, cho vay dày hạn ở nông thôn…, trong đó có hai
điều đáng chú ý, thứ nhất là phụ cấp cho những nông dân nào chịu giảm
bớt diện tích độc canh làm cho đất bạc màu, thay vào đó những loại cây
trồng khác có thể bảo vệ độ màu mỡ của đất, và thứ hai là tăng tỷ giá
các mặt hàng nông nghiệp so với những mặt hàng phi nông nghiệp lên mức
trung bình của những năm 1909 - 1914. Trên thực tế, đạo luật này chỉ có
lợi cho những chủ trại lớn và tương đối phát đạt, dù sao, như đã đề cập,
nó vẫn đem đến cho sản xuất nông nghiệp những yếu tố kích thích tích
cực.
Năm
1935, “Đạo luật về an ninh xã hội” (Social Security Act) qui định việc
lập giữ bảo hiểm thất nghiệp, chế độ hưu bổng cho người già, người mù và
trẻ em tàn tật. Dù còn hạn chế (thời gian trợ cấp người, số người được
trợ cấp ít…) song nhiều người coi đây là cuộc cách mạng đối với nước Mỹ…
Sự
kiện quan trọng đầu tiên trong chính sách đối ngọai của Mỹ là vào tháng
11-1933, chính quyền Rudơven tuyên bố công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao với Liên Xô. Mục đích của việc này thực chất là vì quyền lợi kinh
tế của bản thân nước Mỹ (tăng khả năng cầu chẳng hạn). Tuy nhiên Liên Xô
cũng có lợi không những về kinh tế mà còn về chính trị.
Trước
thời Rudơven, chính sách “Cây gậy lớn” mang tính kẻ cả nô dịch của Mỹ
đã làm cho quan hệ giữa Mỹ và khu vực Châu Mỹ - Latinh rất căng thẳng,
nhân dân ở các nước đó chống đối ngày một mạnh mẽ. Hơn nữa, các nước tư
bản châu Âu cũng xâm nhập về kinh tế ngày càng tăng vào khu vực “sâu
sau” này của Mỹ. Trước tình hình đó, ngay từ năm 1934, Rudơven tuyên bố
“Chính sách láng giềng thân thiện” đối với các nước Mỹ - Latinh. Trên
tinh thần đó, năm 1934, chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ “điều bổ sung
Pơlát” (Platt) ghi trong hiến pháp tự cho phép Mỹ có quyền can thiệp vũ
trang vào Cuba (bị người Cuba cực lực phản đối), rồi chấm dứt can thiệp
vào Haiti và Cộng hòa Đôminica. Cũng năm đó, Rudơven hứa sẽ trao trả
quyền độc lập cho Philipin. Ngoài ra khi Mêhicô ra lệnh trưng dụng tất
cả các công ty dầu lửa của Mỹ tại đó, thay vì đưa quân đội sang can
thiệp như thường làm thì Rudơven chỉ yêu cầu bồi thường thỏa đáng thông
qua thương lượng. Nhờ thế, Mỹ đã xoa dịu ở mức độ nhất định cuộc đấu
tranh chống Mỹ của nhân dân Mỹ - Latinh trong khi vẫn đảm bảo được sự
bành trướng kinh tế - tư bản Mỹ ở khu vực này.
Một người đàn ông mang đồ nhà ra bán trên đường phố New York năm 1933.
Tóm
lại, nhờ “Chính sách mới” với những biện pháp cụ thể mang nhiều tích
cực, chính quyền Rudơven đã đưa nền kinh tế Mỹ thoát cơn nguy kịch, dần
phục hồi và phát triển ổn định trở lại trên con đường dân chủ tư sản. Dù
còn nhiều hạn chế, nhưng những quyết sách đối nội và đối ngoại của
Rudơven - một nhân vật cấp tiến, sáng suốt – cùng với những kết quả đạt
được của chúng đã là đề tài đặc sắc có thể rút ra từ đó những bài học
sâu sắc về “đối nhân xử thế” cho những nhà nước tư bản chủ nghĩa sau
này. Và dù chưa trọn vẹn nhưng những cải cách của Rudơven đã đáp ứng
được những đòi hỏi của nhân dân Mỹ, người lao động Mỹ đương thời đó. Sự
“trị vì” suốt 16 năm (4 nhiệm kỳ tổng thống liên tiếp - lâu nhất trong
các đời tổng thống Mỹ từ trước tới nay) của Rudơven trong thể chế dân
chủ tư sản Mỹ đã nói lên tất cả.
Nhiều nông dân mất đất do hậu quả nặng nề của cuộc Đại khủng hoảng đã phải chật vật đi làm thuê để kiểm sống
Nhiều nông dân mất đất do hậu quả nặng nề của cuộc Đại khủng hoảng đã phải chật vật đi làm thuê để kiểm sống
2 - Nước Anh
Cuộc
khủng hoảng kinh tế ở Anh bắt đầu từ cuối năm 1929. Mức độ khủng hoảng
không trầm trọng bằng các nước tư bản chủ nghĩa khác vì nền kinh tế Anh
chưa phát triển lắm. Nhìn chung, cuộc khủng hoảng đã làm tổng sản lược
công nghiệp năm 1932 giảm 20%, ngành ngoại thương (đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Anh) giảm đến 60%, giá trị đồng bảng Anh giảm
1/3. Nông nghiệp Anh cũng lâm vào khủng hoảng: diện tích trồng trọt và
sản lượng nông nghiệp đều giảm.
Để
chống lại cuộc khủng hoảng, chính phủ Công đảng (cầm quyền lần thứ hai
vào tháng 6-1929) đã đề ra những chính sách nhằm rút bớt chi tiêu nhà
nước, giảm chi phí công cộng và lập quĩ trợ cấp. Năm 1931, khi khủng
hoảng diễn ra nặng nề nhất, chính phủ quyết định thi hành một chương
trình tiết kiệm ngặt nghèo. Đó là những biện pháp, hời hợt, không giải
quyết được căn cơ những khó khăn do khủng hoảng gây ra như không làm
giảm được nạn thất nghiệp, không phục hồi được sản xuất… Cuộc sống khó
khăn làm nổi dậy phong trào công nhân, quần chúng đấu tranh chống đối
trong Đế quốc Anh (chính quốc, thuộc địa và chư hầu). Tình hình đó làm
cho nội bộ Công Đảng bị chia rẽ sâu sắc. Chính phủ Công Đảng lâm vào
khủng hoảng phải xin từ chức. Ngày 24-8-1931, một chính phủ mới bao gồm
đại biểu của đảng bảo Thủ, công Đảng và đảng Tự Do do Mác Đônan (Mac
Donad) cầm đầu, được thành lập với tên gọi là “Chính phủ dân tộc”
Người đàn ông thất nghiệp nằm dài trên cảng ở thành phố New York năm 1935.
Người đàn ông thất nghiệp nằm dài trên cảng ở thành phố New York năm 1935.
Ngày
21-9-1931, Chính phủ dân tộc tuyên bố hạ giá đồng bảng Anh. Tháng
8-1932, chính phủ này bãi bỏ chính sách tự do mậu dịch, thay bằng chính
sách bảo hộ thuế quan. Chính sách này đã làm cho việc buôn bán trong nội
bộ Đế quốc Anh được phát triển vì thị trường nội bộ của nó được bảo vệ
trước sự cạnh tranh của các nước tư bản chủ nghĩa khác. Do đó mà cũng
tạo điều kiện cho công nghiệp Anh phát triển. Chính phủ dân tộc chủ
trương chống Đảng Cộng sản và đàn áp rát rạt phong trào công nhân.
Trong
chính sách đối ngoại, Chính phủ dân tộc tuyên bố “Qui chế Uétminstơ”
(Wesminster) vào tháng 11-1931, công nhận quyền tự chủ của các nước tự
trị về đối nội và đối ngoại. Tháng 10-1932, chính phủ này biểu hiện
chống Liên Xô ra mặt bằng tuyên bố hủy bỏ hiệp định buôn bán Anh - Xô
(ký năm 1930) và tháng 4-1933, ra lệnh cấm nhập khẩu hàng hóa Liên Xô.
Trong khi đó, nước Anh lại khuyến khích nước Đức trong việc phục hồi
tiềm lực kinh tế và quân sự…
Nước
Anh thoát khỏi khủng hoảng kinh tế vào năm 1934, nhưng phát triển yếu
ớt. Trong những năm trước chiến tranh, nhà nước Anh lấy danh nghĩa “điều
chỉnh kinh tế” (chắc theo gương Mỹ?!) để can thiệp ngày càng sâu vào
nền kinh tế quốc dân và kết hợp với các công ty lũng đoạn. Chính phủ
tăng cường chính sách thuế quan bảo hộ, thành lập khối đồng bảng Anh,
điều chỉnh xuất khẩu hàng hóa và tư bản, định mức sản xuất và tiêu thụ,
đặt hàng quân sự cho các xí nghiệp. Năm 1935, Anh ký với Đức hiệp ước
hải quân (mà thực chất là để cho Đức phát triển hải quân theo qui mô
lớn). Với chính sách “không can thiệp” mù quáng, nước Anh đã làm ngơ
trước những hành động xâm lược của các nước thuộc phe trục sau này là
Đức, Ý, Nhật Bản (chẳng hạn hành động xâm lược Trung Quốc của Nhật; sự
can thiệp vũ trang chống nước Cộng hòa Tây Ban Nha của Đức và Ý dù rất
nhiều quyền lợi của Anh ở đây bị xâm phạm). Khi mâu thuẫn giữa Anh và
các nước nói trên ngày càng rõ nét và Liên Xô đề nghị nước Anh thành lập
một hệ thống an ninh chung, giới cầm quyền Anh đã một mực cự tuyệt. Anh
đã giải quyết mâu thuẫn với Đức bằng thỏa hiệp và hướng Đức tấn công
sang phía đông (tức Liên Xô). Đỉnh cao của chính sách này là hiệp ước
Muynich năm 1938.
Cuộc khủng hoảng thừa ở tiểu bang Alabama, miền Nam nước Mỹ. Trong ảnh là những cậu bé cầm trên tay những loại quả to lớn nhưng không có ai muốn mua ...
Cuộc khủng hoảng thừa ở tiểu bang Alabama, miền Nam nước Mỹ. Trong ảnh là những cậu bé cầm trên tay những loại quả to lớn nhưng không có ai muốn mua ...
3 - Nước Pháp:
Mãi
đến giữa năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế mới bắt đầu ở Pháp bằng sự
phá sản của các ngân hàng, rồi từ đó lan sang tất cả các ngành của nền
kinh tế. Khủng hoảng làm cho sản lượng công nghiệp Pháp giảm 1/3, nông
nghiệp giảm 2/5, ngoại thương giảm 3/5, thu nhập quốc dân giảm 1/3. Cuộc
khủng hoảng gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nhẹ: 130
xí nghiệp dệt vải bị phá sản trong giai đoạn 1929 - 1935. Sản lượng tơ
lụa và len năm 1934 giảm còn một nửa so với của năm 1929.
Khủng
hoảng ở Pháp có đặc điểm kéo dài rất lâu. Mãi đến năm 1936 mới thấy sự
phồn vinh cục bộ, nhưng năm 1937 lại lâm vài khủng hoảng và không đạt
được mức phát triển năm 1929.
Sản
xuất bị thu hẹp gây ra nạn thất nghiệp hàng loạt: năm 1935 có trên nửa
triệu người thất nghiệp. Khủng hoảng đã làm cho tiền lương thực tế giảm
từ 30% đến 40%; làm cho một vạn chủ xí nghiệp nhỏ, 10 vạn tiểu thương bị
phá sản; làm cho thu nhập nông dân giảm 2,7 lần. Tình hình đó làm cho
các cuộc bãi công của công nhân liên tiếp xảy ra, đồng thời cũng làm
xuất hiện nhiều tổ chức phát xít.
Ngày
6-2-1934, trên 20.000 kẻ phát xít có vũ trang, biểu tình đòi giải tán
quốc hội. Ngay sau đó, 25.000 công nhân Pari đã xuống đường chống lại
đám vô chính phủ đó. Binh lính cũng tỏ tình đoàn kết với công nhân để
bảo vệ nền Cộng hòa. Cuộc bạo động phát xít bị dẹp tan.
Tháng
5-1935, đảng Cộng Sản, đảng Xã Hội, đảng Cấp Tiến và một số đảng phái,
đoàn thể xã hội cấp tiến khác đã họp hội nghị tại Pari, thông qua nghị
quyết thành lập Mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa phát xít và chiến
tranh. Ngày 14-7-1935 (Quốc Khánh Pháp), ở Pari và các thành phố khác đã
xảy ra các cuộc biểu tình với trên 2 triệu người tham gia để ủng hộ Mặt
trận nhân dân.
Những con chó bị bỏ đói gầy trơ xương (Ảnh: Daily Mail)

Những con chó bị bỏ đói gầy trơ xương (Ảnh: Daily Mail)
Tháng
1-1936, Mặt trận nhân dân công bố cương lĩnh bao gồm những yêu cầu
chính trị quan trọng, đó là: giải tán và giải giáp tất cả các tổ chức
phát xít, hạn chế quyền lực của tư bản tài chính, bảo đảm quyền tự do
dân chủ, thi hành chính sách an ninh tập thể, bảo vệ nước Pháp trước
nguy cơ xâm lược của nước Đức phát xít…
Từ
ngày 26-4 đến ngày 3-5-1936, nước Pháp bầu cử quốc hội. Các đảng phái
của Mặt trận nhân dân thu được 5,6 triệu phiếu (nhiều hơn 1 triệu phiếu
so với của khối đối lập). Chính phủ của Mặt trận nhân dân được thành lập
do Lêông Bơlum (Leon Blum), người của đảng Xã Hội, đứng đầu Chính phủ
đã thực hiện một số điều khoản của cương lĩnh Mặt trận: cải cách ngân
hàng, xuất quĩ tín dụng để giải quyết những vấn đề xã hội, ổn định giá
cả cho nông dân, tăng tiền lương trung bình của công nhân lên 15% và đảm
bảo chế độ làm việc 40 giờ một tuần, quốc hữu hóa một bộ phận công
nghiệp chiến tranh, chuẩn y sắc lệnh cấm các tổ chức phát xít hoạt động.
Phe
đối lập đã ra sức chống lại chính sách của chính phủ Mặt trận; thực
hiện lãn công tài chính, đưa vốn ra nước ngoài nhằm gây rối loạn tài
chính trong nước, xúi giục gây nên những vụ khiêu khích phá hoại trật tự
xã hội, ra sức nói xấu Mặt trận nhân dân… Trong khi đó, chính phủ ngày
càng xa rời những nguyên tắc cơ bản của cương lĩnh. Tháng 6-1937, Blum
xin từ chức. Tháng 4-1938 Đalađiê (Daladier), một phần tử phát hữu của
đảng Cấp Tiến lên cầm đầu chính phủ.
Tháng
11-1938, chính phủ này đã thi hành sắc lệnh tăng thuế bất thường, bãi
bỏ chế độ làm việc 40 giờ một tuần. Thậm chí, chính phủ còn đem quân đội
và cảnh sát đàn áp công nhân bãi công và tuyên bố “tình hình đặc biệt” ở
trong nước. Bất chấp sự phản đối của dư luận Pháp, chính phủ Đalađiê đã
tham gia ký hiệp ước Munich. Do hành động phản bội của giới cầm quyền,
Mặt trận nhân dân Pháp đã tan vỡ.
Hình ảnh người vô gia cư tràn ngập trên các con phố ở Mỹ suốt thời kỳ đại khủng hoảng
Hình ảnh người vô gia cư tràn ngập trên các con phố ở Mỹ suốt thời kỳ đại khủng hoảng
Tuy
nhiên, sự hình thành và tồn tại trong một thời gian của Mặt trận nhân
dân Pháp và Chính phủ Mặt Trận đã để lại những bài học kinh nghiệm quí
báu cho nhân dân cần lao trên bước đường đấu tranh xây dựng một chính
quyền do dân và thực sự vì dân, đồng thời cũng từ đó mà nhận thức sâu
sắc hơn vai trò lịch sử của xã hội tư bản chủ nghĩa để chắt lọc mà giữ
lại những ưu việt, mà gột rửa những nhơ bẩn chứa chấp trong lòng nó,
nhằm cải tạo nó mà gặt hái hạnh phúc chứ đừng “chửi đổng” nó, khăng
khăng đạp đổ nó. Hãy nhớ rằng tất cả các danh xưng hay nhãn mác đều do
chúng ta đặt ra và qui ước để phục vụ cho nhận thức. Khi đã nhận thức
đúng rồi thì bỏ hết danh xưng, nhãn mác đi, lúc đó lịch sử nhân loại sẽ
hiện ra là một quá trình liên tục kế thừa, liên tục loại bỏ và liên tục
sáng tạo, như những dòng sông xuất phát từ một nguồn duy nhất, quanh co,
lúc ghềnh thác cuồn cuộn, lúc phẳng lặng êm đềm, có đục có trong, dù
mỗi sông là mỗi cảnh mỗi vẻ nhưng đều không xa lạ, đều thống nhất chảy
xuôi, quan hệ mật thiết với nhau bởi sự chi phối chung của nguồn cội,
bởi những nhánh rẽ liên thông, bởi mưa nắng… và đều cố gắng vươn về một
đích: Đại Dương - nguồn của đầu nguồn.
Người gửi tiền ngân hàng vây kín một ngân hàng năm 1933.
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------------------
-----------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét