Thứ Ba, 23 tháng 2, 2021

TT&HĐ III - 30/d

 
Những suy nghĩ thâm thúy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh dành cho nhân dân Việt Nam

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


.

CHƯƠNG IX (XXX): THỜI CUỘC

“Nếu như sau cái đêm tối tăm của thời trung cổ, các ngành khoa học đột nhiên sống lại với một sức mạnh không ngờ và bắt đầu phát triển nhanh chóng một cách kỳ diệu, thì sự kỳ diệu ấy cũng chính là nhờ sản xuất mà có”
Ph. Ăngghen

"Tình yêu giống như chiến tranh, dễ bắt đầu nhưng rất khó để dừng lại."


"Tôi không biết chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ sử dụng vũ khí nào nhưng tôi biết rằng chiến tranh thế giới thứ 4 sẽ sử dụng gậy gộc và đá!"  - Albert Einstein
"Chúng ta từng tự hỏi chiến tranh sống ở đâu, và điều gì khiến nó gớm guốc như vậy. Và giờ chúng ta nhận ra mình biết nó sống ở đâu... ở trong chúng ta."  -


"Người ta vẫn gọi chiến tranh là tội giết người. Không phải: nó là tự sát."
  - Ramsay MacDonald


"Chưa từng có lúc nào thế giới không chiến tranh. Dù trong bảy nghìn, mười nghìn hay hai mươi nghìn năm. Những nhà lãnh đạo khôn ngoan nhất, hay những vị vua cao quý nhất, hay cả Nhà thờ - không ai trong số họ có thể ngăn chặn nó. Và đừng chịu thua thứ lòng tin dễ dãi rằng những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội nóng vội có thể ngăn được chiến tranh. Hay có thể chia tách được chiến tranh vì lẽ phải hay đúng đắn ra khỏi phần còn lại. Luôn có hàng nghìn hàng nghìn người mà đối với họ thậm chí cả chiến tranh theo kiểu đó cũng là vô nghĩa và phi lý." - Aleksandr Solzhenitsyn


"Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó." - Benjamin Franklin

"Chiến tranh là sự ngu dại tột bậc của cuộc sống"
Thầy Cãi
 
 
 
 
 
 (Tiếp theo)
 
                                                                      ***
Tháng 8-1942, Nguyễn Ái Quốc mang tên mới là Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc, đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược để tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp hoạt động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Tại Trung Quốc, Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong tù ông đã viết tập thơ “Nhật ký trong tù” gồm 133 bài chữ Hán, rất hay, rất nổi tiếng. Dưới đây là vài bài chúng ta thích trong tập thơ đó:
 
MỞ ĐẦU TẬP NHẬT KÝ

Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do

                                        Nam Trân dịch

           LỜI HỎI

Hai cực trong xã hội
Quan tòa và phạm nhân
Quan rằng: anh có tội
Phạm thưa: tôi lương dân
Quan rằng: anh nói dối
Phạm thưa: thực trăm phần
Quan tòa tính vốn thiện
Làm ra vẻ dữ dằn
Muốn khép người vào tội
Lại giả bộ ân cần
Ở giữa hai cực đó
Công lý đứng làm thần

                            Huệ Chi dịch


                  CHIỀU HÔM

Cơm xong, bóng đã uống trầm trầm
Vang tiếng đàn ca, rộn tiếng ngâm
Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối
Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm

                                       Nam Trân dịch


NGƯỜI BẠN TÙ THỔI SÁO

Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu
Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau

                                        Nam Trân dịch


                 CÁI CÙM

                         I
Dữ tựa hung thần miệng chực nhai
Đêm đêm há hốc nuốt chân người
Mọi người bị nuốt chân bên phải
Co duỗi còn chân bên trái thôi

                        II
Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật
Cùm chân sau trước cũng tranh nhau
Được cùm chân mới yên bề ngủ
Không được cùm chân biết ngủ đâu?

                                        Nam Trân dịch


             HỌC ĐÁNH CỜ

                            I
Tù túng đem cờ học đánh chơi
Thiên binh vạn mã đuổi nhau hoài
Tấn công, thoái thủ nên thần tốc
Chân lẹ, tài cao ắt thắng người

                            II
Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ
Kiên quyết, không ngừng thế tiến công
Lạc nước, hai xe đành bỏ phí
Gặp thời, một tốt cũng thành công

                            III
Vốn trước hai bên ngang thế lực
Mà sau thắng lợi một bên giành
Tấn công, phòng thủ không sơ hở
Đại tướng anh hùng mới xưng danh

                     Văn Trực-Văn Phụng dịch


                 NGẮM TRĂNG

Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ

                                       Nam Trân dịch


                 TRUNG THU

                          I
Trung thu vành vạnh mảnh gương thu
Sáng khắp nhân gian bạc một màu
Sum họp nhà ai ăn tết đó
Chẳng quên trong ngục kẻ âu sầu

                          II
Trung thu ta cũng tết trong tù
Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu

                                     Nam Trân dịch


               ĐI ĐƯỜNG

Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao chập chùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non

                                            Nam Trân dịch


                GIẢI ĐI SỚM

                          I
Gà gáy một canh đêm chửa tan
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn
Người đi cất bước trên đường thẳm
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn

                           II
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng

                                         Nam Trân dịch


                      ĐÊM LẠNH

Đêm thu không đệm cũng không chăn
Gối quắp, lưng còng, ngủ chẳng an
Khóm chuối, trăng soi càng thấy lạnh
Nhòm song, Bắc Đẩu đã nằm ngang

                                     Nam Trân dịch


RỤNG MẤT MỘT CHIẾC RĂNG

Cứng rắn như anh chẳng kém ai
Chẳng như lão lưỡi dẻo và dai
Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ
Nay kẻ chân mây, kẻ cuối trời

                        Trần Đắc Thọ dịch


          TRÊN ĐƯỜNG

Mặc dù bị trói chân tay
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng
Vui say, ai cấm ta đừng
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu

                                         Nam Trân dịch


                   PHA TRÒ

Ăn cơm nhà nước, ở nhà công
Lính tráng thay phiên đến hộ tòng
Non nước dạo chơi tùy sở thích
Làm trai như thế cũng hào hùng!

           Văn Trực-Văn Phụng dịch


CẢNH BINH KHIÊNG LỢN CÙNG ĐI

I
Khiêng lợn, lính cùng đi một lối
Ta thì người dắt, lợn người khiêng
Con người coi rẻ hơn con lợn
Chỉ tại người không có chủ quyền

II
Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do!
Mỗi việc mỗi lời không tự chủ
Để cho người dắt tựa trâu bò

                             Nam Trân dịch


         CỘT CÂY SỐ

Chẳng cao cũng chẳng xa
Không đế cũng không vương
Một phiến đá nho nhỏ
Đứng sừng sững bên đường
Người nhờ anh chỉ lối
Đi đúng hướng đúng phương
Anh chỉ cho người biết
Nào dặm ngắn, dặm trường
Mọi người nhớ anh mãi
Công anh chẳng phải thường

           Văn Trực-Văn Phụng dịch
 


   ĐƯỜNG ĐỜI HIỂM TRỞ
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao
Núi cao gặp hổ mà vô sự
Đường phẳng gặp người bị tống lao.

Ta là đại biểu dân Việt Nam
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm
Ai ngờ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quí” tại nhà giam.

Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng
Lại bị tình nghi là Hán gian
Xử thế từ xưa không phải dễ
Mà nay, xử thế khó khăn hơn.
(Nam Trân dịch)

      BUỔI TRƯA
Trong tù khoan khoái giấc ban trưa
Một giấc miên man suốt mấy giờ
Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới
Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ.
(Nam Trân dịch)

      TỰ KHUYÊN MÌNH
Ví không có cảnh đông tàn
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong bước gian truân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.
(Nam Trân dịch)

      TỨC CẢNH
Cành lá khéo in hình Dực Đức
Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công
Năm tròn Tổ quốc tăm hơi vắng
Tin tức quê nhà bữa bữa trông.
(Nam Trân dịch)


Sau một năm 14 ngày bị tù đày, tháng 9-1943, Hồ Chí Minh được trả tự do. Và bài thơ sau đây đã trở thành tuyệt bút thủy mạc, nhân tình của Hồ Chí Minh:


   TÂN XUẤT NGỤC HỌC ĐĂNG SƠN
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.


   MỚI RA TÙ, TẬP LEO NÚI
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh
Trông lại trời Nam, nhớ người xưa
(Nam Trân dịch)
Tháng 9-1944, Hồ Chí Minh về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12-1944, ông chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam)
Đến đây, cuộc đấu tranh trường kỳ chống xâm lược và giải phóng Tổ quốc của nhân dân Việt Nam, bắt đầu từ phát đại bác đầu tiên của thực dân Pháp bắn vào Đà Nẵng, đã đứng trước bến bờ xán lạn của nó: nhân hòa đã có, địa lợi đã sẵn và thiên thời đang đến từ cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Có lẽ chúng ta cũng nên nghe kể sơ qua về cuộc chiến tranh này, vì nó là con đẻ của nhân loại đau thương, cái lực lượng tự nhiên mà một bộ phận không ít những thành viên của nó lúc nào cũng tưởng mình sáng suốt trong vai trò chúa tể nhưng thực ra là hoàn toàn mù quáng, hành xử thậm chí là tệ hơn rất nhiều so với loài động vật hoang dã!

34 đội viên đầu tiên
Từ căn cứ địa Cao Bằng, ngay sau lễ thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã xuất quân thực hiện chỉ thị “phải đánh thắng trận đầu” của lãnh tụ Hồ Chí Minh. 17 giờ ngày 24/12/1944, bằng một trận đánh táo bạo và mưu trí, đơn vị đã tiêu diệt đồn Phay Khắt (đóng tại xã Cam Lộng, Nguyên Bình, Cao Bằng) và 7 giờ sáng hôm sau (25/12) lại tiêu diệt tiếp đồn Nà Ngần (cách Phay Khắt 15km) diệt 2 tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính, tịch thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phay Khắt – Nà Ngần đã mở đầu cho truyền thống Quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Danh sách 34 đội viên đầu tiên
STT
Tên
Bí danh
Dân tộc
Quê quán
1
Trần Văn Kỳ
Hoàng Sâm
Kinh
Tuyên Hoá, Quảng Bình
2
Dương Mạc Thạch
Xích Thắng
Tày
Nguyên Bình, Cao Bằng
3
 Hoàng Văn Xiêm
Hoàng Văn Thái
Kinh
Tiền Hải, Thái Bình
4
Hoàng Thế An
Thế Hậu
Tày
Hà Quảng, Cao Bằng
5
Bế Bằng
Kim Anh
Tày
Hoà An, Cao Bằng
6
Nông Văn Bát
Đàm Quốc Chưng
Tày
Hoà An, Cao Bằng
7
Bế Văn Bồn
Bế Văn Sắt
Tày
Hoà An, Cao Bằng
8
Tô Văn Cắm
Tiến Lực
Tày
Nguyên Bình, Cao Bằng
9
Nguyễn Văn Càng
Thu Sơn
Tày
Hoà An, Cao Bằng
10
Nguyễn Văn Cơ
Đức Cường
Kinh
Hoà An, Cao Bằng
11
Trần Văn Cù
Trương Đắc
Tày
Nguyên Bình, Cao Bằng
12
Hoàng Văn Củn
Quyền, Thịnh
Tày
Võ Nhai, Thái Nguyên
13
Võ Văn Dảnh
Luân
Kinh
Tuyên Hoá, Quảng Bình
14
Tô Vũ Dậu
Thịnh Nguyên
Tày
Nguyên Bình, Cao Bằng
15
Dương Văn Dấu
Đại Long
Nùng
dien hai
16
Chu Văn Đế
Nam
Tày
Nguyên Bình, Cao Bằng
17
Nông Văn Kiếm
Liên
Tày
Nguyên Bình, Cao Bằng
18
Đinh Văn Kính
Đinh Trung Lương
Tày
Thạch An, Cao Bằng
19
Hà Hưng Long
 
Tày
Hoà An, Cao Bằng
20
Lộc Văn Lùng
Văn Tiên
Tày
Cao Lộc, Lạng Sơn
21
Hoàng Văn Lường
Kính Phát
Nùng
Ngân Sơn, Bắc Kạn
22
Hầu A Lý
Hồng Cô
Mông
Nguyên Bình, Cao Bằng
23
Long Văn Mần
Ngọc Trình
Nùng
Hoà An, Cao Bằng
24
Bế Ích Nhân
Bế Ích Vạn
Tày
Ngân Sơn, Bắc Kạn
25
Lâm Cẩm Như
Lâm Kính
Kinh
Thạch An, Cao Bằng
26
Hoàng Văn Nhủng
Xuân Trường
Tày
Hà Quảng, Cao Bằng
27
Hoàng Văn Minh
Thái Sơn
Nùng
Ngân Sơn, Bắc Kạn
28
Giáp Ngọc Páng
Nông Văn Bê
Nùng
Hoà An, Cao Bằng
29
Nguyễn Văn Phán
Kế Hoạch
Tày
Hoà An, Cao Bằng
30
Ma Văn Phiêu
Bắc Hợp
Tày
Nguyên Bình, Cao Bằng
31
Đặng Tuần Quý
 
Dao
Nguyên Bình, Cao Bằng
32
Lương Quý Sâm
Lương Văn Ích
Nùng
Hà Quảng, Cao Bằng
33
Hoàng Văn Súng
La Thanh
Nùng
Hà Quảng, Cao Bằng
34
Mông Văn Vẩy
Mông Phúc Thơ
Nùng
Võ Nhai, Thái Nguyên
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------------------


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét