ĐIA LINH NHÂN KIỆT 49
(ĐC sưu thầm trên NET)
Sinh thời, Trần Nhật Duật là bậc văn võ toàn tài. Như trên đã nói, ngoài
kiến thức Nho học uyên bác, Trần Nhật Duật còn hiểu biết một cách sâu
sắc về phong tục tập quán và đặc biệt là tiếng nói của nhiều dân tộc
khác nhau. Ngoài chuyện tiếp sứ giả của nhiều nước và nhiều bộ tộc chung
quanh mà không cần người thông dịch, sử cũ còn chép chuyện Trần Nhật
Duật đi dẹp loạn Trịnh Giác Mật bằng một biện pháp rất độc đáo như sau:
Một chiến dịch lớn nhưng lại được tiến hành một cách rất táo bạo và bất
ngờ, khiến cho quân Mông-Nguyên lúng túng, trở tay không kịp. Chỉ trong
vòng một thời gian rất ngắn Trần Nhật Duật đã cả phá được quân giặc ở
Hàm Tử. Lực lượng của chúng nhanh chóng bị chia cắt, bị tấn công tiêu
diệt bởi sự hợp đồng chặt chẽ của nhiều chiến dịch khác nhau. Chiến
thắng của đạo quân do Trần Nhật Duật chỉ huy có ý nghĩa vô cùng to lớn
đối với thắng lợi chung của cuộc kháng chiến lần thứ hai. Thật đúng là:
Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 1 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 1996.
Mai Thúc Loan người làng Mai Phụ, thuộc Hoan Châu. Làng Mai Phụ (tên Nôm
là Kẻ Mỏm) nguyên xưa thuộc huyện Thiên Lộc, sau là huyện Can Lộc, nay
thuộc xã Thạch Bắc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh (Thư lịch cổ Trung
Quốc luôn chép sai tên của Mai Thúc Loan, có khi chép là Mai Huyền
Thành, có khi chép là Mai Lập Thành, lại có khi chép là Mai Thúc An...
Và cũng trong thư tịch cổ của Trung Quốc, sự nghiệp của Mai Thúc Loan
luôn được thổi phồng lên mà lý do chủ yếu là bởi chính quyền đô hộ của
nhà Đường ở nước ta muốn đề cao công đánh dẹp của mình).
Truyền thuyết dân gian ở vùng huyện Thạch Hà cho hay rằng, họ Mai chính là họ của thân mẫu Mai Thúc Loan còn như thân sinh của ông họ tên gì thì chưa rõ. Mai Thúc Loan phải chịu cảnh mồ côi cha từ lúc còn rất nhỏ tuổi, gia đình ông thuộc vào hàng nghèo khó nhất vùng Kẻ Mỏm đương thời. Tài sản quý giá nhất của Mai Thúc Loan chính là sức khoẻ mà ông may mắn được trời ban cho.
Đời truyền rằng, Mai Thúc Loan người cao to, tay buông dài quá gối còn làn da thì rất đen. Ông rất giỏi võ nghệ, lại có tiếng là sáng dạ và đặc biệt là rất có... duyên! Năm Mai Thúc Loan chưa đầy 10 tuổi thì thân mẫu ông dời nhà ra định cư ở vùng rừng núi Ngọc Trừng (vùng này nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Tại đây Mai Thúc Loan đã phải làm đủ mọi việc nặng nhọc nhất để kiếm sống: vào rừng lấy củi về bán, chăn trâu, đi cày thuê cuốc mướn, ở đợ...Tuy phải sống rất cơ cực và vất vả phải chịu đựng thiếu thốn trăm bề, nhưng ông luôn luôn yêu đời. Hai mẹ con ông lúc nào cũng biết thương yêu đùm bọc và che chở cho nhau. Bấy giờ, Mai Thúc Loan lại có tiếng là người rất giàu lòng hiếu thảo nên dân trong vùng ai cũng đều quý mến gia đình Mai Thúc Loan.
Không thể tiếp tục chịu đựng mãi cảnh bị áp bức bất công được nữa, Mai
Thúc Loan đã dõng dạc kêu gọi toàn thể đoàn phu gánh quả vải đồng lòng
vùng dậy chống ách đô hộ của nhà Đường. Ngay lập tức, lời kêu gọi của
ông đã được toàn thể đoàn phu nhất tề hưởng ứng. Dân khắp cõi cũng nồng
nhiệt ủng hộ lực lượng nghĩa sĩ do Mai Thúc Loan vừa mới thành lập và
lãnh đạo. Quan quân đô hộ nhà Đường phải thực sự đối đầu với một cuộc
đấu tranh vũ trang rất mạnh mẽ.
Ngay lập tức, Mai Thúc Loan thành lập một chính quyền độc lập và tự chủ
do ông đứng đầu. Ông xưng là Mai Hắc Đế và thay vì đóng đô ở thành Tống
Bình thì Mai Hắc Đế lại quay về quê nhà và đóng đô tại thành Vạn An
(thành này nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Thành Vạn An nằm giữa
khu căn cứ Sa Nam. Khu căn cứ này từng được một số nhà nghiên cứu khảo
sát và mô tả khá chi tiết như sau: “Đấy là vùng núi rừng rậm rạp nằm
cạnh sông Lam ở khúc hiểm sâu. Ông lấy Vệ Sơn làm trung tâm, đóng đại
bản doanh của nghĩa quân. Dọc bờ sông Lam, nghĩa quân đắp một chiến lũy
dài hơn nghìn mét. Đấy là thành Vạn An nổi tiếng, có núi Đụn (Hùng Sơn)
làm chỗ dựa ; phía trong núi là dải thung lũng rộng vài chục mẫu, dùng
làm nơi trữ lương thực, vũ khí ; phía ngoài núi, có nhiều đồn trại đóng ở
cạnh sườn ; chung quanh núi, sông Lam vây bọc như con hào tự nhiên. Bao
quanh trung tâm (Vệ Sơn), nghĩa quân xây dưng một hệ thống đồn trại
nương tựa lẫn nhau: Biều Sơn (hình quả bầu) bảo vệ cánh tả, Liêu Sơn bảo
vệ mặt trước, Ngọc Đái Sơn (hình đai ngọc) cạnh thành Vạn An, là đồn
tổng chỉ huy, thống lĩnh cả hai đạo quân thuỷ bộ” (Phan Huy Lê, Trần
Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch sử Việt Nam. Tập
1.-H.: Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983.-Tr.446-447). Như vậy là
chỉ trong vòng hơn 30 năm (từ năm Lý Tự Tiên và Đinh Kiến dõng dạc cất
lời hiệu triệu bốn phương cầm vũ khí để vùng dậy khởi nghĩa cho đến năm
Mai Thúc Loan vung gươm quyết chí đại định), chính quyền đô hộ của nhà
Đường đã hai lần bị đánh đổ. Thắng lợi của Mai Thúc Loan là đòn cảnh cáo
rất nghiêm khắc đối với mưu đồ chung của chủ nghĩa bành trướng đại Hán
và là một dự báo rất tốt đẹp cho khả năng giành được trọn vẹn độc lập và
tự chủ của nhân dân ta.
Về phía quân đô hộ, Quang Sở Khách tuy đã hốt hoảng tháo chạy về Trung
Quốc nhưng tiềm lực chung của nhà Đường lại đang ở vào thời cường thịnh
nhất, vì thế Đường Huyền Tông (712-756) đã lập tức hạ chiếu sai quân đi
đàn áp Mai Thúc Loan. Tổng chỉ huy quân đội nhà Đường trong cuộc tấn
công đàn áp có quy mô rất lớn này là Dương Tư Húc (Theo Âu Dương Tu,
Tống Kỳ (Trung Quốc). Tân Đường Thư - Sách đã dẫn, thì Dương Tư
Húc vốn người họ Tô, quê ở huyện Thạch Thành, thuộc La Châu, tuy xuất
thân là hoạn quan nhưng lại chuyên nghề võ. Dưới thời Đường Huyền Tông,
Dương Tư Húc được xếp vào hàng những võ tướng có tiếng tăm nổi bật nhất)
- một trong những viên dũng tướng khét tiếng dày dạn kinh nghiệm của
triều đình Đường Huyền Tông. Viên bại tướng là Quang Sở Khách được đi
cùng với Dương Tư Húc để làm hướng đạo và cũng để có cơ hội lập công
chuộc tội. Quân số của Dương Tư Húc là 10 vạn tên gồm đủ cả bộ binh và
thuỷ binh. So với lực lượng nghĩa sĩ mới nhóm họp của Mai Thúc Loan thì
đó thực sự là một quân số áp đảo. Đó là chưa kể đến một số quan lại nhà
Đường vì phạm tội nên bị đày đến An Nam, do mong sớm được phục chức nên
bọn này đã ra sức tìm đủ mọi cách để chiêu mộ quân lính, tình nguyện
theo Dương Tư Húc đi đàn áp Mai Thúc Loan (Theo Âu Dương Tu, Tống Kỳ
(Trung Quốc). Tân Đường Thư - Sách đã dẫn, thì nhân vật Tống Chi Đễ là đại diện tiêu biểu nhất của bọn quan lại thuộc loại này).
Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 4 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.
Năm 1780 (năm 34 tuổi), trong chỗ đẩy đưa không ngờ của thế cuộc, bỗng dưng, Ngô Thì Nhậm phải mang tiếng xấu với đời. Chuyện này mỗi sách chép một kiểu, tuy nhiên, tổng hợp và phân tích những tài liệu tin cậy nhất, chúng ta có thể tóm lược như sau:
Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 3 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.
Trần Nhật Duật (1255 - 1330)
VietnamDefence -
"Ông là đấng thân vương quý
hiển, làm quan trải thờ bốn đời vua, ba lần lãnh chức đứng đầu các trấn
lớn. Nhà ông không ngày nào mà lại không có cuộc hát xướng. Người ta ví
ông với Quách Tử Nghi đời nhà Đường (của Trung Quốc) vậy” - Phan Huy Chú
(Lịch triều hiến chương loại chí)
“Ông là người nhã nhặn và độ lượng vui buồn chẳng hề lộ ra nét mặt, được người đương thời khen là bậc uyên bác. Những văn thư của triều đình lúc bấy giờ đều do tay ông thảo ra cả. Ông lại thông thuộc tiếng nói của các giống phiên và khi tiếp người Tống thì có thể ngồi nói chuyện cả ngày. Sứ giả từ Chiêm Thành, từ Sánh Mã Tích (tên một đảo quốc cổ ở vùng Nam Dương - NKT) hay từ các giống người man đến nước ta, ông đều có thể nói chuyện và tiếp đãi theo tục của họ. Vua Trần Nhân Tông thường nói rằng ông là hậu thân của các bộ tộc phiên di.Ông là đấng thân vương quý hiển, làm quan trải thờ bốn đời vua, ba lần lãnh chức đứng đầu các trấn lớn. Nhà ông không ngày nào mà lại không có cuộc hát xướng. Người ta ví ông với Quách Tử Nghi đời nhà Đường (của Trung Quốc) vậy”.Phan Huy Chú (Lịch triều hiến chương loại chí)
Trần Nhật Duật là Hoàng tử thứ sáu của vua Trần Thái
Tông, em cùng cha nhưng khác mẹ của vua Trần Thánh Tông và danh tướng
Trần Quang Khải. Ông sinh vào tháng 4 năm Ất Mão (1255). Thân mẫu của
ông là ai thì chưa rõ. Sử cũ chép về sự kiện ông chào đời như sau:
“Trước đó, có viên Đạo sĩ ở cung Thái Thanh, tên là Thậm, đi cầu tự cho Nhà vua. Sau khi đọc sớ xong, (Đạo sĩ) liền tâu Vua rằng:- Thượng đế đã y lời sớ tâu, sắp sai Chiêu Văn Đồng Tử giáng sinh, ở trần thế bốn kỷ (tức 48 năm - NKT).Thế rồi Hậu Cung có thai, sau quả nhiên sinh con trai, trên hai cánh tay của người con ấy có rành rành bốn chữ Chiêu Văn Đồng Tử, nét rất rõ, vì thế, Nhà vua mới cho đặt hiệu là Chiêu Văn. Lớn lên, những nét chữ ấy mới mất hẳn đi” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 5, tờ 20-b).
- Năm Đinh Mão (1267), Trần Nhật Duật được phong tước Chiêu Văn Vương.
-
Năm Nhâm Dần (1302), tức là hai năm sau khi Trần Hưng Đạo qua đời, Trần Nhật Duật được phong làm Thái uý Quốc công (Quý tộc họ Trần đồng thời được ban hai tước vị khác nhau, đó là tước vị quý tộc và tước vị triều đình. Với hệ thống tước vị quý tộc, Trần Nhật Duật được phong tới Đại Vương, nhưng với hệ thống tước vị triều đình, ông chỉ được phong tới mức cao nhất là Quốc công).
- Năm Kỷ Tỵ (1329), ông lại được gia phong là Chiêu Văn Đại Vương.
Ông mất vì bệnh vào năm Canh Ngọ (1330), hưởng thọ 75
tuổi (Năm sinh và năm mất của Trần Nhật Duật, các bộ sử cũ đều chép
giống nhau, nhưng khi tính tuổi, sử cũ lại nói ông thọ 78 tuổi. Cho dẫu
là tính theo tuổi ta thì con số 78 cũng không đúng).
Đền thờ Chiêu Văn Đại Vương Trần Nhật Duật
trên bờ sông Hồng, Phú Thọ |
“Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang (vùng Tuyên Quang ngày nay - NKT) làm phản, vua sai Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đi dụ hàng. Bấy giờ, (Trần) Nhật Duật coi giữ đạo Đà Giang, vì thế, ông liền ngầm đem thuộc hạ đến. Trịnh Giác Mật hay tin, liền sai người đến doanh trại (của Trần Nhật Duật) bày tỏ lòng thành và nói rằng:- Mật này không dám trái mệnh. Nếu ân chúa đây dám một mình một ngựa đến thì Mật xin hàng.(Trần) Nhật Duật nhận lời, chỉ đem theo năm sáu người hầu nhỏ tuổi mà thôi. Quân sĩ thấy vậy liền ngăn lại, ông nói:- Nếu chúng tráo trở với ta (rồi làm hại ta) thì ắt là triều đình sẽ cử bậc vương tước khác tới thay.Khi ông đến dinh trại (của Trịnh Giác Mật), người Man liền vây kín ông, đông đến mấy chục lớp, gươm dao đều nhất loạt chĩa thẳng về phía ông. (Trần) Nhật Duật cứ đi thẳng vào, trèo lên trại chúng. (Trịnh Gíác) Mật liền mời ông ngồi. (Trần) Nhật Duật biết tiếng nói và am hiểu tập tục của nhiều nước. Ông cùng ăn bốc và uống bằng mũi với (Trịnh Giác) Mật. Người Man thấy vậy thì thích lắm. Khi (Trần) Nhật Duật trở về, (Trịnh Giác) Mật liền đem gia thuộc tới xin hàng. Mọi người thấy thế thì vui mừng và kính phục, vì không hề mất một mũi tên mà vẫn dẹp yên được đất Đà Giang. Khi trở về kinh sư, (Trần Nhật Duật) đem (Trịnh Giác) Mật và vợ con hắn vào chầu. Vua khen ngợi ông mãi. Sau, Vua cho (Trịnh Giác) Mật về nhà, giữ vợ con hắn lại ở kinh đô. (Trần) Nhật Duật thương yêu và nuôi nấng họ hết lòng, lại còn xin triều đình ban cho họ tước Thượng phẩm, sai trông coi ao cá một thời gian mới đưa về quê nhà” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 5, tờ 40 a-b).
Sự kiện trên xẩy ra vào cuối năm 1280, tức là năm mà
Trần Nhật Duật mới 25 tuổi. Thật khó có thể tưởng tượng nổi, một chàng
trai 25 tuổi của thế kỷ XIII lại dũng cảm và tự tin, tài hoa và bản lĩnh
cao cường đến thế. Trần Nhật Duật trị dân bằng cách tự mình khiến cho
dân tin và kính phục mà vui theo chứ không bằng cách thị uy sức mạnh của
người nắm trong tay quyền lực, khiến cho dân phải khiếp sợ mà vâng lời.
Tài năng của Trần Nhật Duật trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông là người rất giỏi về âm nhạc và thường tự mình sáng tác các bản nhạc, trong đó có không ít bài có lời bằng chữ Nôm. Tuy nhiên, tài năng nổi bật nhất, cống hiến lớn nhất của Trần Nhật Duật vẫn thuộc về lĩnh vực quân sự.
Tài năng của Trần Nhật Duật trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông là người rất giỏi về âm nhạc và thường tự mình sáng tác các bản nhạc, trong đó có không ít bài có lời bằng chữ Nôm. Tuy nhiên, tài năng nổi bật nhất, cống hiến lớn nhất của Trần Nhật Duật vẫn thuộc về lĩnh vực quân sự.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Mông-Nguyên lần thứ nhất (1258), Trần Nhật Duật chỉ mới là một cậu bé 3
tuổi chưa thể có đóng góp gì. Nhưng trong cuộc kháng chiến lần thứ hai
(1285) và thứ ba (1288), Trần Nhật Duật thực sự là một vị danh tướng
kiệt xuất.
Năm 1285, Trần Nhật Duật được trao trọng trách chỉ
huy một cánh quân lớn của nhà Trần, đóng giữ ở vùng Tuyên Quang ngày
nay, đánh chặn để cản bước tiến ồ ạt của đạo quân Mông-Nguyên khổng lồ
do Thoát Hoan trực tiếp cầm đầu. Ông và tướng sĩ dưới quyền đã đánh
nhiều trận xuất sắc, gây cho giặc nhiều tổn thất lớn.
Trước sức mạnh áp đảo của quân Mông-Nguyên, để tránh
những thiệt hại không cần thiết, theo lệnh của Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn, ông đã đem lực lượng tiến vào Nam chi viện cho cánh quân của hai
cha con Trần Quốc Khang và Trần Kiện đang đóng giữ ở vùng thuộc Thanh
Hóa và Nghệ An ngày nay. Nhưng ông chưa tới nơi thì Trần Kiện đã đầu
hàng giặc. Tình hình vùng này trở nên phức tạp và nghiêm trọng hơn bao
giờ hết. Trần Nhật Duật phải tìm đủ mọi cách chống đỡ, sau nhờ có thêm
sự chi viện của cánh quân do anh ông là Trần Quang Khải chỉ huy, cục
diện chiến trường mới thay đổi dần theo chiều hướng có lợi cho ta. Đạo
quân giặc đông ngót mười vạn tên do viên tướng khét tiếng tàn bạo và
thiện chiến là Toa Đô chỉ huy đã bị sa lầy tại vùng đất này. Hoạt động
phối hợp của đạo quân Toa Đô đối với đại binh của Thoát Hoan kể như đã
bị vô hiệu hóa.
Mùa hè năm 1285, quân ta tổ chức phản công. Trong 5
chiến dịch lớn nhất của cuộc phản công chiến lược này (gồm có: chiến
dịch Tây Kết lần thứ nhất, chiến dịch Chương Dương, chiến dịch Hàm Tử,
chiến dịch Tây Kết lần thứ hai và chiến dịch Thăng Long), Trần Nhật Duật
có vinh dự được cử làm tướng chỉ huy một chiến dịch, đó là chiến dịch
Hàm Tử. Bấy giờ, ngoài lực lượng vốn có của mình, Trần Nhật Duật đã quy
tụ được không ít những người Trung Quốc lưu vong. Họ bị thất bại trong
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên nên đã chạy sang lánh
nạn ở nước ta (Công cuộc thôn tính Trung Quốc của quân Mông-Nguyên hoàn
tất vào năm 1278, tức là trước cuộc xâm lăng này 7 năm. Nhà Tống
(960-1278) đến đó là dứt). Họ kính trọng tài năng quân sự và đặc biệt là
tài thông thạo tiếng Trung Quốc của Trần Nhật Duật nên đã tình nguyện
chiến đấu dưới trướng của Trần Nhật Duật. Vua Trần Nhân Tông gọi họ là
“quân Thát của Chiêu Văn” (Thát là Thát-đát, tức giặc Nguyên. Vua Trần
sợ quân sĩ của mình nhầm họ với số người Trung Quốc trong lực lượng của
quân Nguyên để rồi có thể giết nhầm nên mới gọi như vậy). Điều này đã
khiến cho quân Mông-Nguyên rất bất ngờ. Có kẻ hốt hoảng vì nghĩ rằng đó
là đội liên quân của nhà Tống với ta.
Đại chiến Hàm Tử Quan
|
"Trần Hưng Đạo đã anh hùng,
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều”
(Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái. Đại Nam Quốc sử diễn ca).
Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba (1288), danh tướng
Trần Nhật Duật (lúc này đã 33 tuổi) lại một lần nữa, lập nhiều chiến
công xuất sắc, góp phần to lớn vào thắng lợi trọn vẹn của cả dân tộc ta.
Ông có vinh dự được chia sẻ trách nhiệm với vị tổng chỉ huy thiên tài
của quân đội ta lúc bấy giờ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, nhưng cũng
chính vì luôn ở bên cạnh nguồn sáng kì diệu này mà tên tuổi của ông có
phần bị mờ nhạt đi.
|
Sau ngày đại thắng, Trần Nhật Duật tiếp tục
làm quan và được triều đình nhà Trần tin cậy trao phó những chức vụ rất
quan trọng. Bình sinh, ông là người tài hoa nhưng xét việc rất cẩn
trọng, nghiêm nghị nhưng rất dễ gần, liêm khiết và nhân hậu khó ai sánh
kịp. Ông là cha nuôi của Hoàng Tử Trần Mạnh (người về sau lên ngôi vua,
miếu hiệu là Trần Minh Tông: 1314 - 1329).
Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 1 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 1996.
Mai Thúc Loan (? - 722) với cuộc quyết chí đại định đầu thế kỷ VIII
VietnamDefence -
"Mai Thúc Loan ở Hoan Châu /
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa / Hiệu cờ Hắc Đế mở ra / Cũng toan quét
dẹp sơn hà một phương" - Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái (Đại Nam quốc sử
diễn ca).
Bộ chính sử đầu tiên của nước ta có đề cập tới nhân vật Mai Thúc Loan (xem thêm Khởi nghĩa Mai Thúc Loan) là Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại
kỷ, quyển 5, tờ 4-b), nhưng tất cả cũng chỉ gồm vỏn vẹn chừng độ ba bốn
chục chữ và tất nhiên là số lượng những thông tin quan trọng hầu như
không có gì đáng kể. Mấy thế kỷ sau, các sử gia trong Quốc Sử Quán Triều
Nguyễn với việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Tiền
biên, quyển 4, tờ 21), đành là có cố gắng sưu tầm thêm tư liệu và ghi
chép về nhân vật Mai Thúc Loan tương đối dài hơn, song mức độ cũng chỉ
rất giản lược.
Ở Trung Quốc, từ góc độ chủ yếu là ghi nhận hoạt động
của đội ngũ quan lại trực tiếp nắm quyền đô hộ tại nước ta, một vài tác
phẩm sử học mà đặc biệt hơn cả là Tân Đường Thư (do Âu Dương
Tu và Tống Kỳ biên soạn), cũng có viết về Mai Thúc Loan. Tất nhiên là
bức chân dung Mai Thúc Loan trong sử sách của Trung Quốc luôn luôn bị
bóp méo, hành trạng của Mai Thúc Loan trở nên xa lạ với chính ông và bối
cảnh lịch sử của thời đại ông.
Tóm lại, thông tin về Mai Thúc Loan trong kho thư
tịch cổ là rất rời rạc và nghèo nàn. Mặc dù vậy, nếu cẩn trọng tổng kết
những ghi chép tản mạn trong các bộ sử cũ của ta và của Trung Quốc, đồng
thời, cố gắng đối chiếu thật tỉ mỉ với nội dung các thần tích và lời kể
của truyền thuyết dân gian (nhất là thần tích và truyền thuyết dân gian
ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh), chúng ta cũng có thể bước đầu phác hoạ
được vài nét về lý lịch cuộc đời và sự nghiệp của Mai Thúc Loan.
1. QUÊ HƯƠNG, GIA ĐÌNH VÀ THỜI ĐẠI
Đền thờ Mai Hắc Đế - Nam Đàn, Nghệ An
|
Truyền thuyết dân gian ở vùng huyện Thạch Hà cho hay rằng, họ Mai chính là họ của thân mẫu Mai Thúc Loan còn như thân sinh của ông họ tên gì thì chưa rõ. Mai Thúc Loan phải chịu cảnh mồ côi cha từ lúc còn rất nhỏ tuổi, gia đình ông thuộc vào hàng nghèo khó nhất vùng Kẻ Mỏm đương thời. Tài sản quý giá nhất của Mai Thúc Loan chính là sức khoẻ mà ông may mắn được trời ban cho.
Đời truyền rằng, Mai Thúc Loan người cao to, tay buông dài quá gối còn làn da thì rất đen. Ông rất giỏi võ nghệ, lại có tiếng là sáng dạ và đặc biệt là rất có... duyên! Năm Mai Thúc Loan chưa đầy 10 tuổi thì thân mẫu ông dời nhà ra định cư ở vùng rừng núi Ngọc Trừng (vùng này nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Tại đây Mai Thúc Loan đã phải làm đủ mọi việc nặng nhọc nhất để kiếm sống: vào rừng lấy củi về bán, chăn trâu, đi cày thuê cuốc mướn, ở đợ...Tuy phải sống rất cơ cực và vất vả phải chịu đựng thiếu thốn trăm bề, nhưng ông luôn luôn yêu đời. Hai mẹ con ông lúc nào cũng biết thương yêu đùm bọc và che chở cho nhau. Bấy giờ, Mai Thúc Loan lại có tiếng là người rất giàu lòng hiếu thảo nên dân trong vùng ai cũng đều quý mến gia đình Mai Thúc Loan.
Mai Thúc Loan lớn lên trong cảnh non sông bị chìm đắm
bởi ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường (618-907), trăm họ phải chịu đựng
không biết bao nhiêu nỗi thống khổ. Bấy giờ ở Trung Quốc, phe cánh của
Vũ Tắc Thiên (họ và tên thật là Vũ Chiếu, sinh năm 624, mất năm 705,
hưởng thọ 81 tuổi. Vũ Tắc Thiên nguyên là hoàng dậu của Đường Cao Tông
(649-683) và được Đường Cao Tông rất sủng ái, từng cùng với Đường Cao
Tông xưng là Nhị Thánh, đồng thời tham gia giải quyết những việc lớn của
triều đình. Năm 683, Đường Cao Tông qua đời, con là Lý Hiển (Đường
Trung Tông) được đưa lên nối ngôi nhưng Vũ Tắc Thiên lại nắm quyền Giám
triều. Năm 684, Vũ Tắc Thiên phế Đường Trung Tông rồi lập Lý Đán (tức
Đường Duệ Tông, em ruột của Đường Trung Tông), nhưng chẳng bao lâu sau
Đường Duệ Tông cũng bị Vũ Tắc Thiên phế bỏ. Năm 690, Vũ Chiếu chính thức
lên ngôi hoàng đế, xưng là Thánh Thần Hoàng đế, đổi quốc hiệu là nhà
Chu và dời kinh đô từ Trường An về Lạc Dương. Sử Trung Quốc gọi đó là
thời Vũ Chu (690-705)) đã bị lật đổ, hoàng đế mới của nhà Đường là Đường
Huyền Tông (712-756) (tên là Lý Long Cơ, hoàng đế thứ bảy của nhà
Đường, con thứ của Đường Duệ Tông, sinh năm 685, lên ngôi năm 712, ở
ngôi hoàng đế 44 năm (712-756), ở ngôi thượng hoàng 6 năm (756-762), mất
năm 762, hưởng thọ 77 tuổi) ra sức tìm đủ mọi cách để củng cố ngôi vị
và quyền lực của mình. Ách thống trị của nhà Đường đối với nước ta vì
thế mà càng thêm tàn bạo. Lợi dụng việc trấn trị ở nơi quá cách xa triều
đình trung ương, bọn quan lại đô hộ tự cho mình quyền được tự tung tự
tác. Nhiều thư tịch cổ của Trung Quốc cũng đã thừa nhận rằng, viên quan
nào muốn được cử đi An Nam Đô hộ phủ cũng đều phải bỏ tiền ra hối lộ, ấy
gọi là tiền gạo tiến thân (Âu Dương Tu, Tống Kỳ (Trung Quốc). Tân Đường Thư -
Sách đã dẫn). Để bù lại số tiền gạo tiến thân đã bỏ ra và quan trọng
hơn nữa, để làm giàu cho riêng mình, chúng tìm đủ cách để vơ vét. Lúc
này, Tô-Dung-Điệu tuy đã được đặt ra nhưng chế độ cống nạp vẫn
được áp dụng một cách rất phổ biến và ráo riết. Mượn danh nghĩa thu cống
phẩm cho triều đình, bọn quan lại nhà Đường ngang nhiên tước đoạt của
nhân dân ta tất cả những gì mà chúng xếp vào loại đặc sản, tất cả những
gì mà chúng cho là quý nhất, tốt nhất, đẹp nhất và lạ nhất, tất cả những
gì chúng muốn có và tất cả những gì mà chúng không muốn dân ta có. Phần
tài sản của nhân dân ta mà chúng ngang nhiên tước đoạt một cách trắng
trợn này được gọi là ngoại suất (Nhạc Sử (Trung Quốc). Thái bình Hoàn vũ ký.
Kim Lăng ấn bản.). Với xã hội đương thời, ngoại suất luôn luôn là nỗi
ám ảnh nặng nề. Điều đáng nói là hầu hết các khoản ngoại suất đều được
chính quyền đô hộ nhà Đường quy ra lụa và cứ mỗi lần quy đổi là thêm một
lần thiệt hại cho dân.
2. ĐẤT BẰNG NỔI SÓNG
2. ĐẤT BẰNG NỔI SÓNG
Năm 722, Mai Thúc Loan lại phải đi phu. Bấy giờ,
chính quyền đô hộ của nhà Đường quy định dân đinh mỗi năm phải đi phu từ
20-50 ngày. Tất nhiên, đó chỉ là quy định trên giấy tờ chứ trong thực
tế thì mọi dân đinh nghèo khổ đều phải quanh năm đi lao động không công
để phục dịch cho giai cấp thống trị. Lần này, Mai Thúc Loan phải làm phu
đi gánh quả vải (Gần đây có người đặt vấn đề nghi ngờ việc Mai Thúc
Loan đi gánh quả vải với lý do là ở vùng Nghệ An và Hà Tĩnh hầu như
không có quả vải. Chúng tôi rất đồng ý rằng vùng Nghệ An và Hà Tinh hầu
như không có quả vải, nhưng Mai Thúc Loan là người phải đi làm phu gánh
quả vải ở các địa phương khác theo lệnh bắt buộc của chính quyền đô hộ
nhà Đường chứ không phải là làm phu gánh quả vải từ Nghệ An hay Hà Tĩnh
nên việc nghi ngờ như vậy là không có căn cứ vững chắc). Đường xa, gánh
nặng, cực nhọc trăm bề, cho nên hễ nghe tới chuyện phải đi làm phu gánh
quả vải là ai cũng ngao ngán. Lời một bài hát chầu văn ở vùng Nam Đàn
(tỉnh Nghệ An) có câu:
Nhớ khi nội thuộc Đường triều.
Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai.
Sâu quả vải vì ai vạch lá.
Ngựa hồng trần kể đã héo hon.
(Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch sử Việt Nam.
Tập 1.-H.: Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983.-Tr.446)
Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai.
Sâu quả vải vì ai vạch lá.
Ngựa hồng trần kể đã héo hon.
(Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch sử Việt Nam.
Tập 1.-H.: Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983.-Tr.446)
Đền thờ và lăng mộ Vua Mai tại chân Rú Đụn
- xã Vân Diên, Nam Đàn, Nghệ An |
Địa bàn hoạt động đầu tiên cũng là địa bàn hoạt động
chủ yếu và lâu dài nhất của nghĩa quân Mai Thúc Loan chính là vùng Châu
Hoan, Châu Diễn và Châu Ái. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau ngày dựng cờ
xướng nghĩa, theo ghi chép của các thư tịch cổ Trung Quốc thì Mai Thúc
Loan đã nhanh chóng liên kết và tập hợp được dân chúng của 32 châu (Theo
chúng tôi, con số 32 châu ở đây rất đáng ngờ, có lẽ là do bọn quan quân
nhà Đường đi đàn áp Mai Thúc Loan vì muốn được định công to và được ban
thưởng lớn nên đã nói phao lên như thế). Hơn thế nữa, cũng theo ghi
chép của các thư tịch cổ Trung Quốc thì Mai Thúc Loan còn nhận được sự
hưởng ứng mãnh liệt của nhân dân một số nước chung quanh. Sử cũ chép
rằng, Mai Thúc Loan đã “liên kết với dân các nước Lâm Ấp, Chân Lạp và
Kim Lân, giữ vững Nam Hải, quân số lên đến 40 vạn người” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 4, tờ 21). Các tác giả của Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại
kỷ, quyển 5, tờ 4-b) không chép gì về nước Kim Lân. Xin chú thích thêm:
Lâm Ấp về sau là một phần của Chiêm Thành, còn Chân Lạp lúc bấy giờ có
lãnh thổ đại để tương ứng với vùng Nam bộ của nước ta cộng với Campuchia
và một phần Đông Bắc của Thái Lan ngày nay. Kim Lân còn có tên khác là
Kim Trần tức là Malaysia. Quân số của Mai Thúc Loan không thể đông tới
40 vạn. Một lần nữa đây là cách thổi phồng của quan quân nhà Đường, cốt
để mong được định công to và ban thưởng lớn).
Nhờ có lực lượng khá đông đảo lại còn được nhân dân các địa phương đồng lòng ủng hộ. từ quê nhà là đất Nghệ An, Mai Thúc Loan đã cho đại quân rầm rộ tiến thẳng ra Bắc mà mục tiêu quan trọng hàng đầu chính là thành Tống Bình (vùng Hà Nội ngày nay). Quân Mai Thúc Loan tiến đến đâu là chính quyền của giặc tan rã tới đó. Viên quan đứng đầu cơ quan đô hộ của nhà Đường ở An Nam Đô hộ phủ lúc bấy giờ là Quang Sở Khách (Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại kỷ, quyển 5, tờ 4- b) chép nhầm thành Nguyên Sở Khách, có lẽ là bởi trong Hán tự, mặt chữ Nguyên và mặt chữ Quang gần giống nhau nên rất dễ nhầm. Quang Sở Khách người Giang Lăng (Trung Quốc), sang nhận chức An Nam Đô hộ phủ vào đầu năm 714 (năm Khai Nguyên thứ hai, đời Đường Huyền Tông: 712-756)) vì khiếp đảm trước những cuộc tấn công ồ ạt của nghĩa quân Mai Thúc Loan nên đã nhanh chân tháo chạy về Trung Quốc.
Nhờ có lực lượng khá đông đảo lại còn được nhân dân các địa phương đồng lòng ủng hộ. từ quê nhà là đất Nghệ An, Mai Thúc Loan đã cho đại quân rầm rộ tiến thẳng ra Bắc mà mục tiêu quan trọng hàng đầu chính là thành Tống Bình (vùng Hà Nội ngày nay). Quân Mai Thúc Loan tiến đến đâu là chính quyền của giặc tan rã tới đó. Viên quan đứng đầu cơ quan đô hộ của nhà Đường ở An Nam Đô hộ phủ lúc bấy giờ là Quang Sở Khách (Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại kỷ, quyển 5, tờ 4- b) chép nhầm thành Nguyên Sở Khách, có lẽ là bởi trong Hán tự, mặt chữ Nguyên và mặt chữ Quang gần giống nhau nên rất dễ nhầm. Quang Sở Khách người Giang Lăng (Trung Quốc), sang nhận chức An Nam Đô hộ phủ vào đầu năm 714 (năm Khai Nguyên thứ hai, đời Đường Huyền Tông: 712-756)) vì khiếp đảm trước những cuộc tấn công ồ ạt của nghĩa quân Mai Thúc Loan nên đã nhanh chân tháo chạy về Trung Quốc.
Lăng Mai Hắc Đế
|
Tuy nhiên, bình đẳng như mọi nhân vật lịch sử khác,
Mai Thúc Loan cũng có những hạn chế tất yếu của ông. Xem cách Mai Thúc
Loan chọn đất đóng đô và đặc biệt là cách bố phòng chung quanh thành Vạn
An, điều mà bất cứ ai cũng đều có thể dễ dàng nhận ra là tư tưởng phòng
ngự đã xuất hiện quá sớm và đã chi phối khá mạnh đối với suy nghĩ cũng
như hành động của ông. Khi mà bọn quan quân đô hộ chỉ mới tháo chạy chứ
chưa hoàn toàn bị tiêu diệt, việc trấn áp tay chân của phong kiến phương
Bắc tiến hành chưa triệt để và chính quyền mới chưa được xây dựng một
cách chắc chắn và hoàn chỉnh thì việc lui về phòng thủ tại thành Vạn An
ngay trong năm 722 quả là một quyết định vội vàng và điều này đã bị kẻ
thù nhanh chóng phát hiện rồi tìm cách lợi dụng.
3. NGHĨA KHÍ VĨNH TỒN VỚI NÚI SÔNG
3. NGHĨA KHÍ VĨNH TỒN VỚI NÚI SÔNG
Lăng mộ Vua Mai
|
Quân nhà Đường đã men theo lối xưa của Mã Viện để
tiến, tức là từ phía Nam của Khâm Châu (Trung Quốc), vượt qua biển vịnh
Hạ Long mà tràn vào An Nam. Nhân lúc nhuệ khí đang hăng, Dương Tư Húc và
Quang Sở Khách đã hạ lệnh cho quân sĩ tấn công cấp tập vào lực lượng
của Mai Thúc Loan ở vùng duyên hải Đông Bắc rồi ồ ạt đánh vào vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Nghĩa quân Mai Thúc Loan tuy đã chiến đấu rất anh dũng
nhưng do thiếu kinh nghiệm trận mạc và trang bị lại quá thô sơ nên đã
liên tiếp bị thất bại, Mai Thúc Loan liền lui quân về cố thủ tại khu vực
thành Vạn An.
Từ khu vực đồng bằng Bắc Bộ, Dương Tư Húc lập tức cho
quân tiến vào Nghệ An, chặn đứng mọi ngả đường liên lạc với thành Vạn
An, đồng thời, vạch kế hoạch cho trận đánh có ý nghĩa quyết định thắng
bại cuối cùng. Đúng lúc tình hình đang diễn tiến theo chiều hướng hết
sức bất lợi cho nghĩa quân thì Mai Thúc Loan lại lâm bệnh mà qua đời
(Tất cả thư tịch cổ của ta đều nói Mai Thúc Loan mất năm 722 mà không
nói rõ là mất vì lý do gì, nhưng truyền thuyết dân gian vùng Nam Đàn
(Nghệ An) thì nói Mai Thúc Loan mất vì bệnh. Sau khi ông mất, con trai
ông lên nôi ngôi, đó là Mai Thiếu Đế. Hiện nay, ở Hùng Sơn (núi Đụn),
còn có hai ngôi mộ được xác định là mộ của Mai Hắc Đế (tức Mai Thúc
Loan) và mộ của Mai Thiếu Đế). Tổn thất nghiêm trọng đó đã khiến cho
không ít nghĩa sĩ phải tìm đường tạm lánh để chờ thời. Chớp lấy cơ hội
đó, Dương Tư Húc đã cho đại quân xông vào thành Vạn An và toàn bộ khu
căn cứ của nghĩa quân ở vùng Sa Nam. Một cuộc đàn áp đẫm máu chưa từng
thấy đã diễn ra. Hàng ngàn nghĩa sĩ và nhân dân địa phương đã bị giặc
giết hại, tất cả được chôn chung vào một ngôi mộ tập thể rất lớn được
gọi là Kình Quán.
|
||
|
||
|
Cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ tàn bạo của
nhà Đường do Mai Thúc Loan phát động và lãnh đạo tuy đã nhanh chóng bị
thất bại nhưng ý chí quật cường và tấm gương dám xả thân cứu nước của
tất cả nghĩa sĩ tập hợp dưới ngọn cờ của Mai Thúc Loan thì mãi mãi ngời
sáng trong sử sách. Trong tâm khảm bất diệt của các thế hệ nhân dân ta,
Mai Thúc Loan là niềm kiêu hãnh rất lớn lao, là một trong những đỉnh cao
chói lọi của chủ nghĩa yêu nước. Trải hơn ngàn năm, ngôi mộ và đền thờ
Mai Thúc Loan vẫn còn đó, tên ông vẫn vĩnh tồn với Hùng Sơn, Vệ Sơn,
Ngọc Đái Sơn, Biều Sơn, Liêu Sơn... với thành Vạn An, với sông Lam và
với muôn đời đất nước này.
Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ (1725-1780) từng có lời rằng:
"Đang khi bị nội thuộc, Mai Hắc Đế vì không chịu nổi sự kiềm thúc của
bọn quan lại tàn ác nên đã vùng lên, quả đúng là bậc xuất chúng trong
đám thổ hào vậy”. Ngô Thì Sĩ đã không chính xác khi xếp Mai Thúc Loan
vào hàng “thổ hào”, nhưng ông cũng đã hoàn toàn đúng khi đánh giá Mai
Thúc Loan là "bậc xuất chúng”. Tuy xuất thân là hàng cố cùng của xã hội,
tuy chưa một lần được huấn luyện về binh pháp và về những nguyên tắc
cầm quân, nhưng, lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc cộng
với niềm tin mãnh liệt vào toàn thể những người cùng cảnh ngộ bị áp bức
đoạ đày như mình, Mai Thúc Loan đã khiến cho cả đương thời lẫn hậu thế
cảm phục về tài tập hợp, tổ chức và chỉ huy nghĩa sĩ của ông. Mai Thúc
Loan là biểu hiện sinh động của nghệ thuật bố trí những trận đánh rất
bất ngờ vào lực lượng của đối phương.
Quang Sở Khách được triều đình nhà Đường và Đường
Huyền Tông xếp vào hàng những viên tướng giàu tài năng nên mới tin cậy
uỷ thác việc trấn trị tại An Nam Đô hộ phủ. Trước khi phát động khởi
nghĩa, Mai Thúc Loan chỉ là một dân phu rất bình thường chứ chưa bao giờ
là tướng trực tiếp cầm quân cả, nhưng đã đánh cho chính viên tướng được
triều đình phong kiến Trung Quốc xếp vào hàng giàu tài năng - hơn thế
nữa, còn là kẻ đang có thành cao, hào sâu, quân đông và trang bị đầy đủ -
rốt cuộc cũng phải hốt hoảng bỏ chạy thì rõ ràng là Mai Thúc Loan rất
xứng đáng được đời công bằng và trân trọng coi là một trong những bậc
danh tướng.
Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 4 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.
Ngô Thì Nhậm (1746 - 1802)
VietnamDefence -
“Ngọc tốt giấu kín nơi sâu, /
Rồng thần lặn không kẻ thấy. / Chờ khi người biết đến mình, / Chí lớn nọ
đem ra vùng vẫy. / Giúp tám cực mà chuyển xoay, / Vỗ chín cõi yên rường
mối” - Ngô Thì Nhậm (Mộng Thiên Thai phú. Lời dịch của Ngô Linh Ngọc.
Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập 2.-H.: KHXH, Hà Nội, 1978.-Tr.41)
Ngô Thì Nhậm sinh
ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần (1746) tại làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh
Oai, nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì (Hà
Nội). Ông là con trai của Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ (1725-1780).
TIỂU DẪN |
Cơn
bão quật khởi của phong trào Tây Sơn đã thực sự tạo nên sức mạnh rung
trời chuyển đất. Sức mạnh vĩ đại đó đã cuốn hút sự tham gia của hàng
chục vạn nông dân khắp cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Sức mạnh vĩ đại đó
đã lần lượt đè bẹp tất cả thù trong lẫn giặc ngoài, làm rạng rỡ truyền
thống ngoan cường và bất khuất của tổ tiên ta. Và cũng chính sức mạnh vĩ
đại đó đã có tác dụng phân hóa sâu sắc đối với đội ngũ giai cấp phong
kiến thống trị đương thời. Không ít sĩ phu yêu nước và thức thời đã hiên
ngang đứng hẳn về phía Tây Sơn, có nhiều cống hiến lớn lao đối với Tây
Sơn, cũng là cống hiến lớn lao cho lịch sử dân tộc. Tuy đến với Tây Sơn
sớm muộn có khác nhau và tuy mức độ cống hiến cũng không đồng nhất,
nhưng, hình ảnh của tất cả những sĩ phu yêu nước và thức thời ấy đều
được sử sách ghi lại một cách rất trân trọng. Ba gương mặt tiêu biểu của
những sĩ phu yêu nước và thức thời này là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Nguyễn Thiếp.
Ba nhân vật đặc biệt này tuy chưa bao giờ trực tiếp cầm quân xông pha
trận mạc, nhưng, với tầm nhìn và phép ứng xử tuyệt vời của mình, họ đã
có ảnh hưởng rất quan trọng đối với hoạt động và thắng lợi chung của
phong trào Tây Sơn.
|
Thuở thiếu thời, Ngô Thì Nhậm được ông nội là Ngô
Trân nuôi dạy. Khi ông nội qua đời, Ngô Thì Nhậm được cha là Ngô Thì Sĩ
trực tiếp kèm cặp. Vốn hiếu học lại thông minh, Ngô Thì Nhậm tiến tới
rất nhanh. Năm mới 16 tuổi, được cha tận tình dìu dắt, Ngô Thì Nhậm đã
hoàn tất tác phẩm đầu đời của mình là Nhị thập tứ sử toát yếu (Sách
này nay đã thất truyền). Năm 1765 (năm 19 tuổi), Ngô Thì Nhậm đỗ Giải
Nguyên (đỗ đầu ở trường thi Hương) và năm sau (năm 1766, năm tròn 20
tuổi), Ngô Thì Nhậm đã hoàn tất cuốn sách thứ hai của ông: Tứ gia thuyết phả (Sách
này nay đã thất truyền). Trong đội ngũ các bậc danh nho thuở trước, đỗ
đạt sớm như Ngô Thì Nhậm vốn dĩ đã rất ít, để chí lập ngôn sớm như Ngô
Thì Nhậm lại càng ít hơn.
Năm 1769 (năm 23 tuổi), Ngô Thì Nhậm đỗ trong khoa Sĩ
vọng, nhờ đó, được bổ làm Hiến sát sứ ở Hải Dương, hưởng chức hàm Chánh
thất phẩm (Quan lại xưa được chia làm 9 phẩm cấp, mỗi phẩm cấp lại còn
được chia làm 2 bậc cao thấp khác nhau là Chánh và Tòng, cộng là 18 bậc.
Như vậy, Ngô Thì Nhậm thuộc bậc 13/18). Ông chính thức bước vào hoạn lộ
kể từ đó. Năm 1771 (năm 25 tuổi), do cha là Ngô Thì Sĩ bị Hoàng Ngũ
Phúc vu oan và bị Chúa Trịnh Sâm (1767-1782) cách chức, Ngô Thì Nhậm xin
từ quan để trở về quê. Năm 1772 (năm 26 tuổi), Ngô Thì Nhậm dự kỳ khảo
thí ở Quốc Tử Giám và đỗ hạng ưu. Cũng vào năm này, ông hoàn tất cuốn Hải Đông chí lược. Trong Lịch triều hiến chương loại chí,
Phan Huy Chú (1782-1840) cho hay, sách này gồm 4 quyển, “chép về núi
sông, phong tục và nhân vật cùng các lệ thuế và số đinh suất của xứ Hải
Dương khá rõ ràng” (Văn tịch chí (Loại truyện kí)). Năm 1775
(năm 29 tuổi), Ngô Thì Nhậm đỗ Tiến sĩ (Khoa này chỉ lấy đỗ cao nhất là
Tiến sĩ, tổng cộng có 18 người đỗ, Ngô Thì Nhậm đỗ thứ năm. Em rể của
ông là Phan Huy Ích (1751-1822) cũng đỗ trong khoa này) và sau đó được
bổ làm Hộ khoa Cấp sự trung. Năm 1776 (năm tròn 30 tuổi), ông được thăng
làm Giám sát Ngự sử rồi Đốc đồng Kinh Bắc (vùng tương ứng với Bắc Ninh
và Bắc Giang ngày nay). Năm 1778 (năm 32 tuổi), ông được kiêm luôn cả
Đốc đồng Thái Nguyên. Bấy giờ, Ngô Thì Sĩ cũng đang làm Đốc đồng Lạng
Sơn, thật đúng là:
"Nhất gia binh tượng liên tam trấn,
Vạn lý phong cương khống nhị thùy"
(Ngô Thì Nhậm. Hạ tôn thiều phó hùng trấn
(tức Mừng cha đi trấn giữ ở trấn quan trọng)).
Vạn lý phong cương khống nhị thùy"
(Ngô Thì Nhậm. Hạ tôn thiều phó hùng trấn
(tức Mừng cha đi trấn giữ ở trấn quan trọng)).
Nghĩa là:
"Một nhà chỉ huy cả ba trấn
Muôn dặm trông coi bờ cõi hai biên thùy"
Muôn dặm trông coi bờ cõi hai biên thùy"
Cũng trong thời gian làm Đốc đồng Kinh Bắc kiêm Đốc đồng Thái Nguyên, Ngô Thì Nhậm đã viết Thánh triều hội giám (Sách này nay đã thất truyền).
Ngô Thì Nhậm |
Năm 1780 (năm 34 tuổi), trong chỗ đẩy đưa không ngờ của thế cuộc, bỗng dưng, Ngô Thì Nhậm phải mang tiếng xấu với đời. Chuyện này mỗi sách chép một kiểu, tuy nhiên, tổng hợp và phân tích những tài liệu tin cậy nhất, chúng ta có thể tóm lược như sau:
Trước đó, chúa Trịnh Sâm đã lập con trưởng là Trịnh Khải (tức Trịnh Tông (mẹ người họ Dương, sinh năm 1763, sau làm Chúa 4 năm (1782-1786)) làm Thế tử, nhưng rồi đến tháng 9 năm 1780, do quá si mê với Tuyên phi Đặng Thị Huệ (tức Bà Chúa Chè vì bà vốn người làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, mà làng này lại có tục danh là làng Chè), Trịnh Sâm đã truất ngôi Thế tử của Trịnh Khải và lập con trai thứ do Đặng Thị Huệ sinh hạ là Trịnh Cán (lúc này còn rất nhỏ) lên thay.
Trịnh Khải tức giận, liền cùng với quan giữ chức Trấn thủ ở Sơn Tây là Nguyễn Khản và quan giữ chức Trấn thủ ở Kinh Bắc là Nguyễn Khắc Tuân (con nuôi của Nguyễn Phương Đĩnh, xuất thân võ quan, trước đó từng có mối quan hệ khá thân mật với Trịnh Khải), bàn mưu chuẩn bị lực lượng để chờ khi Trịnh Sâm qua đời (Lúc này, Trịnh Sâm đang lâm bệnh nặng) là giết Quận Huy (tức Huy Quận công Hoàng Đình Bảo, còn có tên khác là Hoàng Tố Lý. Ông người làng Phụng Công, huyện Yên Dũng, nay thuộc tỉnh Bắc Giang. Quận Huy là cháu của Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc, xuất thân là quan võ. Lúc này, Quận Huy và Đặng Thị Huệ có mối quan hệ rất gắn bó với nhau. Sau Quận Huy bị kiêu binh giết chết), bắt Đặng Thị Huệ và Trịnh Cán rồi giành lấy ngôi chúa cho Trịnh Khải.
Biết chuyện, Ngô Thì Nhậm đã có lời can ngăn, nhưng, việc chưa đâu vào đâu thì Ngô Thì Sĩ qua đời, ông phải về nhà chịu tang cha. Và cũng đúng lúc ấy, cơ mưu của Trịnh Khải bị bại lộ, Trịnh Sâm hạ lệnh bắt giam Trịnh Khải, đồng thời, xử tội rất nặng một loạt đại thần: giết chết Đàm Xuân Thụ (hiện chưa rõ lai lịch, chỉ biết đó là người rất được Trịnh Khải tin cậy), bắt giam Nguyễn Khản, Nguyễn Khắc Tuân, Nguyễn Phương Đĩnh (cha nuôi của Nguyễn Khắc Tuân, Trấn thủ Kinh Bắc. Lúc này, Nguyễn Phương Đĩnh được chúa Trịnh là Trịnh Sâm giao việc nuôi dạy Trịnh Khải) và Chu Xuân Hán (hoạn quan, người huyện Chương Đức, nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Sau Trịnh Sâm cho là Nguyễn Phương Đĩnh nuôi dạy Trịnh Khải mà không làm được công trạng gì, bèn lột hết chức tước rồi đuổi về quê (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 45, tờ 22 ). Trong ngục tối, Nguyễn Khắc Tuân và Chu Xuân Hán đã vì uất ức mà uống thuốc độc tự tử (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 45, tờ 22 ), riêng Nguyễn Khản thì khi Trịnh Khải lên ngôi Chúa liền được tha và đến tháng 7 năm 1783 lại được thăng làm Lại bộ Thượng thư, quyền Tham tụng.
Bấy giờ, Huy Quận công Hoàng Đình Bảo vốn có tư thù với Ngô Thì Nhậm, bèn tìm mọi cách để xin cho Ngô Thì Nhậm được làm Công bộ Hữu Thị lang, tạo cớ cho thiên hạ phao tin rằng Ngô Thì Nhậm là “sát tứ phụ nhi Thị lang” nghĩa là giết bốn người cha để làm Thị lang (4 người cha đó, có sách nói là Trịnh Khải (quân phụ), Ngô Thì Sĩ (thân phụ), Nguyễn Khắc Tuân và Chu Xuân Hán (phụ chấp: bạn của cha). Tuy nhiên, cũng có sách nói là Ngô Thì Sĩ (thân phụ), Nguyễn Khản, Nguyễn Khắc Tuân và Chu Xuân Hán (phụ chấp)). Ngô Thì Nhậm biết là sự chẳng lành sẽ đến nên cố từ chối, nhưng gia đình lại có người bàn rằng, cần phải mềm dẻo mới mong tránh được những sự thù oán tiếp theo, vì thế, Ngô Thì Nhậm buộc phải nhận chức, nhưng lấy cớ là đang chịu tang cha cho nên không dâng biểu tạ ơn (Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ nhất).
Sự kiện trên xảy ra vào năm 1780, năm Canh Tý, vì thế, sử thường gọi đó là vụ án năm Canh Tý.
Trong vụ án này, Ngô Thì Nhậm là người vô tội. Lúc đầu, ông có ý định
can ngăn đối với những người ủng hộ mưu đồ của Trịnh Khải, nhưng, việc
chưa tiến hành thì ông đã phải về chịu tang cha. Việc Ngô Thì Sĩ qua đời
lúc ấy chỉ hoàn toàn là tình cờ, không phải là bởi uất ức vì chuyện Ngô
Thì Nhậm phát giác mưu mô của những người ủng hộ Trịnh Khải (trong đó
có mình) như một vài tài liệu đã viết.
Năm 1782 (năm 36 tuổi), do những biến cố dồn dập
trong Phủ Chúa, Ngô Thì Nhậm phải về quê vợ ở một thời gian khá dài. Năm
đó, Trịnh Sâm qua đời, chưa được bao lâu thì kiêu binh nổi lên, phế
Trịnh Cán (con thứ của Trịnh Sâm do bà Đặng Thị Huệ sinh hạ. Tháng 10
năm 1781, Trịnh Cán được lập làm Thế tử và tháng 9 năm 1782 thì được lập
làm Chúa. Tháng 10 năm 1782, Trịnh Cán bị phế truất và mất vào cuối năm
1782 vì bệnh), giết Huy Quận công và tôn lập Trịnh Khải lên ngôi Chúa.
Ngay khi vừa được tôn lên ngôi Chúa, Trịnh Khải đã tìm đủ mọi cách để
báo ân báo oán. Nhân cơ hội đó, có kẻ đề nghị Trịnh Khải bắt Ngô Thì
Nhậm nhưng Trịnh Khải không trả lời. Ngô Thì Nhậm thấy thật khó mà được
bình an, bèn trốn về quê vợ (ở Vũ Thư, Thái Bình) như đã nói ở trên.
Năm 1786 (năm 40 tuổi), Ngô Thì Nhậm được chứng kiến tận mắt biến cố lớn lao của lịch sử nước nhà: quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã tiến thẳng ra Thăng Long, tiêu diệt họ Trịnh, tôn phù nhà Lê. Chỉ với một cuộc tấn công chớp nhoáng, Nguyễn Huệ đã đập tan toàn bộ lực lượng của họ Trịnh (Trịnh Khải chạy trốn nhưng sau đó bị bắt nạp cho Tây Sơn. Dọc đường bị áp giải, Trịnh Khải đã tự tử), dựng lại cơ đồ của họ Lê vốn dĩ đã đổ nát trước đó hàng trăm năm. Chính biến cố này đã có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến nhận thức của Ngô Thì Nhậm. Ông đã âm thầm theo dõi với tất cả thiện chí của mình.
Năm 1786 (năm 40 tuổi), Ngô Thì Nhậm được chứng kiến tận mắt biến cố lớn lao của lịch sử nước nhà: quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã tiến thẳng ra Thăng Long, tiêu diệt họ Trịnh, tôn phù nhà Lê. Chỉ với một cuộc tấn công chớp nhoáng, Nguyễn Huệ đã đập tan toàn bộ lực lượng của họ Trịnh (Trịnh Khải chạy trốn nhưng sau đó bị bắt nạp cho Tây Sơn. Dọc đường bị áp giải, Trịnh Khải đã tự tử), dựng lại cơ đồ của họ Lê vốn dĩ đã đổ nát trước đó hàng trăm năm. Chính biến cố này đã có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến nhận thức của Ngô Thì Nhậm. Ông đã âm thầm theo dõi với tất cả thiện chí của mình.
Năm 1788 (năm 42
tuổi), hưởng ứng lời cầu hiền của Nguyễn Huệ, cùng với một số cựu thần
khoa bảng khác như Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch..., Ngô Thì Nhậm đã ra
nhận chức với chính quyền Tây Sơn, ông được phong làm Lại bộ Tả Thị
lang, tước Tình Phái hầu, được cùng với một trọng thần của Tây Sơn là Võ
Văn Ước trông coi mọi việc quan hệ đến quan lại của nhà Lê.
Cứ như ghi chép của sử cũ thì cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Ngô Thì Nhậm với Võ Văn Ước cũng có một giai thoại khá đặc biệt. Chuyện kể rằng, người đến sớm nhất trong ngày quan lại nhà Lê yết kiến Nguyễn Huệ là Ngô Thì Nhậm. Hôm ấy, Võ Văn Ước được Nguyễn Huệ giao trách nhiệm tổ chức đón tiếp. Thấy Ngô Thì Nhậm, Võ Văn Ước cứ tưởng là Sùng Nhượng công Lê Duy Cẩn, vì thế, vội vã mời lên ngồi ngang hàng với mình. Một lúc sau, quan lại nhà Lê lục tục kéo đến và tề tựu ở ngay dưới sân. Không còn cách nào hơn, Ngô Thì Nhậm đành đứng dậy và lặng lẽ đi ra nơi khác, bấy giờ, Võ Văn Ước mới biết rằng đó không phải là Sùng Nhượng công Lê Duy Cẩn mà là Ngô Thì Nhậm! Giận vì cho là Ngô Thì Nhậm vô lễ, lập tức, Võ Văn Ước sai người đi bắt. Ngô Thì Nhậm bèn chạy đến tìm gặp Trần Văn Kỷ nhờ giúp đỡ. Trần Văn Kỷ từng ra Thăng Long dự thi Hội (nhưng không đỗ), từng được gặp và do đó rất phục tài của Ngô Thì Nhậm. Lúc này, Trần Văn Kỷ đang được Nguyễn Huệ trọng dụng, cho nên Ngô Thì Nhậm rất tin là có thể che chở cho mình được. Gặp Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm được thông báo rằng, chính Nguyễn Huệ cũng đã biết tiếng của Ngô Thì Nhậm, tin là có thể giao cho Ngô Thì Nhậm trọng trách của chính quyền mới, vì thế, đã giao cho Trần Văn Kỷ đi tìm Ngô Thì Nhậm. Ngay lập tức, Trần Văn Kỷ dẫn Ngô Thì Nhậm vào yết kiến Nguyễn Huệ. Đó là một cuộc gặp gỡ cảm động và tương đắc giữa đấng anh hùng cái thế là Nguyễn Huệ với bậc văn tài xuất chúng là Ngô Thì Nhậm. Và Nguyễn Huệ đã phong chức ban tước cho Ngô Thì Nhậm như đã nói ở trên.
Chỉ ít ngày sau
đó, Nguyễn Huệ trở lại Phú Xuân. Để cai quản lực lượng của mình ở Bắc
Hà, đồng thời, để phòng mọi bất trắc có thể xảy ra, Nguyễn Huệ đã thành
lập một Bộ chỉ huy Tây Sơn đặt đại bản dinh ngay tại Thăng Long. Bộ chỉ
huy này do Đại Tư mã Ngô Văn Sở đứng đầu và sát cánh với Ngô Văn Sở là
một số tướng lĩnh như Phan Văn Lân, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Tuyết...
Ngoài ra, nhiều văn thần cũ của nhà Lê, trong đó có Ngô Thì Nhậm, cũng
được Nguyễn Huệ tin cậy cho tham gia vào Bộ chỉ huy. Trước khi rời Thăng
Long, Nguyễn Huệ đã ân cần dặn dò:
"(Ngô Văn) Sở, (Phan Văn) Lân là nanh vuốt của ta, (Võ Văn) Dũng và Ngôn (chưa rõ họ - NKT) là tâm phúc của ta, còn (Ngô Thì) Nhậm là bề tôi mới của ta. Ngày nay, ta giao việc quân quốc của 11 trấn Bắc Hà cho các ngươi, vì thế, các ngươi phải lo toan liệu mà làm việc. Điều gì cần bàn thì phải họp bàn với nhau, chớ có phân biệt người mới với người cũ. Lòng ta chỉ mong như vậy mà thôi" (Đại Nam chính biên liệt truyện, Sơ tập, quyển 30).
Lời ấy là lời thực sự tin cậy của Nguyễn Huệ đối với
Ngô Thì Nhậm và Ngô Thì Nhậm cũng đã hoàn toàn xứng đáng với lòng tin
cậy lớn lao ấy của Nguyễn Huệ.
Cuối năm 1788, 29 vạn quân Mãn Thanh mượn cớ có Lê
Chiêu Thống cầu cứu, đã giương ngọn cờ chính trị giả hiệu là “phù Lê
diệt Tây Sơn” để tràn sang xâm lược nước ta. Trước tình thế đó, Bộ chỉ
huy Tây Sơn đã họp để bàn kế sách đối phó. Ngô Thì Nhậm là một trong số
những thành viên tham sự cuộc họp quan trọng này. Lúc đầu, ý kiến của
các thành viên không nhất trí với nhau. Đại để có hai loại hình ý kiến
chính như sau:
1) Loại hình ý kiến thứ nhất cho rằng, họ được Nguyễn Huệ giao trách nhiệm ở lại giữ thành và giữ đất, vậy thì hễ giặc đến là phải liều chết mà đánh, không cần phải bàn luận gì nhiều. Chủ xướng loại hình ý kiến này là Đại Tư mã Ngô Văn Sở. Rõ ràng, đây là loại hình ý kiến thể hiện một tinh thần trách nhiệm rất cao, nhưng đó là thứ tinh thần trách nhiệm cứng nhắc, không tính toán đến kết quả cuối cùng sẽ ra sao.2) Loại hình ý kiến thứ hai cũng có điểm tương đồng với loại hình ý kiến thứ nhất, đó là phải quyết đánh quân xâm lăng, nhưng khác hẳn về phương thức đánh. Họ cho rằng, muốn đánh và đánh thắng quân Mãn Thanh, trước hết phải đem quân lên biên ải, kế thừa kinh nghiệm mai phục của Lê Lợi thuở trước, đánh phủ đầu bằng nhiều trận lớn nhỏ ngay khi chúng vừa đặt chân lên lãnh thổ nước ta, thì mới có thể giữ yên được bờ cõi. Chủ xướng loại hình ý kiến này là Võ Văn Dũng và Phan Văn Lân. Đây là ý kiến tỏ rõ sự hiểu biết khá sâu về truyền thống và kinh nghiệm chống xâm lăng của tổ tiên, nhưng lại cũng bộc lộ sự đánh giá chưa chính xác về tình hình cụ thể của Bắc Hà lúc bấy giờ. Gần 400 năm trước khi quân Mãn Thanh sang xâm lược nước ta, sở dĩ Lê Lợi có thể liên tiếp tổ chức nhiều trận mai phục kéo dài từ Chi Lăng đến Xương Giang là vì lúc đó, lòng dân đã hoàn toàn hướng về Lam Sơn. Đến đây, nhân tâm ly tán, và trong điều kiện đó, không một kế hoạch mai phục nào lại có thể thành công được.
Đúng lúc đó, Ngô Thì Nhậm đã nêu ra một loại hình ý
kiến khác hẳn. Ông nói với Ngô Văn Sở, cũng là nói với các tướng trong
Bộ chỉ huy quân đội Tây Sơn ở Bắc Hà rằng:
“Xưa nay, phép dụng binh chỉ thấy nói hoặc đánh hoặc giữ mà thôi. Nay quân Thanh đến đây, tiếng tăm rất lớn, đã thế bọn cam tâm làm nội ứng cho chúng ở trong nước đem phao tin đồn nhảm, khiến cho thanh thế của chúng càng trở nên to lớn thêm và cũng khiến cho lòng người sợ hãi. Quân ta giá thử có ai được sai phái đi đâu, thì vừa ra khỏi thành đã bị bắt giết. Số người Bắc Hà trong sổ quân của ta, hễ gặp dịp là bỏ trốn liền. Đem đội quân ấy đi mà đánh thì nào có khác gì xua bầy dê đi săn cọp dữ, bảo không thua thế nào được? Đến như việc đóng chặt cửa thành để cố thủ, thì khi lòng người đã không vững, chắc chắn thế nào cũng sẽ sinh ra mối lo ở bên trong. Đến lúc đó, dẫu cho Tôn, Ngô (chỉ Tôn Tử và Ngô Khởi, hai nhà binh pháp nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại - NKT) có sống lại cũng đành phải chịu bó tay, không làm gì hơn được nữa. Việc này chẳng khác gì đem chạch bỏ vào giỏ cua, xin hãy nghĩ kĩ lại. Nay đánh cũng chẳng được, giữ cũng không xong, vậy thì cả đánh lẫn giữ đều không phải là kế hay, rốt cuộc có lẽ chỉ còn một cách, đó là nhanh chóng sai thủy quân chở lương thực, giương buồm thuận gió mà ra biển rồi tiến vào cửa Biện Sơn (nằm giáp giới giữa Ninh Bình với Thanh Hóa ngày nay - NKT) mà đóng. Còn như bộ binh thì hãy sửa soạn khí giới mà gióng trống lên đường, lui về giữ miền Tam Điệp (cũng nằm giáp giới giữa Ninh Bình và Thanh Hóa ngày nay - NKT). Hai mặt thủy bộ cùng liên hệ với nhau, giữ chỗ hiểm yếu rồi cho người chạy về bẩm với Chúa công (chỉ Nguyễn Huệ - NKT). Ta cứ thử xem quân Thanh đến và xếp đặt việc của nhà Lê như thế nào, vua Lê Chiêu Thống sau khi phục quốc sẽ thu xếp việc quân việc nước ra sao, chờ đến khi Chúa công ra rồi quyết chiến một phen cũng không muộn gì” (Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 13).
Ý kiến xuất sắc này của Ngô Thì Nhậm đã nhanh chóng
thuyết phục được Bộ chỉ huy Tây Sơn. Cuộc rút lui về Tam Điệp và Biện
Sơn của quân Tây Sơn cuối năm 1788 chính là bởi sự nhất trí với ý kiến
của Ngô Thì Nhậm. Ông còn nói thêm với chủ tướng là Đại Tư Mã Ngô Văn Sở
rằng:
“Tướng giỏi ngày xưa thường lường trước thế giặc rồi mới đánh, cân nhắc để nắm chắc phần thắng rồi mới hành động, nghĩa là phải tùy theo tình thế đổi thay mà bày ra chước lạ. Giống như đánh cờ, trước phải nhường người một nước rồi sau mới thắng người một nước, không được đổi vị trí nước trước ra nước sau, đó mới là tay cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà lui, không bỏ mất một mũi tên nào cả. Hãy cho giặc được ngủ trọ một đêm rồi đuổi đi, cũng như ngọc bích của nước Tấn thuở xưa sau vẫn nguyên lành chớ có mất gì (Ở Trung Quốc thời Xuân Thu, nước Tấn muốn đánh cả nước Ngu lẫn nước Quắc. Lúc đầu, Tấn hay lấy ngựa tốt và ngọc quý đem đút lót cho vua nước Ngu để mượn đường nước Ngu đi đánh Quắc. Vua nước Ngu dại dột nghe theo. Đến khi diệt được Quắc rồi, Tấn liền đem quân diệt luôn cả Ngu. Nước Ngu thua trận, bao nhiêu ngọc quý trước đó Tấn đem đút lót cho vua nước Ngu đều bị Tấn thu hồi lại). Nếu có vì thế mà mắc lỗi, tôi sẽ xin bộc bạch với Chúa công, thế nào cũng được lượng xét, xin ông chớ có nghi ngại gì” (Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 13).).
Khi đem đại quân tiến ra Tam Điệp và Biện Sơn nhằm
chuẩn bị cho trận quyết chiến với quân Mãn Thanh, phát biểu trong cuộc
gặp gỡ với các tướng lĩnh và văn thần cao cấp của mình, Quang Trung
Nguyễn Huệ khẳng định:
“Các ngươi đóng quân ở nơi trơ trọi, giặc Thanh kéo sang, người trong kinh kỳ làm nội ứng cho chúng, các ngươi làm sao mà cử động được? Các ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia quân đóng giữ nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng. Kế ấy là rất đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Ngô Thì Nhậm chủ mưu, sau hỏi (Nguyễn) Văn Tuyết thì quả đúng như vậy” (Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14).
Chưa bao giờ là võ tướng trực tiếp cầm quân xông pha
trận mạc, nhưng ý kiến của Ngô Thì Nhậm về đối sách tạm thời của quân
đội Tây Sơn quả là rất xuất sắc. Thắng lợi vang dội của Tây Sơn trong
trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa sau đó gắn chặt với công
lao khởi xướng ý kiến đúng đắn này của Ngô Thì Nhậm.
Khi đất nước đã sạch bóng quân xâm lăng, Ngô Thì Nhậm
được Quang Trung thăng làm Binh bộ Thượng thư. Đó là một sự tưởng
thưởng xứng đáng, thể hiện niềm tin cậy ngày một vững chắc và lớn lao
của Quang Trung đối với ông. Đáp lại, Ngô Thì Nhậm cũng đã không ngừng
có thêm những đóng góp to lớn cho chính quyền của Quang Trung. Tổng kết
những ghi chép tản mạn của sử cũ, chúng ta có thể khái quát các cống
hiến của Ngô Thì Nhậm từ năm 1789 (năm 43 tuổi) trở về sau như sau:
Một là, bằng tiếng nói sắc bén, thấu lý và đạt tình, Ngô Thì Nhậm đã lôi kéo được không ít trí thức khoa bảng từng phục vụ cho Vua Lê và Chúa Trịnh, trút bỏ mặc cảm để hợp tác đắc lực và rất có hiệu quả đối với guồng máy chính quyền của Quang Trung. Trong số những người được Ngô Thì Nhậm cảm hóa, giới thiệu và tiến cử, chúng ta thấy nổi bật lên những tên tuổi như: Phan Huy Ích (1751-1822) (người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Tiến sĩ năm 1775. Ông là con của Tiến sĩ Phan Huy Cận (tức Phan Huy Áng), anh của Tiến sĩ Phan Huy Ôn và là cha của nhà bác học Phan Huy Chú), Trần Bá Lãm (1758-1815) (người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm, nay là xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Nội; đỗ Chế khoa (tương đương Tiến sĩ) năm 1787), Ninh Tốn (1744-1790) (người làng Côi Trì, huyện Yên Mô, nay thuộc xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình; đỗ Tiến sĩ năm 1778), Vũ Huy Tấn (người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Ông là con của Tiến sĩ Vũ Huy Đĩnh), Đoàn Nguyễn Tuấn (người làng Hải An, huyện Quỳnh Côi (nay thuộc xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình). Ông là con của Tiến sĩ Đoàn Nguyễn Thục)... Tuy mức độ cao thấp có khác nhau, nhưng tất cả họ đều có những cống hiến rất đáng được trân trọng.Hai là, thay mặt Hoàng Đế Quang Trung, soạn thảo kế hoạch và trực tiếp chỉ huy việc thực hiện chủ trương thiết lập mối quan hệ bang giao hữu hảo với triều đình Mãn Thanh. Đây là một công việc cực kỳ khó khăn, bởi lẽ sau thất bại thảm hại ở trận Ngọc Hồi - Đống Đa, triều đình Mãn Thanh đang muốn quyết chí đánh báo thù. Nhưng, bằng tất cả sự uyển chuyển và khôn khéo, Ngô Thì Nhậm đã buộc triều đình Mãn Thanh phải từ bỏ ý định đánh báo thù, công nhận nền độc lập và tự chủ của nước ta, công nhận chính quyền do Quang Trung đứng đầu, đồng thời, từ bỏ âm mưu lợi dụng tập đoàn Lê Chiêu Thống lưu vong. Công lao của Ngô Thì Nhậm trong lĩnh vực này là vô cùng to lớn: Không phải là ngẫu nhiên, cũng không phải hoàn toàn là tán dương một cách vô lối, khi người đương thời cũng như hậu thế vẫn thường nói “Ngô Thì Nhậm là Quang Trung thời bình”. Cuối năm 1788, khi chuẩn bị cho trận đại phá quân Thanh, trong một cuộc gặp gỡ các tướng lĩnh và văn thần cao cấp tại Tam Điệp và Biện Sơn, chính Quang Trung đã khẳng định vai trò của Ngô Thì Nhậm trong cuộc đấu trí ngoại giao ác liệt này:“Nay ta thân hành cầm quân ra, phương lược tiến đánh đều đã được tính toán sẵn, chẳng qua chỉ độ mươi ngày là đã có thể đánh được người Thanh. Nhưng, chúng là nước lớn gấp 10 nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt sẽ lấy làm hổ thẹn mà dốc chí đánh báo thù, như thế thì họa binh đao sẽ chẳng bao giờ dứt, đó không phải là điều phúc cho dân, ai nỡ lòng nào mà làm được? Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới mong dập tắt được binh đao, nếu chẳng phải là Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được” (Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14).
Xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao của Quang Trung, Ngô Thì Nhậm đã hoàn thành xuất sắc việc mà Quang Trung cho là “nếu chẳng phải là Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được”. Ông là tác giả của kịch bản cho người đóng giả Quang Trung (Theo ghi chép của Đại Nam chính biên liệt truyện, Sơ tập, quyển 30, người được cử đóng giả là Quang Trung là Phạm Công Trị) sang chầu và dự lễ bát tuần khánh thọ (lễ mừng thọ 80 tuổi) của Hoàng đế Mãn Thanh Càn Long.
Ngày 16 tháng 9 năm 1792, Quang Trung đột ngột qua
đời, hưởng thọ 39 tuổi! Đó là tổn thất lớn nhất của Tây Sơn. Con của
Quang Trung là Quang Toản lên nối ngôi. Cuối năm ấy (năm 46 tuổi), Ngô
Thì Nhậm được cử làm Chánh sứ sang Mãn Thanh để vừa báo tang vừa cầu
phong cho Quang Toản. Và ông đã hoàn thành tốt đẹp chuyến đi sứ đó.
Tiếc thay, sau cái chết của Quang Trung, cuộc khủng
hoảng chính trị trong nội bộ Tây Sơn diễn ra ngày một trầm trọng khiến
cho sức mạnh ngỡ như “bất khả chiến bại” của Tây Sơn nhanh chóng bị tiêu
hao. Là nhà khoa bảng và là bậc đại thần giàu lòng “ưu thời mẫn thế,
Ngô Thì Nhậm theo dõi những biến đổi của thời cuộc với bao nỗi lo lắng
không nguôi. Trên danh nghĩa, Quang Toản vẫn trọng dụng ông, nhưng, sự
chia bè kết cánh của triều đình khiến cho ông không sao có thể tiếp tục
phát huy được tài năng của mình. Ngô Thì Nhậm dành phần nhiệt huyết còn
lại của mình cho việc cầm bút và nghiên cứu về Thiền học. Chính ông là
người đã lập ra Trúc Lâm Thiền viện tại phường Bích Câu (nay thuộc Hà Nội) và cũng chính ông là tác giả của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh.
Đương thời cũng như hậu thế có thể có những ý kiến về thiền khác hẳn
với Ngô Thì Nhậm, nhưng điều quan trọng đáng nói hơn lại là ở chỗ, giữa
nhiễu nhương của cuộc đời Ngô Thì Nhậm đã tìm cho mình một lối sống tao
nhã, không chút vướng bận đến vụ lợi và đua tranh.
Năm 1802, Nguyễn Ánh chiếm lại được toàn cõi nước ta
và chính thức khai sinh ra triều Nguyễn. Một cuộc trả thù rất tàn bạo
với tất cả những ai từng theo hoặc từng ủng hộ Tây Sơn bắt đầu. Ngô Thì
Nhậm là một trong số những người bị trả thù đó. Đầu năm Quý Hợi (1803),
Ngô Thì Nhậm cùng với Phan Huy Ích và Nguyễn Gia Phan cùng bị đem ra Văn
Miếu để đánh đòn. Riêng Ngô Thì Nhậm vì chịu không nổi đau đớn, đã mất
vào ngày 16 tháng 2 (ngày 9/3/1803), hưởng thọ 57 tuổi. Vì sao cả ba
người cùng bị đòn roi mà chỉ có một mình Ngô Thì Nhậm chết? Cắt nghĩa
điều này, đời có khá nhiều giai thoại, đại để cho rằng Ngô Thì Nhậm có
mối hiềm khích đối với bạn học là Đặng Trần Thường. Sau Đặng Trần Thường
trở thành tướng cao cấp của Nguyễn Ánh cho nên cũng là đánh roi, nhưng
roi dùng để đánh Ngô Thì Nhậm bị Đặng Trần Thường sai cột thêm móc sắt.
Giai thoại còn nói đến cuộc đối đáp giữa Ngô Thì Nhậm với Đặng Trần
Thường khi Ngô Thì Nhậm bị đem ra Văn Miếu để đánh. Nhưng, giai thoại
bao giờ cũng là... giai thoại, vì thế, xin được miễn nhắc lại ở đây.
Cuộc đời của Ngô Thì Nhậm là cuộc đời của một nhà yêu
nước tầm vóc lớn, của một bậc khoa bảng thức thời, của một cây đại bút
để lại cho đời rất nhiều tác phẩm quý, góp phần làm rạng rỡ cho văn hiến
của nước nhà. Phần lớn các tác phẩm của Ngô Thì Nhậm đã được Nhà xuất
bản Khoa học Xã hội giới thiệu trong Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm (2 quyển), năm 1978.
Thời Tự Đức (1848-1883), vì Nhà vua có họ và tên thật
là Nguyễn Phúc Thì, lại có tên khác là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, cho nên
để tránh hai chữ húy là Thì và Nhậm, Ngô Thì Nhậm bị đọc thành Ngô Thời
Nhiệm. Tên ông bị đọc khác đi nhưng ánh sáng tỏa ra từ cuộc đời và sự
nghiệp của ông thì vẫn mãi mãi không đổi. Ngàn năm, còn đó... tên ông.
Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 3 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.
Nhận xét
Đăng nhận xét