TT&HĐ III - 28/e
Đạo Thiên chúa tiếp tay cho pháp xâm lược nước ta
Bản chất của Vatican và những âm mưu (Rất hay)
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
"Lịch sử hoài
thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc
cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời
giáo huấn cho thế hệ sau."
Cervantes (Tây Ban Nha)
Cervantes (Tây Ban Nha)
"Lịch sử là bằng
chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là
thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
Cicero (La Mã)
Cicero (La Mã)
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
CHƯƠNG VII (XXVIII): BẤT KHUẤT
“…
Tinh thần Hà Nội, tính cách Hà Nội - đó là tổng hợp tất cả những gì tốt
đẹp nhất trong tâm hồn Việt Nam cao quí… Hà Nội khởi dậy từ trong lòng
mình sức trẻ mới của một xã hội đang đi lên kết hợp với truyền thống
nghìn xưa quyện trong không khí mà mỗi tấc đất đều thấm máu anh hùng của
Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội”
(Trích xã luận báo Nhân Dân, số ra ngày 26-12-1972)
"Khi ai hỏi đến tác phẩm lớn nhất của dân tộc mình, công trình kiến trúc
vững nhất của giống nòi mình, người Việt có thể kiêu hãnh đáp rằng : «Đó là lãnh thổ mà bao nhiêu đời dân Việt đã góp công sức tạo thành và không ngừng nghỉ điểm tô».
Đó là chứng chỉ cụ thể và hùng hồn nhất của cái tinh thần bất khuất, đó
cũng là cái văn bằng xứng đáng hơn hết của óc sáng tạo thiên tài.
(...)
Có lẽ chúng ta sẽ công bình hơn khi nói rằng trí thức Việt còn có nhiều
người thông minh đến độ lỗi lạc tuyệt vời, và nhiều người sống rất đam
mê lý tưởng, không ngừng hy sinh cho sự tồn tại, vươn cao của dân tộc
họ. Chúng ta, dù ở quốc gia nào khác, cũng nghiêng mình trước họ, vì họ
là niềm kiêu hãnh của một giống nòi."
(Trích "Người Việt cao quý" - Chương V - tác giả A. Pazzi)
"Đối diện với quân đội Mỹ là cả một dân tộc kiên quyết như quả núi đá,
có một tâm hồn cao thượng đáng khâm phục, một tinh thần dũng cảm vô
song, không hề biết sợ trước bất cứ kẻ thù nào".
(Báo Thế Giới (Le Monde) của Pháp)
(Tiếp theo)
***
Trong thời gian quân xâm lược Pháp đánh chiếm nước ta, có một hiện tượng rất ngược đời là một bộ phận giáo dân (theo Đạo Chúa) người Việt đã ủng hộ, tiếp tế lương thực, vẽ đường mách lối, thậm chí là cùng quân viễn chinh Pháp đánh phá phong trào kháng chiến cứu nước của quân dân ta. Điều này làm dấy lên sự phẫn nộ của đại bộ phận lương dân (không thờ Chúa), gây ra nhiều cảnh nồi da xáo thịt tương tàn, làm cho mối hận thù lương - giáo đầy đau xót phát sinh, tồn tại dai dẳng và di căn đến mãi về sau.
Muốn
hiểu được nguyên nhân sâu xa cũng như trực tiếp của hiện tượng nói
trên, thiết nghĩ chỉ cần đọc tác phẩm “Thiên Chúa và Hoàng Đế” (“Thập giá và lưỡi gươm”) của linh
mục Trần Tam Tỉnh cũng đủ. Dưới đây, chúng ta xin lược trích một vài
đoạn trong tác phẩm của vị linh mục có tâm hồn trung thực, trong sáng
này, người đã từng thốt lên: “Thật đau lòng cho một sử gia người Việt
công giáo, khi phải nhắc lại những năm tháng ấy”, để phần nào thấy được
vấn đề xót xa trên:
"...Ngày 7 tháng giêng năm 1975, Mặt trận Giải phóng đã giải phóng tỉnh Phước Long. Hãng thông tấn Fides của Vatican đưa tin về vụ đó như sau: “Trong cuộc tấn công Phước Long, một số đông dân chúng, đã tìm chỗ núp trong Nhà thờ xứ. Nhưng nhà thờ xứ trở thành mục tiêu chủ yếu của các trọng pháo Cộng sản nã đạn vào và nhiều người đã chết, kể cả 4 linh mục là các Cha Cảnh, Toàn, Lâm, Nhã. Cha Đại đã bị Cộng sản bắt”. Cách đưa tin thời sự kiểu đó ngầm hiểu rằng lực lượng cộng sản lo đánh phá tôn giáo hơn là giải phóng đất nước.
Báo L‟Observatore Romano và Đài tiếng nói Vatican loan tin rằng có nhiều linh mục đã bị giết và có cả những Giám mục, như Đức Cha Nguyễn Huy Mai, giám mục Buôn Mê Thuột và Đức Cha Nguyễn Văn Hòa giám mục chỉ định địa phận Nha Trang, có lẽ đã bị bắt hoặc đã bị cộng sản giết chết. Và để nhấn mạnh nguy cơ cộng sản, giáo sư Alesandrini, phát ngôn nhân của Tòa thánh, đã viết trong tờ L‟Observatore Della Domenica rằng “chế độ Hà Nội là xấu xa nhất thế giới”. Đức Phalo VI, trong cuộc tiếp kiến ngày 26 tháng 3 năm 1975, nói đến “cơn hấp hối kéo dài không thể tả xiết, trong nước mắt và máu” của nhân dân Viêt Nam, và ngày 2 tháng 4 ngài cầu xin cho dân công giáo nƣớc này được “lòng can đảm của các tông đồ đầu tiên, để làm chứng cho đức tin của họ và cho lòng bác ái của họ trong những điều kiện khó khăn”.
Nhưng kiểu nhìn theo con mắt tận thế đó, cũng như các mưu đồ của Washington đều chẳng thể nào cứu được chế độ Sài Gòn.
(...)
Đoán biết trước sự thất bại hầu như chắc chắn của quân đội Nam Việt, những người đã làm giàu nhờ chiến tranh đều bỏ chạy mang theo hàng triệu đôla chiếm được nhờ tham nhũng và những phương thế bất chính. Bị lôi cuốn vào làn song di tản đó, nhiều người công giáo đã lên những chiếc thuyền mỏng manh, hy vọng khi ra khơi thì tàu gặp được tàu của Mỹ vớt họ và chở họ tới các nước có đạo, để họ bảo vệ được đức tin. Cơn hoảng hốt đó là hậu quả của những tiếng đồn “cộng sản sẽ giết hết người công giáo gốc di cư 1954” hoặc “trong các vùng giải phóng, nhiều linh mục đã bị tàn sát, các nữ tu bị hãm hiếp, các nhà thờ bị triệt hạ”.
Song khác với 1954, hàng giáo phẩm lần này đã không tổ chức cho di tản. Các giám mục đều nhất quyết ở lại, dầu có phải dọn mình chịu chết vì đạo như họ vẫn nghĩ. Gần ngày giải phóng cố đô Huế, Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền đã viết cho Giám mục Mercier là bạn thân rằng, Đức Cha thấy bổn phận mình là phải tiếp tục tại vị, để Giáo hội có mặt và Tin mừng vẫn được loan báo, nếu có vì thế mà “phải vào tù, chịu đau khổ bắt bớ không phải bằng lời giảng mà nhiều người rất thèm khát”. Phần riêng mình, Đức Tổng giám mục Sài Gòn Nguyễn Văn Bình nhắc nhở giáo dân rằng “không bao giờ Giáo hội ủng hộ việc di tản người công giáo ra nước ngoài”. Tiếp đến, Đức Cha khuyên các linh mục và tu sĩ đừng để bị lôi cuốn vào hoang mang, nhưng phải chứng tỏ sự can đảm và tinh thần hy sinh cho tới cả trường hợp phải tử vì đạo: “Chúng ta phải sẵn sàng trong một tinh thần hoàn toàn tin cậy vào Chúa. Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa: “Kẻ chăn tốt dâng mạng sống mình vì đàn chiên (Yn 10, 11) và gương lành của Người: “Đức Kitô đã ban sự sống của Người cho chúng ta, chúng ta phải dâng mạng sống mình vì anh em” (Yn 3,1).
Khi đọc những dòng trên, người ta có thể hiểu được bầu không khí sợ hãi và lo âu trong đồng bào công giáo. Dầu có những lời kêu gọi kể trên, hơn 100 Linh mục và 250 tu sĩ nam nữ người Việt đã ra đi.
(...)
Tại thành phố từ nay được gọi bằng tên cụ Hồ Chí Minh, cũng như trên khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam được giải phóng, thái độ cởi mở và hòa giải của Mặt trận Giải phóng đều được thừa nhận bởi cả những kẻ thù địch triệt để nhất. Cuộc tắm máu đã không hề xảy ra. Không có đàn áp; không có xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng.
(...)
Sáu ngày sau khi Huế được giải phóng, trong một bức thư đề ngày 1 tháng 4 năm 1975 Đức Cha Nguyễn Kim Đền, Tổng giám mục Huế gởi cho giáo dân của Ngài như sau: “Giữa quang cảnh vui mừng hoan hỉ này, đã đến lúc chúng ta phải sẵn sàng cộng tác với hết thảy mọi người thiện chí để xây dựng lại quê hương đã từng chịu đau thương tang tóc biết bao rồi, và việc này ở dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Giải phóng, hầu đem lại cho đồng bào sự tự do, sự phồn vinh và hạnh phúc. Hơn bao giờ hết, bây giờ là lúc phải củng cố sự đoàn kết dân tộc, tình yêu thương nhau và phục vụ đồng bào, giúp đỡ và cứu trợ, chia sẻ với đồng bào cơm ăn và áo mặc”.
Ngày 9 tháng 4, Đức Tổng giám mục lại công bố: “Trên trần gian này, chẳng có sự sống con người, và đối với loài người thì không có gì qúi giá hơn độc lập và tự do.. Sống trong độc lập là một điều có thật tại đây, cố đô Huế. Còn về tự do, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã long trọng đảm bảo với toàn thể đồng bào, sự tự do trong đó có sự tự do lương tâm của các tôn giáo. Chính vì vậy mà người công giáo Việt Nam háo hức đóng góp phần tích cực của mình. Và cùng nhau, cùng toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Giải phóng, chúng ta sẽ xây dựng một xã hội đầy yêu thương, một xã hội tự do, dân chủ, thịnh vượng; ở đó chúng ta được an tâm chu toàn bổn phận mình đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa”.Ít hôm sau ngày giải phóng Sài Gòn, Tổng Giám Mục thành phố này cũng đã kêu gọi toàn thể người công giáo miền Nam hãy “chu toàn mọi nhiệm vụ công dân của mình một cách nghiêm túc, dưới sự lãnh đạo của chính phủ Cách mạng lâm thời. Đây là sự vui mừng của toàn thể nhân dân ta và theo niềm tin Kitô giáo, đây cũng là ân huệ của Chúa. Với toàn thể đồng bào, chúng ta vui mừng chào đón hòa bình và độc lập”.
Bên ngoài, tại Vatican cũng như ở các miền công giáo, người ta không nói cùng một giọng như thế. Ngày 11 tháng 5, trong báo L‟Observatore della Domenica, giáo sư Alesandrini đã viết về chính sách hòa giải của Mặt trận giải phóng nhƣ sau: “Sự hòa giải chân thành, đích thực và thành khẩn là thời điểm duy nhất để có thể có hòa bình; sự hòa giải thật không tự nó đến ngay từ sự im lìm bi thảm của các sự vật, từ sự vắng chiến tranh hay là tình thế bắt buộc, nhưng nó phải được xây dựng và xây dựng lại trong các cõi lòng đã từng tan nát, bị chà đạp”.Tại sao có thái độ đó từ phía tờ L‟Observatore della Domenica? Tại sao có những lập trường bề ngoài xem ra mâu thuẫn nhau đối với một nước Việt Nam đã được giải phóng?
Giáo hội công giáo sẽ ra thế nào trong một nước Việt Nam độc lập và thống nhất? Muốn hiểu bối cảnh hiện nay của Giáo hội công giáo Việt Nam, cần đọc lại lịch sử giáo hội này từ ngày bắt đầu truyền bá Tin mừng vào thế kỷ 16. Cần hiểu biết tất cả quá khứ của Giáo hội, phải khám phá tất cả những gì nó liên lụy với di sản thuộc địa....
(...)
Năm
1492, Krixtốp Côlông (Christophe Colomb) khám phá ra những vùng đất mới
mà ông nghĩ là Ấn Độ (Châu Mỹ - NV). Một nửa thế kỷ trước đó, thương
thuyền Bồ Đào Nha cũng đã chạy dọc theo bờ biển phía tây Châu Phi. Và ít
năm sau, năm 1497, Vaxcô đơ Gama, người Bồ Đào Nha đã phát hiện đúng
con đường sang Ấn Độ.
Cristoforo Colombo | |
---|---|
![]()
Chân dung Cristoforo Colombo do Ridolfo Ghirlandaio vẽ sau khi ông đã chết. Hiện chưa có tranh chân dung gốc của ông.
|
|
Sinh | khoảng 1451 Có thể ở Genova, Liguria |
Mất | 20 tháng 5, 1506 (khoảng 55 tuổi) Valladolid, Castile |
Nghề nghiệp | Nhà thám hiểm hàng hải của Hoàng gia Castilla |
Tôn giáo | Giáo hội Công giáo La Mã |
Ngày
4-5-1493, qua sắc chỉ “Inter cactera” (Giữa những điều khác), Giáo
hoàng Alếchxăng VI giao quyền chinh phục các vùng đất kể trên, mà các
dân tộc phương Tây chưa từng biết, cho các triều đình nước Tây Ban Nha
và Bồ Đào Nha. Tây Ban Nha có quyền đi chiếm tất cả các đất đai gặp được
ở 100 dặm kể từ quần đảo Axe (Acores), còn Bồ Đào Nha là tất cả các
nước ở mạn Đông đường ranh đó (quần đảo Axe nằm ở mạn giữa, cắt đôi Đại
Tây Dương).
Tuy
nhiên, quyền lợi của Bồ Đào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ
“Giáo hoàng Rôma” (Romanus Pontifex) do Đức Nicola V ra ngày 8-1-1454.
Theo quyền lực Chúa ban và quyền của Tòa thánh, Đức Giáo Hoàng ban cho
triều đình Lixbon (Bồ Đào Nha): “Toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục,
chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Xarađanh (Sarrsins -
tức người Ả rập); các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo hội, gặp
ở bất cứ nơi nào; được toàn quyền chiếm cứ tất cả vương quốc, lãnh địa,
vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả
của nổi của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn”.
Nước
Tây Ban Nha, sau khi được Giáo Hoàng chúc lành, đã tung ra một đoàn
chiến thuyền hùng hậu và đạo quân kỵ binh hung tợn, lên đường đánh chiếm
châu Mỹ và chỉ sau một thời gian ngắn đã lập nên một đế quốc bao la. Về
phía mình, người Bồ Đào Nha cũng thu được những kết quả lừng danh ngay
bước đầu. Ngày 17-2-1511, Anbuykec (Alphonse d’ Albuguesque) chiếm thành
Goa, một đô thị thuộc loại quan trọng nhất Ấn Độ… Năm sau, Anbuykee
chiếm Malắcca, thị trấn của tất cả các hải đảo vùng Nam Cực… Nửa thế kỷ
sau, cờ Bồ Đào Nha bay phấp phới trên Macao, ngay bên hông Trung Hoa,
cho phép họ buôn bán với các hải khẩu Trung Quốc và Nhật Bản.
(…) Chính từ Goa và Macao, những nhà truyền giáo đầu tiên đã tìm đến Việt Nam…
(…)
Những người đồng ý đều được rửa tội cách giản đơn, nhưng lúc nào cũng được các “Thầy phương Tây” ban tặng ít quà. Sau những kết quả sơ khởi đó, nhiều linh mục dòng Tên đã đến và trú ngụ tại Việt Nam.
(…)
Cố đạo Alécxăng đờ Rốt đã trình về Roma năm 1650 một báo cáo về sự tiến
triển của việc truyền giáo tại Việt Nam và đề xuất một phương án tách
việc truyền giáo khỏi quyền hành Bồ Đào Nha...
Alexandre de Rhodes | |
---|---|
Chân dung của Alexandre de Rhodes.
|
|
Sinh | Alexandre de Rhodes Avignon |
Mất | Isfahan, Ba Tư |
Quốc tịch | ![]() |
Lực
lượng Bồ Đào Nha bắt đầu suy yếu. Từ đầu thế kỷ XVII, người Hà Lan,
theo đạo Tin Lành, chẳng quan tâm đến việc Giáo Hoàng phạt vạ tuyệt
thông, đã lên đường mạo hiểm sang Ấn Độ Dương, vùng biển Trung Quốc và
chẳng mấy chốc đã bắt đầu cướp của vương quốc Vạn An đó; họ lên đảo Java
lập thành phố Batavia, vượt xa Goa về sự giàu có, thịnh vượng. Ngày
12-1-1641, họ chiếm Malắcca và thế là phá vỡ thế độc quyền buôn bán
hương liệu mà Lixbon từng nắm giữ suốt một thế kỷ qua.
Rôma quay nhìn sang nước Pháp.
Năm
1650, hai giám mục Pháp được phái sang coi sóc địa phận truyền giáo tại
Việt Nam. Đó là giám mục Panluy (Pallu) và giám mục Lâmbe dơ la Mốt
(Lambert de la Motte). Những điều Rôma căn dặn họ thật là khôn ngoan và
đúng với Tin Mừng, rằng các linh mục khi coi sóc tín hữu phải căn cứ vào
bốn điều nền tảng sau: đào tạo linh mục và cả giám mục người bản xứ;
vâng lệnh của Rôma; không nhúng vào lĩnh vực chính trị; tôn trọng các
nền văn minh và phong tục địa phương. Rằng các ngài hãy cẩn thận giữ
mình, đừng ra sức bảo các dân tộc ấy bỏ các nghi lễ, tập tục, phong cách
của họ, miễn là các điều đó không ngang nhiên vượt với đạo thánh và
phong hóa tốt, bởi vì có gì vô lý hơn là việc đưa nước Pháp, Tây Ban Nha
hay nước Ý, hay một phần đất nào của châu Âu vào nhà người Trung Quốc?
Đó không phải là cái các ngài phải đem vào. Hãy đem Đức Tin vào mà Đức
Tin thì không phủ nhận, cũng không gây tổn thương đến các nghi lễ và
phong tục địa phương, miễn là chúng không phải chuyện xấu xa, trái lại,
Đức Tin muốn các nghi lễ và các phong tục đó được bảo tồn. Cùng lúc Rôma
chỉ thị cho các giám mục truyền giáo chỉ lo việc các linh hồn thôi và
hãy quên đi những lợi ích riêng tư của chính nước họ.
Tiếc
thay, những lời khuyên nhủ đầy tinh thần Tin Mừng và trong sáng như thế
đã bị bỏ lơ quá sớm. Giám mục Panluy đã nhanh chóng quan hệ với Công ty
Ấn Độ mà nước Pháp mới thiết lập nhằm cạnh tranh với Công ty Đông Ấn
của Hà Lan. Ông trở thành cố vấn và báo cáo viên của nó… Ông khuyến
khích công ty của nhà Vua tiến hành thực hiện “phương án quang vinh đưa
dân mọi rợ trở lại đạo thánh và qua đó mà thánh hóa việc thương mại của
mình, để vừa mở mang Giáo hội, vừa làm giàu cho nước Pháp”.
(…)
Dù
muốn dù không, Giáo hội Việt Nam, ngay từ những bước sơ khai đã dính
líu vào các chuyện thế gian này rồi, mà chẳng bao lâu đã ảnh hưởng đến
việc truyền giáo.
(…)
Người
Việt Nam, vừa là Phật tử vừa theo đức Khổng, vẫn có thể chấp nhận Lão
Giáo, một học thuyết triết lý đối nghịch với Khổng Giáo, nhưng lại cũng
bổ sung cho nó…
Nhưng
mặc dù có sự pha trộn tôn giáo, nghi lễ và tín ngưỡng khác nhau như
thế, người Việt Nam lấy làm trọng nhất sự thờ cúng tổ tiên mà họ coi như
là đặc tính riêng của đời sống tôn giáo. Việc thờ cúng này sát nhập một
cách tài tình, nhuần nhuyễn vào cả ba tôn giáo đã du nhập từ ngoài vào.
Nó lan truyền thành một thứ đạo lý không ghi thành sách nhưng rất phổ
biến, khiến toàn dân chấp nhận nó một cách tự nhiên. Cơ sở uyên thâm của
đạo lý này nằm trong hệ thống xã hội và kinh tế truyền thống, trong đó,
gia đình không những là sợi dây tình cảm mà còn là hạt nhân của đời
sống, là thành lũy tạo sức mạnh cho mỗi cá nhân, là sợi chỉ thiêng liêng
nối kết mỗi người với thế giới bên kia không một ai am tường.
Người
Việt Nam có thể đón nhận dễ dàng đạo Kitô như họ đã chấp nhận ba tôn
giáo ngoại lai kia. Nhưng cái khó không thể vượt qua đối với nhiều người
là sự lên án việc thờ cúng ông bà. Hồi đầu, các linh mục dòng Tên cho
phép tín hữu phục lạy trước bàn thờ tổ tiên, nhưng các cố thừa sai Pari,
các tu sĩ dòng Đa Minh lại chống đối và cấm đoán điều đó. Cuối cùng,
năm 1715, đức Clêmen (Clément) XI đã kể việc thờ cúng đó là hoàn toàn
dối trá và ngược với Kitô Giáo.
Từ
đó, có thể hiểu tại sao người Việt Nam lại tỏ ra đối nghịch với cái đạo
bất lương, dám từ chối lòng hiếu thảo đối với ông bà và từ đó, cũng
muốn xóa bỏ tất cả những mối quan hệ của một dân tộc với quá khứ của
mình. Người tín hữu Kitô bị coi là những kẻ phản bội gia tộc, đồng thời
là phản bội quê hương. Bởi quê hương người Việt Nam cũng đặt nền tảng
nơi đạo hiếu, vốn làm cho toàn thể công dân nên anh em như cùng một gia
tộc…
(…)
Tình
hình thực tế đó bị người lương Việt Nam coi là dấu hiệu vong thân của
người Kitô giáo, một sự vong thân không thể dung thứ trong thời bình, mà
lại nguy hiểm khi hạm đội nước ngoài đến đe dọa xứ sở.
Sự
sống của giáo hội vì thế đã bị xáo trộn bởi các cuộc “bách hại”. Đó là
những hiện tượng không ăn khớp với bản tính hết sức bao dung của người
dân Việt Nam, xét cả về mặt tôn giáo…
(…)
Nguyễn Ánh không lính, không tàu, quay nhìn sang các cường quốc phương Tây. Ông bắt đầu liên hệ với quân Bồ Đào nha tại Macao, với quân Hòa Lan tại Batavia và với quân Anh ở Ấn Độ đang sẵng lòng tiếp tay giúp đỡ. Giám mục Bá Đa Lộc không để mất cơ hội này để vừa giúp đỡ chúa Nguyễn và làm lợi cho nước Pháp đang trên đà cạnh tranh quốc tế. Nguyễn Ánh phó thác đứa con đầu mới 5 tuổi, với cả ngọc ấn để chính thức nhờ ông đi cầu viện với nước Pháp. Tại triều dinh Vécxây (Versailies), giám mục trình bày với bá tước Mông-mô-ranh (Montmorin) một bản thảo lược, làm cả đám người chính trị lẫn sĩ quan chính qui, đều lấy làm tâm đắc.
(...)
Nhờ
Giám mục Bá Đa Lộc (Alexandre de Rhodes), một hiệp ước đã được kí kết ngày 28-11-1787, theo
đó vua Pháp hứa viện trợ quân sự cho Nguyễn Ánh và ông này đã đáp lễ lại
bằng việc nhượng cho nước Pháp Côn Đảo và cửa Hội An.
(…)
Các
khó khăn chính trị nội bộ đã không cho phép nước Pháp gửi lực lượng
quân sự qua như đã hứa trong hiệp ước Véc xây. Nhưng Bá Đa Lộc không nản
lòng. Với tài chính của Hội Truyền giáo Pari, với sự ủng hộ tiền bạc
của bạn bè và với các phương tiện của bản thân, giám mục đã mua tàu,
trang bị khí giới và thuê một số sĩ quan Pháp. Như vậy, ông vô tình giúp
được Nguyễn Ánh đè bẹp Tây Sơn sau một ít năm chinh chiến.
Được
tin giám mục trở lại có sĩ quan Pháp tháp tùng, anh em Tây Sơn rất tức
giận. Người ta đọc được lời thổ lộ sau đây của một nhà viết sử truyền
giáo: “Các quan Tây Sơn càng tỏ ra gay gắt với Kitô Giáo từ khi giám mục
thành Adran trở lại. Sự trở lại này làm cho họ ngờ vực người Kitô Giáo
và nhất là các vị thừa sai khi cả hai đều ra sức hỗ trợ cho Nguyễn Ánh
(mà họ cho là vua hợp pháp, còn Tây Sơn thì bị họ gán cho tội phản loạn)
được trở lại ngai vàng vua cha. Sự bách hại vốn chưa hề dứt từ 30 năm
qua, đã tái phát một cách dữ dằn hơn vào năm 1798”.
Thực
ra, đây chẳng phải chỉ có vấn đề ngờ vực, mà là một điều chắc chắn. Vua
Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn đã có lần chặn bắt được một bức thư Nguyễn Ánh
gửi cho giám mục Labalet (Labarlette), xin đức cha tổ chức một đạo quân
gồm người tín đồ Kitô Giáo tại chỗ, hầu hỗ trợ cho lực lượng quân Pháp
chỉ huy đánh từ ngoài vào.
(…)
Đằng
khác, các vua nhà Nguyễn đã mang sẵn nỗi lo âu về chủ nghĩa đế quốc
phương Tây, đang ngày càng đe dọa nghiêm trọng hơn… Tuy nhiên các nỗi lo
âu ấy không phải là cớ chính đáng cho các cuộc bách hại thời Minh Mạng
(1833 và 1838), mà theo các sắc chỉ nhà vua, “đạo của bọn Hà Lan” là một
tà đạo, một đạo bất phân, cấm đoán việc thờ cúng tổ tiên, một thứ đạo
gieo hỗn loạn vào phong tục và trật tự nước nhà…
Có
thể tránh được các vụ đổ máu này, nếu đạo Kitô Giáo khi đến Việt Nam,
biết tỏ ra bao dung hơn, cởi mở hơn, biết bám rễ sâu hơn vào văn hóa xứ
sở và nếu các vua nhà Nguyễn biết tỏ ra thông minh và khôn khéo hơn.
Trong các cơn bão táp này, các cố Tây đã không khôn ngoan, đi cầu cứu
Pháp, vốn là một đế quốc đang chực sẵn cơ hội tốt hòng xâm chiếm Việt
Nam, vin cớ là để bảo vệ tự do tôn giáo.
(…)
(…)
Lợi dụng vụ tàn sát một vài vị thừa sai Pháp ở Việt Nam, cánh hữu tư
sản công giáo Pháp đã làm áp lực để chính quyền Đệ nhị cộng hòa khai
thác các điều vụng về của nhà vua Việt Nam, hầu đánh chiếm nước này.
Ơgien Vơiô (Eugène Veullpt) đã viết: “Quyền lợi con người mà Châu Âu
Kitô Giáo phải bắt buộc các dân mọi rợ tôn trọng và việc quan tâm bảo vệ
danh dự của chúng ta, đòi chúng ta phải trả thù các vụ xâm phạm đến
đồng bào chúng ta tại đất An Nam”.
Hai
nhân vật quan trọng trong việc cổ vũ Pháp xâm lăng Việt Nam là giám mục
Pelơ Ranh (Pelelrin) cai quản địa phận Huế và linh mục Húc, cựu thừa
sai truyền giáo. Giám mục Pelơranh đã khẳng định trước mặt triều đình
Napôlêông III rằng: “Nếu quân Pháp đánh chiếm nước này thì giáo dân bản
xứ sẽ tiếp đón họ như những kẻ cứu tinh”. Linh mục Húc cũng viết thư cho
vua rằng: “Chiếm lấy Nam Kỳ là việc dễ dàng nhất trần gian, nó sẽ đem
lại những kết quả vô cùng to lớn. Nước Pháp hiện có tại biển Trung Quốc
những lực lượng dư sức để tiến hành công việc đó. Dân bản xứ thì hiền
lành, siêng năng, rất dễ đón nhận đức tin Kitô Giáo và đang rên xiết
dưới ách tàn bạo ghê tởm, họ sẽ đón tiếp chúng ta như đón những người
giải phóng, những vị ân nhân. Chỉ cần ít lâu thôi là đem họ theo đạo
được hết và làm cho họ nhiệt tình yêu mến nước Pháp”.
(…)
Trên
chiến hạm Nêmêdis (Némésin), phó đô đốc Giơnuy (Rigault de Genouilly)
có giám mục Pelơranh bên cạnh, đảm bảo việc giao liên với các thừa sai
và tín đồ Kitô, vốn được chỉ thị phải cung cấp cho phó đô đốc các tin
tình báo và vị trí các quân đội Việt Nam và các vụ chuyển quân… Do thiếu
kết hợp các tin tình báo và chiến thuật, quân Pháp đã bắn phá cảng
Turan (Đà Nẵng)… nhưng rồi do dự không muốn tiến về kinh đô Huế…
Bỏ
lại Turan (Đà nẵng) một đơn vị đóng chốt, Giơnuy xuống đánh chiếm Sài gòn (Gia
Định) và các tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Sài Gòn thất thủ nhưng cuộc kháng
chiến được tổ chức tiếp tục xung quanh các vùng đất bị chiếm đóng, tạo
vòng vây phong tỏa tiếp viện. Binh lính Pháp có thể chết đói tại đây nếu
giám mục Lơphevơrơ (Lefèvre, đã từng bị triều đình Huế hai lần kết án
tử hình, nhờ có chiến hạm Pháp gây áp lực nên thoát - NV) không kịp thời
vận động giáo dân tiếp viện.
(…)
Trong
việc tổ chức cai trị các vùng chiếm đóng, quân Pháp chiêu mộ người hợp
tác, nhưng theo lời phó đô đốc Rơnê (Rieuneir), chúng chỉ gặp được “tín
đồ Kitô hoặc những tên vô lại”. Bốn ngàn giáo dân đến quây quần xung
quanh bọn xâm lược. Thật dễ đoán biết sự tức giận, phẫn nộ không những
của triều đình Huế mà cả trong dân chúng người lương nổi lên cao độ
chừng nào. Các sắc chỉ cấm đạo công bố giữa năm 1859 và 1861 là gay gắt
và nghiêm khắc nhất từ trước tới nay.
Sắc
chỉ 17-1-1860 truyền phân tán người Công giáo tới sống xen giữa các
làng người lương, để mỗi tín đồ phải có 5 đồng bào lương kiểm soát. Tất
cả các làng và nơi thờ tự của Công giáo phải triệt hạ. Tài sản của người
Công giáo phải bị tịch thu và sau hết phải khắc chữ Tà Đạo lên má các
tín đồ.
Sau
hòa ước 1862, Tự Đức công bố ân xá cả nước… lệnh tha tất cả các tín hữu
Kitô đang bị tù, cho những người bị phân tán trước đó được trờ về làng
cũ, được nhận lại tài sản của họ, nhà cửa, ruộng đất, còn được miễn thuế
và được sống yên thân.
Tại
Nam Kỳ, trừ tín hữu Kitô và những tên xu thời, nhân dân các vùng bị
chiếm đóng đều tổ chức kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của
những nhà chí sĩ yêu nước…
(…)
Và bởi xác định rằng người Công giáo đồng lõa với bọn xâm lược, họ
(những người kháng chiến - NV) cũng coi luôn tín đồ là kẻ thù của mình.
(…)
(…)
Theo tài liệu của chính quyền Nam Kỳ, mỗi lần quân đội Việt Nam thất
bại thì dân chúng người lương lại thêm căm thù dân Công giáo: “nhiều
cuộc tàn sát, đốt làng đã theo sau vụ Nam Định bị quân Pháp chiếm đánh
ngày 9-12-1873, tại các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội, những cảnh đó
trở nên rất tàn bạo…”
Chẳng
cần nhấn mạnh liên hệ nhân quả ở đây, tài liệu nói trên kể thêm rằng:
“Cơn bắt đạo xảy ra sau sự rút lui của chúng tôi khỏi Bắc Kỳ đã không
hoành hành trong các địa phận thuộc dòng Đaminh Tây Ban Nha cai quản.
Các thừa sai của họ vẫn được tự do tương đối và đã được đối xử khoan
hồng. Giám mục Côlôme (Colomet) đã được vua Tự Đức cho cấp đất xây nhà
thờ và nhiều huân chương, vàng bạc tưởng thưởng họ, vì đã đóng góp tốt
cho việc giữ gìn trị an trong các tỉnh mạn đông sông Cái (tức sông
Hồng)”
(…)
(…)
Nhằm bình định cứ điểm này (chỉ căn cứ Ba Đình của cuộc khởi nghĩa do
Đinh Công Tráng lãnh đạo - NV), quân Pháp đã gửi tới một lực lượng gồm
2250 tên tính, 25 đại bác, 4 pháo hạm, dưới quyền chỉ huy của trung tá
Mátsanhgie (Matsinger). Cuộc tiến công ngày 18-12-1886 bị đẩy lùi. Quân
Pháp phải tổ chức bao vây để tìm hiểu chiến thuật mới. May cho chúng, có
một sĩ quan trẻ, đại úy Giôphơrơ (Joffoe), rồi đây sẽ là thống chế Pháp
trong chiến tranh thế giới thứ nhất, nghĩ tới việc nhờ linh mục Trần
Lục, quản xứ Phát Diệm là Phó vương, tiếp trợ cho cuộc bình định các
tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông linh mục này đã nhận phép lành
của giám mục Duydinê, rồi tiếp viện cho quân Pháp với 5000 giáo dân, và
Ba Đình thất thủ.
(…)
“Sau cuộc hành quân mệt mỏi rã rời, quân lính của ta kiệt sức vì thiếu
ăn, mà tiến vào một làng người lương thì thường chỉ được ăn đạn. Nhưng
nếu gặp được một làng người giáo thì trẻ con chạy ra đón đường và kêu ầm
lên: “Công giáo, Công giáo đây!” để quân chúng ta biết rằng chẳng có gì
phải sợ ở đó, rồi dân làng đem chuối, trứng, gà choai ra chiêu đãi. Sự
khác biệt thật rõ ràng và là điều đáng ghi nhớ chứ nhỉ?”. Những dòng đó
chẳng phải do một bàn tay Cộng sản ghi lại, mà là do tu sĩ dòng Tên đã
say sưa thích thú về thái độ của người có đạo Kitô lúc đó nghĩ rằng bổn
phận của họ phải hợp tác (với Pháp) vì mình là người Công giáo.
Cụ
Phan Bội Châu, một chí sĩ yêu nước, đã gửi cho họ những lời tâm huyết
trong cuốn “Việt Nam vong quốc sử”, xuất bản năm 1905 như sau: “Có một
hạng người mà tổ tiên là Việt Nam, nhưng đã cùng vợ con trở thành tín đồ
Kitô. Này, hãy nghe tôi nói. Chúng ta đều sinh ra trong cùng một xứ sở,
chúng ta cùng sống với nhau dưới một gầm trời, cùng ăn một thứ cơm gạo…
bởi thế, chúng ta phải liên kết với nhau hầu bảo vệ giống nòi, hơn là
quì gối trước mặt quân thù. Sau cái chết của các người, có thể các người
lên Thiên Đường, nhưng bây giờ đây các người phải cầu nguyện cho hòa
bình. Cuộc sống của các người tại ngục tù trần gian này thật là khốn khổ,
tại sao các người lại dửng dưng được? Quả thực, mặc dù là Kitô hữu, các
người thảy là người dân Việt Nam. Các người đừng đi theo quân Pháp,
đừng giúp chúng nó làm hại Tổ Quốc chúng ta. Như vậy, các người sẽ lập
được công đức trung thành với Chúa, môn đồ của đấng Kitô cứu thế đồng
thời thật là đồng bào Việt Nam”.
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét