BÍ ẨN LỊCH SỬ 71
(ĐC sưu tầm trên NET)
Ông viết bức thư trên với hy vọng những thông tin ấy sẽ giúp cho Quân
chủng Phòng không - Không quân xác minh và nếu đúng thì có thể sẽ tìm ra
được tên tuổi tổ bay và đưa các anh về quê hương.
Cả đoàn công tác cùng đứng nghiêm cúi đầu mặc niệm. Ông Đức khấn cảm tạ
các liệt sĩ. Đúng lúc đó, nắm hương cắm trước 8 phần thi hài bỗng bùng
cháy... Trời Trường Sơn bừng nắng, những giọt nắng lọt qua tán cây chiếu
trên 8 bọc vải đỏ ngay ngắn trước khói hương.
Thuyền trưởng Lê Văn Một - Huyền thoại trên Biển Đông
VietnamDefence -
Trong cuốn “Thuyền trưởng tàu
không số đầu tiên trên biển Đông” Nhà xuất bản Trẻ năm 2006, nhà báo
Nguyễn Trọng Xuất có viết: “Là “dân Tây”, học trường Tây nhưng khi Việt
Nam bước vào kháng chiến, ứng xử của Lê Văn Một đậm nét văn hóa Việt,
hơn nữa là văn hóa mang đặc thù tính cách Nam Bộ: yêu nước nồng nàn, cởi
mở, dám dấn thân, lăn vào thử thách, sẵn sàng chấp nhận hy sinh để
giành chiến thắng”.
Từ con đường xuyên Tây...
Tàu không số chở vũ khí
vào miền Nam |
Lê Văn Một sinh năm 1921, thuộc dòng dõi gia tộc thủ
khoa yêu nước Nguyễn Hữu Huân đất Tiền Giang. Ông có tên Pháp là Abel
René. Abel René là con thứ 11 trong một gia đình giáo học quốc tịch
Pháp có 13 anh em. Cha là Đốc học Lê Văn Giỏi nổi tiếng đất Mỹ Tho (Tiền
Giang). Cậu bé Abel René từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, sáng dạ, chăm chỉ
học tập, được bố mẹ cho học ở nhiều trường như Trường tiểu học Mỹ Tho,
Trường Lê Bá Cang - Sài Gòn, học ở Huế rồi ra Hà Nội học ở Trường Thăng
Long.
Đến tuổi trưởng thành, Abel René vào lính thủy, làm
nghĩa vụ với mẫu quốc Pháp, là hoa tiêu trên tàu Lamotte Picquet - tuần
dương hạm lớn nhất Đông Dương.
Cách mạng Tháng Tám 1945, một bước ngoặt mới đến với
Abel René. Luồng gió mới thổi vào đời ông. Abel René bừng tỉnh: La
france ce n’est pas ma Ptrie! (Nước Pháp không phải là quốc mẫu của
tôi!). Ông cùng bạn bè tìm đường theo cách mạng kháng chiến. Abel René
đổi tên thành Lê Văn Một.
Tháng 12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Lực lượng vũ trang Nam Bộ “thuốc súng kém, chân đi không” đành phải lùi
dần về Đồng Tháp Mười và rừng U Minh, sau này trở thành hai “thánh địa”
của Nam Bộ Thành đồng Tổ quốc. Xứ ủy Nam Kỳ đã nhận định, phải có súng
mới đánh Pháp được, khí thế cao trào tầm vông, giáo mác trên vai đã qua
rồi. Ban sưu tầm vũ khí ở nước ngoài được thành lập. Lê Văn Một và 12
người nữa được đồng chí Năm Phúc (tức nhà lão thành cách mạng Dương
Quang Đông) chọn vào lực lượng vận tải vũ khí, lên đường sang Băng Cốc
(Thái Lan) bằng ghe buồm để tìm mua vũ khí và tổ chức con đường xuyên
Tây, vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ.
Lê Văn Một được giao trọng trách mang theo 25 kg
vàng, bỏ trong ruột tượng, ngày đêm cột chặt quanh mình. Số vàng này là
kỳ tích của “Tuần lễ vàng” vì lòng yêu nước của nhân dân quyên góp để
mua vũ khí.
Thời điểm này tại Thái Lan có nhiều Việt kiều sinh
sống. Tuy sống xa Tổ quốc nhưng họ luôn hướng về quê hương và sẵn sàng
phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ đã giúp đỡ anh Một lo việc mua
bán và cất giấu vũ khí. Một tìm cách tổ chức “con đường xuyên Tây” để
đưa vũ khí về nước. Đến biên giới Kô Kông, một tỉnh miền núi Campuchia,
giáp Thái Lan, có nhiều người dân Thái sinh sống, Lê Văn Một đã ở nhờ
nhà một gia đình người Thái tốt bụng - ông bà Bượn Kiểu Cachi, được ông
bà rất thương, “thương Út Một còn hơn con trong nhà. Nó xa cha mẹ, rời
quê hương lo việc nước”. Một đã đem lòng yêu mến cô con gái tuổi đôi
mươi của ông bà, cô La O Khiểu Cachi và kết hôn với người con gái Thái
vào năm 1950, sinh được 8 người con. Bà La O Khiểu Cachi hiện sống tại
TP Hồ Chí Minh.
Thế là mặc nhiên một trạm của “con đường xuyên Tây” được đặt ngay tại nhà La O Khiểu Kachi.
Trạm thứ hai đặt ở Mai Ruột, tỉnh cực Nam Thái Lan, do một người quê ở Cà Mau phụ trách.
Chuyến đầu tiên, Lê Văn Một tổ chức 10 xe bò, 10 voi
và lực lượng vận chuyển 70 người, cả người Việt và Khơme vận chuyển bằng
đường bộ qua Campuchia về nước. Voi mang 200 kg, người 50 kg, cứ men
theo chân núi Tà Lơn (Campuchia). Súng theo voi, đạn đeo lưng người.
Trải qua 16 ngày vượt núi, qua sông, địch luôn luôn ngăn đường, chặn
lối, đơn vị vừa hành quân vừa tác chiến 11 trận trên đất Campuchia.
Đầu tháng 1/1948, khi về nước, kiểm lại quân số thấy
chết và mất tích 11 người. Chuyến đi đầu tiên thắng lợi, anh em vô
cùng phấn khởi. Tuy nhiên, vận chuyển đường bộ vất vả, hiệu quả thấp.
Phải tính cách vận chuyển bằng đường biển. Sử dụng các tàu “Độc Lập”,
“Toàn Thắng”, “Sông Lô” có trọng tải lớn dần để chở vũ khí về Nam Bộ.
Vận chuyển đường biển cũng gian nan không kém. Lần thì gặp địch, lần thì
gặp sóng to, gió lớn, lúc thì bị mắc cạn, có lần bị máy bay bắn nát,
tàu địch đến bắt, mất hết... Nhiều người đã hy sinh.
Có lần đoàn vận tải Lê Văn Một - Bông Văn Dĩa gặp gió
“Lồng Chung” trên Vịnh Thái Lan, thứ gió mà người đi biển có nghề cũng
phải sợ. Đi không được cả đoàn phải ghé vào đảo Phú Quốc, ngẫu nhiên
vào đúng Bến Ngự của Vua Gia Long ngày trước. Gần một tháng nằm tại đây,
phải đào củ chuối rừng ăn cầm hơi... Cứ như vậy, suốt mấy năm liền, đi
đi, về về trên Vịnh Thái Lan, trên “con đường xuyên Tây” này, đơn vị đã
vận chuyển được hàng trăm tấn vũ khí, hàng hóa về Nam Bộ. Những chiến
công thầm lặng đó đã góp gió thành bão cho quân dân Nam Bộ thêm vũ khí
đánh Pháp và đặc biệt là tiền đề cho ý tưởng vĩ đại mở con đường Hồ Chí
Minh huyền thoại trên biển Đông, đưa vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
...Đến mở đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển
Năm 1960, phong trào cách mạng ở miền Nam phát triển
mạnh mẽ, mở đầu là phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre rồi lan rộng khắp các
tỉnh Nam Bộ. Nhu cầu vũ khí cho chiến trường miền Nam rất lớn. Con
đường Trường Sơn đang hình thành. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã
chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ chuẩn bị bến bãi và đưa thuyền ra
Bắc để nhận vũ khí, đồng thời nghiên cứu con đường vận chuyển chiến lược
trên biển để sử dụng lâu dài. Từ cuối năm 1961, đầu năm 1962, lần lượt
6 thuyền gỗ của các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Bà Rịa, Trà Vinh (trong đó
thuyền gỗ Cà Mau do Bông Văn Dĩa phụ trách) đã ra đến miền Bắc an toàn.
Con đường vận chuyển trên biển Đông khẳng định là “có thể đưa vũ khí
vào được”.
Lê Văn Một lúc đó đang tập kết ngoài Bắc, làm Cảng
trưởng cảng Cẩm Phả, được điều chuyển ngay về Đoàn 759 - Bộ Quốc phòng
(Tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân) chuẩn bị làm nhiệm vụ đặc biệt này,
nhiệm vụ mở đường đưa vũ khí từ Bắc vào Nam trên những “con tàu không
số”. Phải nói rằng Quân ủy Trung ương đã khéo chọn, khéo sắp xếp một
“cặp bài trùng”, Lê Văn Một - Thuyền trưởng, Bông Văn Dĩa - Chính trị
viên, cùng chung chuyến mở đường, cũng như họ đã từng kề vai sát cánh
trên Vịnh Thái Lan thời chống Pháp đưa vũ khí về Nam Bộ. Họ đã biết tính
nết nhau, tôn trọng nhau, đoàn kết yêu thương nhau, chèo lái “con tàu
không số” đầu tiên vượt biển Đông mở đường tiếp viện quan trọng đưa vũ
khí vào miền Nam đánh Mỹ.
Trong nhật ký của mình, Thuyền trưởng Lê Văn Một có
viết: “...Chính mình cùng đồng chí Dĩa công tác với nhau lâu nhất từ năm
1947 trong Bộ đội Hải ngoại Cửu Long. Chính đồng chí là người giới
thiệu mình vào Đảng đầu năm 1948 và mấy năm sau cùng làm chung công tác
vận tải Thái Lan về Nam Bộ, chỉ trừ thời gian hòa bình, đồng chí ở lại
trong ấy, mình tập kết ra Bắc mới xa nhau. Mặc dầu đồng chí có phần
chậm chạp, ít nói, ít lý luận, nhưng là người có lập trường tư tưởng
vững...” .
Ngày 11/10/1961, tại Bến K15, Đồ Sơn, Hải Phòng, “Bến
K15 vừa được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích quốc
gia”, con tàu gỗ Phương Đông 1 lặng lẽ nhổ neo ra khơi, hướng về phía
Nam, chở 30 tấn vũ khí, mang theo cả niềm tin, tình thương của Đảng,
của Bác Hồ, của nhân dân miền Bắc tới đồng bào miền Nam. Chuyến đi mở
đường đã thành công. Một lần nữa hai người chỉ huy Lê Văn Một - Bông Văn
Dĩa lại ghi tên mình vào trang sử vẻ vang của dân tộc. Họ đã cùng nhau
thành công trên “con đường xuyên Tây” và giờ đây, lại tiếp tục giành
thắng lợi trên con đường biển mang tên Bác Hồ kính yêu, con đường vận
tải chiến lược trên biển Đông.
“Người đi lo một, người chờ tin, lo mười”
Phó Thủ tướng Phạm Hùng ngày đó đã căn dặn 12 thành
viên con tàu gỗ Phương Đông 1 trước giờ xuất phát: “Đây là chuyến đi
đầu tiên, nên cực kỳ quan trọng, một việc hệ trọng và lâu dài, do vậy
nếu gặp địch phải khôn khéo, mưu trí, trường hợp xấu phải hủy hàng, hủy
tàu để giữ bí mật con đường, các đồng chí nên nhớ, người đi lo một,
người ở lại chờ tin, lo mười...”. Chuyến đi với bao khó khăn nguy hiểm
bởi phương tiện nhỏ bé, thô sơ, bởi sóng gió thời tiết thất thường của
biển cả và đặc biệt là sự rình rập của kẻ thù trên mỗi chặng đường.
Nhiều lúc hai đồng chí Một và Dĩa đã phải giằng co trên biển trong tình
huống đan xen: “Giông bão và địch”, phải đối phó làm sao để bảo vệ mình
và con tàu đầy ắp vũ khí.
Ông Sáu Lai, một trong hai người còn lại của tàu
Phương Đông 1, hiện sống tại Cần Thơ kể lại: “Có lần gặp tàu địch bám
theo hướng chạy của ta, chúng nã pháo dữ dội. Anh em nhanh trí xổ cả
buồm lái và mũi cho thuyền căng gió lướt trên ngọn sóng. Chỉ huy tàu
phát lệnh chiến đấu. Toàn tàu xác định, khi cần dùng tốc độ vượt lên, để
tàu địch phía sau, rồi cho nổ bom phá áp tàu giặc, dùng tiểu liên, lựu
đạn đánh địch, người lái thì cứ cho tàu chạy thoát. Nếu không thoát thì
cho nổ 3 trái bom còn lại, quyết không để tàu và vũ khí rơi vào tay
giặc. Một và Dĩa dự kiến, nếu địch bắt cả tàu thì lợi dụng trời tối cắt
dây cho anh em bơi vào bờ, còn Một và Dĩa ở lại dùng bom thủ tiêu tàu.
Một nói với Dĩa: “Nếu phải thủ tiêu để một mình tôi thôi! Anh cùng anh
em may ra còn sống sót về Trung ương báo cáo...”.
Có lúc, gặp giông bão, tàu nhỏ, chở đầy hàng rất nguy
hiểm, không vào bờ, dễ “chết ở ngoài khơi”, vào bờ dễ “làm mồi cho
giặc”, Thuyền trưởng Một và Chính trị viên Dĩa phải tính toán cân nhắc
đến mức căng thẳng.
Người đi trên biển thì như vậy, người ở nhà chờ tin
thì sao? Trung tướng Đồng Văn Cống - nguyên Cục phó Cục Tác chiến Bộ
Quốc phòng, kiêm Trưởng phòng chuyên trách công tác chi viện cho chiến
trường miền Nam, người trực tiếp theo dõi diễn biến của “con tàu không
số” đầu tiên, có kể lại: “Theo kế hoạch dự kiến đi 5 ngày thì đến. Sáng
nào đến giờ giao ban Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng hỏi: “Thế nào rồi? Có
tin tức gì không?”... Tôi sốt ruột lắc đầu, rồi ngày thứ sáu, thứ bảy,
thứ tám cũng không tin tức gì! Không biết việc gì đã xảy ra với con
tàu... Trên tàu có điện đài nhưng không liên lạc được. Điện đánh đi
không có trả lời... không biết còn sống hay đã chết rồi...
Sáng ngày 19/10/1962, tức ngày thứ chín, Quân ủy
Trung ương đang họp giao ban. Tôi bước vào. Đại tướng ngẩng đầu nhìn tôi
đăm đăm. Lần này tôi gật đầu, mặt tươi sáng. Đại tướng đứng dậy ôm chầm
lấy tôi, Đại tướng khóc. Mừng quá, không sao kể xiết...”.
Chuyến đi thắng lợi, tàu Phương Đông 1 đã cập bến Vàm
Lũng - Cà Mau an toàn sau 9 ngày lênh đênh trên biển Đông, mở đầu con
đường huyền thoại, đường “Hồ Chí Minh trên biển” với nét độc đáo, đặc
sắc, sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, với bao kỳ tích, bao
câu chuyện cảm động về lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình của người
chiến sĩ đoàn “tàu không số” và tình cảm gắn bó keo sơn với quân dân các
bến.
Một năm sau, Lê Văn Một lại được cử làm thuyền
trưởng tàu gỗ 41, đưa vũ khí vào miền Đông Nam Bộ, mở bến Lộc An (Bà Rịa
- Vũng Tàu) ngay trước đồn Phước Hải, đêm 3/10/1963. Đây là một chuyến
đi gian khổ bởi tàu bị mắc cạn ngay trước đồn địch. Lê Văn Một đã ứng
xử rất linh hoạt, thông minh, đảm bảo đưa hàng tới bến an toàn. Hai
chuyến đi này đều ghi những dấu ấn đặc biệt trong hành trình vận chuyển
vũ khí bằng đường biển của những “con tàu không số”. Đây là những
chuyến mở đường, vào bến mới, đầy khó khăn và thử thách. Bằng kinh
nghiệm đi biển, bản lĩnh dày dạn, đặc biệt là tinh thần quả cảm “Quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh”, Thuyền trưởng Lê Văn Một đã xử trí rất thông
minh nhiều tình huống phức tạp trong hiểm nguy và hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ.
Lê Văn Một mất năm 1982. Chiến công của ông đã được
ghi trong Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, được đánh giá cao trong
tập chuyên khảo mang tên “Đường Hồ Chí Minh trên biển Bà Rịa - Vũng tàu”
do Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1993. Ba năm sau ngày ông mất, Viện Bảo
tàng cách mạng Hồ Chí Minh phối hợp với gia đình tổ chức cuộc họp mặt,
đánh giá công lao đóng góp của ông trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước,
đặc biệt là thành tích đóng góp cho việc mở đường, vào những bến mới
trên con đường Hồ Chí Minh trên biển Đông. Ông được Nhà nước công nhận
liệt sĩ và truy tặng Huân chương Độc lập hạng Ba vì những đóng góp của
ông vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Năm tháng sẽ qua đi, nhưng chiến công anh hùng của
tập thể tàu Phương Đông 1 mà người chèo lái con tàu đó là Thuyền trưởng
Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa, những con người đã dũng cảm
đi tiên phong, “khai sơn phá thạch” một con đường, sẵn sàng hy sinh vì
nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở đường vận tải
chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu sẽ mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh
dũng kiên cường của dân tộc ta, trở thành huyền thoại mãi mãi không bao
giờ nhạt phai trong tâm trí chúng ta, làm rạng rỡ thêm truyền thống anh
hùng của Hải quân nhân dân Việt Nam
Nguồn: ANTG, 10.11.2008Những phi công cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân
g tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968, nhằm chi viện cho chiến trường, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân đã tổ chức một số chuyến bay tiếp tế lương thực, vũ khí vào Trị Thiên - Huế.
Từ bức thư của một cựu chiến binh
Thực hiện nhiệm vụ này đối với các tổ bay quả là rất
nguy hiểm, phải bay trong vùng kiểm soát của địch ở độ cao thấp để tránh
rađa phát hiện nên rất dễ xảy ra tai nạn như va vào núi hay gặp phải
hỏa lực phòng không, nhưng anh em các tổ bay vẫn quyết tâm thực hiện
nhiệm vụ, họ coi những chuyến bay đó như những chuyến bay cảm tử. Và
cuối cùng thì 4 chuyến bay cùng 32 chiến sĩ đã ra đi mà không trở về...
Nhưng trong lòng người thân và đồng đội họ vẫn sống.
Một ngày đầu tháng 6/2005, Quân chủng Phòng không -
Không quân nhận được một bức thư gửi đồng chí Tư lệnh. Bức thư của ông
Lại Văn Vượng ở 91 - Mê Linh, quận Lê Chân (TP Hải Phòng). Ông Vượng
nguyên là chiến sĩ Sư đoàn 324 - đã có thời gian dài tham gia chiến đấu ở
tây Thừa Thiên - Huế. Ông Vượng cho biết, trong chuyến về thăm lại
chiến trường xưa hồi tháng 5/2005 ở vùng A Lưới (một huyện miền núi của
tỉnh Thừa Thiên - Huế sát biên giới Việt - Lào) ông đã tình cờ biết được
câu chuyện về một chiếc máy bay rất có khả năng là của ta bị rơi trên
khu rừng gần xã Hồng Thượng. Theo bà con dân tộc Pa Kô kể lại thì thời
điểm máy bay rơi khoảng năm 1965-1966 gì đó, thi thể tổ bay thu lượm
được đã được một số đồng bào dân tộc chôn cất trên khu rừng đó.
Ông Vượng cũng cho biết, hiện nay tại nhà của ông
Nguyễn Xuân Toàn ở xã Hồng Thượng, huyện A Lưới còn giữ được một số hiện
vật của chiếc máy bay nói trên. Riêng mấy ngôi mộ thì mấy chục năm qua
vẫn yên vị ở chỗ cũ giữa khu rừng hoang lạnh, chẳng thấy ai đến thăm
hỏi, cũng không đoàn quy tập nào đến tìm và bốc đi.
Ông Vượng còn cẩn thận chụp một số ảnh bằng chiếc máy
tự động của mình, khi trở về ông đã làm ảnh và gửi 5 bức ảnh kèm theo
lá thư để thêm căn cứ, trong đó có bức ảnh ông Toàn đứng bên mảnh cánh
máy bay tại nhà. Ông Vượng cho rằng, rất có thể đây là máy bay của ta bị
gặp nạn trong chiến tranh mà chưa ai biết.
Tổ bay của phi công Phạm Kế trước lúc lên đường làm nhiệm vụ
|
Năm 1968, sau khi sự việc 4 tổ bay không trở về, Quân
chủng Phòng không - Không quân đã gửi công văn đi khắp các đơn vị,
tỉnh, thành đề nghị phối hợp tìm kiếm và thông báo giúp, mong tìm ra
tung tích những chiếc máy bay mất tích nhưng sự việc vẫn rơi vào im
lặng, không có hồi âm.
Việc phi công chiến đấu gặp nạn trong chiến tranh
không tìm thấy thi thể vẫn thường xảy ra, nhưng trong sự việc này thì
quá đặc biệt, trong vòng 5 ngày cả 4 chiếc máy bay mất tích gồm 32 con
người và gần chục tấn hàng mà không để lại một dấu vết gì thì quả là hy
hữu. Các đồng chí tham gia các tổ bay đã được công nhận là liệt sĩ nhưng
chẳng hề biết đích xác hy sinh ở đâu, một mẩu xương để cho người thân,
đồng đội an lòng cũng là vô vọng. Gần 40 năm nay, người thân của các
liệt sĩ vẫn sống trong niềm khắc khoải.
Sau khi nhận được bức thư trên, Quân chủng Phòng
không - Không quân đã tổ chức kiểm tra hồ sơ lưu, lần lại lịch sử và
nhận định, nếu đúng như thông tin cung cấp thì rất có khả năng đó chính
là 1 trong 4 tổ bay IL-14 mất tích vào tháng 2/1968.
Ngay sau đó, Quân chủng Phòng không - Không quân đã
thông báo và phối hợp cùng Đoàn bay 919 - là đơn vị chủ quản của tổ bay
mất tích năm 1968, nay thuộc Tổng Công ty Hàng không Việt Nam để đi vào A
Lưới xác minh sự việc. Sau hai lần đi lại, tìm đến địa điểm máy bay rơi
và khu rừng anh em đã được chôn cất cũng như làm việc với cơ quan chức
năng địa phương, ngày 11/7/2005, đoàn công tác đặc biệt của Quân chủng
Phòng không - Không quân và Đoàn bay 919 đã lên đường vào Thừa Thiên -
Huế để tiến hành tìm kiếm một số hiện vật và đưa hài cốt các liệt sĩ về
an táng. Đoàn công tác gồm có ông Lê Xuân Đức - nguyên là một phi công
cảm tử ngày ấy đã may mắn trở về; anh Lương Hữu Thuận, nguyên là kỹ
thuật viên của loại máy bay IL-14, 2 cán bộ chính sách của Đoàn 919; anh
Hùng - trợ lý chính sách của Quân chủng Phòng không - Không quân và
tôi.
* * *
Huyện đội A Lưới nằm ngay ven đường Hồ Chí Minh mới.
Nhờ sự giúp đỡ của Bộ chỉ huy quân sự huyện, chúng tôi tiếp tục xuống xã
Hồng Thượng và xã Phú Vinh nhờ giúp đỡ. Tại địa bàn, những người dân
trực tiếp tham gia mai táng tổ bay năm 1968 hầu hết đều đã mất. Theo chỉ
dẫn trong bức thư của ông Lại Văn Vượng gửi đến Quân chủng Phòng không -
Không quân, chúng tôi tìm đến nhà ông Nguyễn Xuân Toàn. Rất may, từ đây
đã tìm ra manh mối.
Đó là một gia đình dân tộc Pa Kô, dù có tham gia công
tác xã thời gian dài nhưng giọng nói của ông và những người trong gia
đình vẫn là thổ ngữ, ngọng nghịu rất khó khăn cho chúng tôi trong việc
tiếp cận và tìm hiểu sự việc. Theo Toàn nói: “Lúc đó khoảng 7 giờ tối,
tôi thấy một chiếc máy bay bay từ hướng thành phố Huế lên, một lúc sau
một tiếng nổ rất lớn vang lên trong cánh rừng, sau đó những mảnh xác máy
bay bắn tung tóe văng ra tận nơi gia đình tôi ở”.
Nhà ông Toàn khi đó sơ tán vào rừng, ở ngay gần nơi
xảy ra sự việc. Sau đó, ông cùng với một số người trong làng đã tìm đến
hiện trường thấy mảnh xác máy bay văng mỗi nơi một ít, một số vũ khí như
súng K54, AK và nhiều nhất là lựu đạn còn nguyên cả hòm. Sáng hôm sau,
mọi người bảo nhau tìm kiếm thì thấy một số bộ phận cơ thể phi công rơi
rải rác chẳng biết mấy người, ruột gan và tóc mắc cả trên cây rừng, ông
Toàn phải trèo lên gỡ xuống. Ông còn nhớ một mảng tóc có màu hung và
hơi dài.
Sau đó, ông Toàn cùng với một người tên là Bo Hiêng
và một số người khác đã tổ chức mai táng những gì tìm thấy. Trên mảnh
cánh dài gần 3 mét, rộng gần 1 mét tại gia đình ông Toàn, anh Lương Hữu
Thuận tìm được tất cả 13 vết đạn. Mảnh cánh này đã được ông Toàn lấy về,
những năm trước nó được dùng làm giường ngủ. Sau này nó được dùng làm
bàn, đứng trên 4 chiếc chân gỗ kê bên gốc cây gần bếp, gia đình ông vẫn
dùng để... băm rau lợn. Trong nhà cũng còn một số hiện vật nữa của máy
bay như tủ thuốc quân y trang bị trên máy bay vẫn còn màu đỏ của chữ
thập sơn trên nắp hộp, một chiếc thùng đựng bình ắcquy được gia đình ông
sử dụng đựng quần áo nhưng đã cho cô con gái làm “của hồi môn” khi đi
lấy chồng ở xã bên...
Tuy nhiên, chỉ căn cứ vào các hiện vật thì việc xác
định đây là tổ bay nào trong 4 tổ bay cảm tử không trở về là rất khó,
bởi các nhân chứng không nhớ ngày, tháng diễn ra sự việc. Ông Lê Xuân
Đức, trưởng đoàn tìm kiếm cho rằng, căn cứ vào lời kể và một số hiện vật
tìm được thì rất có thể đây là chiếc máy bay IL-14, mang số hiệu 506 do
phi công Phạm Kế lái chính, xuất kích lúc 17 giờ ngày 7/2/1968 bởi
trong tổ bay này có anh Nguyễn Văn Tê đầu bị hói nên anh thường để tóc
dài rồi vuốt lên che phần hói đi nên khá khớp với lời kể của ông Toàn
rằng có một mảng đầu tóc dài màu hung, còn việc màu tóc thì thực tế cho
thấy trong những vụ tai nạn máy bay, tóc phi công và tổ lái bị đổi màu
là chuyện thường, có vụ phi công tóc đen nhánh nhưng khi thu hồi thi
hài, nhiều mảng đã trở nên bạc trắng. Tuy nhiên đó cũng chỉ là dự đoán.
Kết thúc buổi tiếp xúc với gia đình ông Toàn, chúng tôi đặt vấn đề nhờ
ông Toàn cùng một số thanh niên địa phương ngày hôm sau đưa vào nơi máy
bay rơi.
Sáng hôm sau, chúng tôi có mặt tại điểm tập kết trên
đường Hồ Chí Minh thuộc xã Phú Vinh. Những thanh niên địa phương cũng có
mặt. Lên đường. Chúng tôi lội qua rất nhiều con suối, len lách trong
cây rừng, dù đã cẩn thận bôi thuốc chống côn trùng nhưng đi một đoạn,
tôi vén chân lên thì đã thấy một vài chú vắt đang bám riết lấy bắp chân
hút máu.
Các thanh niên địa phương đi trước, chặt cây rừng mở
đường, họ có mang theo các dụng cụ để tìm kiếm hài cốt. Hai tiếng cuốc
bộ đường rừng, khi bàn chân tôi gần như không muốn bước nữa thì cũng là
lúc đến nơi. Địa điểm máy bay rơi là một sườn núi cao, độ dốc lớn nên
các bộ phận của máy bay cũng phân tán rất rộng: dưới khe suối là nơi
“dừng chân” của phần động cơ, đạn cối; rải rác từ trên đỉnh xuống khe
suối là các mảnh dù để thả hàng nay vẫn chưa bị phân hủy; bên những hốc
đá và trên một số chạc cây rừng, vẫn còn mắc những mảnh dù thả hàng; rải
rác đây đó là những mảnh nhựa có chữ tiếng Nga, một quả lựu đạn chày
còn sót lại.
Chiếc lốp máy bay thì đồng bào dân tộc đã cắt về làm
dép cao su hết, chỉ còn một ít cao su sát vành sắt lủng liểng. Qua những
gì còn lại tại hiện trường, ông Đức khẳng định đây chính là tổ bay của
phi công Phạm Kế, vì xung quanh khu vực máy bay rơi còn nhiều mảng dù
lớn để thả hàng nằm rải rác nay vẫn chưa bị phân hủy (tổ của anh Kế có
nhiệm vụ thả dù hàng hóa, vũ khí nên cần rất nhiều dù). Sâu dưới lòng
khe suối là hai chiếc “huyệt” còn mới do những người tìm phế liệu đào
lấy động cơ để bán còn để lại miệng hố rộng hoác.
Nguyễn Văn Hải, một thanh niên dân tộc PaKô thuộc xã
Phú Vinh là người được chúng tôi nhờ tham gia đoàn tìm kiếm kể, tháng
trước chính anh đã đào chiếc tuốcbin này cùng với mấy chục quả đạn, tất
cả được hơn 2 tạ đi bán cho hàng đồng nát được hơn 200 ngàn đồng. Bà con
dân tộc địa phương thì nhặt nhạnh, đào bới những phần có thể lấy đi
được; còn lại những mảng lớn, gần đây một số người dân ở nơi khác đem
cưa nhỏ mang đi, đến nay thì những bộ phận lớn của máy bay bằng sắt thép
đã bị “thanh toán” sạch.
Nhìn trước ngó sau một hồi, định vị lại địa hình theo
trí nhớ, ông Nguyễn Xuân Toàn đã dẫn đoàn công tác đến vị trí mai táng.
Chỉ một bãi đất trống, không có cây cổ thụ mà chỉ có những cây dại lúp
xúp, ông gật đầu ra hiệu. Hai cán bộ của Đoàn 919 lụi cụi phát cây, tạo
ra một khoảng trống, trải ra mảnh nilon màu xanh. Một chiếc thùng
các-tông được úp ngược và trải giấy lên làm bàn, hoa quả, đồ lễ được bày
ra.
Ông Lê Xuân Đức thắp hương và quỳ lạy: “Kính thưa
linh hồn các anh trong tổ bay cảm tử xuân Mậu Thân, tôi là Lê Xuân Đức,
là đồng đội của các anh đây. 40 năm qua, chúng tôi và đơn vị đã tìm kiếm
các anh mà vẫn bặt vô âm tín, nay nhờ bà con chỉ giúp mới tìm được đến
đây, mong các anh xá tội. Các anh sống khôn chết thiêng, cho chúng tôi
gặp mặt, để đưa các anh trở về với gia đình, với đồng đội và quê
hương...”. Sau khi làm các thủ tục về tâm linh, đoàn tiến hành đào,
khoảng 20 phút sau thì tìm được một bọc nilon gói tròn nằm sâu cách mặt
đất khoảng 70 cm.
Ông Toàn xác nhận đây chính là bọc mà ông cùng với
những người dân chôn cất khi xưa. Tuy nhiên, khi mở bọc ra thì chỉ còn
lại một số mảnh dù và đất đen, còn lại mọi thứ đã tiêu tan hết. Dưới
những nhát cuốc khi thì hiện ra một chiếc tai nghe của phi công, khi thì
một mảnh nhỏ bộ phận nào đó của máy bay có những hàng chữ tiếng Nga,
khi thì một hộp dầu gió... Mười lăm phút sau đó, dưới nhát cuốc của một
thanh niên, lại lộ ra một bọc nữa. Mọi người hồi hộp xúm lại, đất được
bới nhẹ nhàng xung quanh, bọc nilon dần lộ ra. Ông Đức tay run run đỡ
chiếc bọc màu xanh đưa lên mặt đất.
Chiếc bọc được thận trọng cắt dây buộc và nilon đã
đông cứng, từng lớp, từng lớp được mở ra. Tất cả bao trùm một sự yên
lặng. Tôi cảm giác từng chiếc lá cây rừng Trường Sơn cũng bất động.
Không một làn gió, chỉ có tiếng sột soạt của nilon được gỡ tiếp. Mọi
người trong Đoàn gần như chết lặng khi bất ngờ hiện ra hai dải xương dài
chừng gang tay khi mà mọi thứ đã gần như không còn hy vọng. Đó là hai
đoạn xương cánh tay.
Đoàn tìm kiếm cùng với thanh niên địa phương tiếp tục
đào bới, nhưng không mang lại kết quả gì, ông Toàn cũng khẳng định đã
hết. Như vậy là hài cốt toàn bộ tổ bay 8 người gom lại chỉ được bấy
nhiêu. Hai dải xương cùng tất cả các hiện vật tìm thấy được chia làm 8
phần, cả những mảnh nilon và dù bay... 8 phần hài cốt tượng trưng được
bọc vải đỏ, xếp thành hàng ngang. Ông Đức thắp một bó hương to cắm lên
khói hương nghi ngút, những dải khói xanh uốn lượn len lách giữa màu
xanh cây lá.
Lễ truy điệu tổ bay cảm tử xuân
Mậu Thân 1968 tại đoàn 919. |
Khi trở về A Lưới, theo chỉ dẫn của Hải, chúng tôi
tìm đến một điểm thu mua phế liệu nằm trên địa bàn trị trấn, quả nhiên
đã thấy một số bộ phận của máy bay. Ông Lê Xuân Đức nhận ra một phần
động cơ và bộ điều tốc của máy bay IL-14 nằm lẫn trong đám sắt vụn đủ
chủng loại. Chủ hàng cho biết đã mua những hiện vật trên với giá 700
đồng 1 kg, nếu cần mua lại thì... giá 3.000/kg. Ông Đức đang đứng từ từ
ngồi xuống, tần ngần mân mê những lá tuốcbin của động cơ. Tôi nhìn đống
phế liệu là những bộ phận chiếc IL-14 của tổ bay cảm tử, nhìn ông Đức,
cảm thấy xúc động dâng trào.
Tối hôm đó, các ông đã đốt một đống lửa to, mãi không
thấy máy bay đến nên lại dập đi, rồi lại đốt, rồi lại dập, tất cả đến 3
lần mà chẳng thấy máy bay đâu, đến 11 giờ đêm thì mọi người nản quá
không đốt nữa.
Trong ký ức đồng đội và người thân
Chúng tôi đã tìm gặp một số cựu chiến binh không quân
của các tổ bay IL-14 tham gia chiến đấu trong chiến dịch Mậu Thân. Ông
Lê Ngọc Chuyền, nguyên là cơ giới trên không của tổ bay xuất kích lúc 16
giờ 50 phút, ngày 7/2/1968 (trước tổ của phi công Phạm Kế 10 phút) cho
biết: Ngày 7/2 có tất cả 6 chiếc IL-14 xuất kích, trong đó 3 chiếc mang
vũ khí có nhiệm vụ hạ đồn Mang Cá ở Huế, còn 3 chiếc mang hàng tiếp tế
cho chiến trường.
Tổ của ông Chuyền nằm trong nhóm đi hạ đồn Mang Cá do
phi công Hoàng Liên lái chính. Theo kế hoạch, những chiếc IL-14 bay dọc
biên giới Việt Lào, đến sông Sê-pôn thì thọc xuống biển rồi vòng vào
Huế hạ thấp độ cao. Vì thời tiết xấu, nhóm đánh đồn Mang Cá không tìm
thấy mục tiêu, 2 trong 3 chiếc đã bay trở ra cửa biển Cửa Việt (Quảng
Trị) và bắn chìm 1 tàu chiến của địch, bắn 2 tàu khác bị thương rồi về
sân bay Gia Lâm hạ cánh an toàn; còn chiếc của ông Chuyền trên đường
quay về thì bị bắn thủng thùng xăng, phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay
Sao Vàng (Thanh Hóa).
Ông Nguyễn Bình Sen, nguyên là cơ giới trên không và
ông Nguyễn Văn Sửu, nguyên là lái phụ của một trong nhóm 3 chiếc có
nhiệm vụ thả hàng (cùng tổ của phi công Phạm Kế) thì nhớ lại: Tổ của các
ông do phi công Võ Minh Chung lái chính, khi vào Quảng Trị, đến địa
điểm giao ước đã nhận thấy 3 đống lửa ám hiệu của quân ta và tiến hành
thả hàng và vũ khí.
Thả xong, tổ bay của các ông còn liên lạc với tổ của
phi công Phạm Kế một lần, khi tổ của Phạm Kế phát mật khẩu “bán hàng
chưa” ông đã trả lời “bán rồi”. Sau đó chỉ có tổ của các ông trở về sân
bay Gia Lâm, lần liên lạc là lần cuối cùng giữa ông và những người đồng
đội trong tổ bay.
Sáng hôm sau các ông biết tin Đoàn 559 điện ra thông
báo đã nhận được hàng do chiếc máy bay của ông thả, còn 2 chiếc cùng
nhóm được biết một chiếc về đến Đô Lương (Nghệ An) thì bị Hạm đội 7 của
Mỹ bắn và rơi trên đất Lào, còn một chiếc không thấy trở về và cũng
không có tin tức gì. Những ngày sau đó các tổ bay IL-14 tiếp tục cất
cánh vào Trị Thiên - Huế. Kết thúc chiến dịch Mậu Thân, tất cả có 4
chiếc IL-14 không trở về và cũng không có tin tức gì cho đến nay.
Tại lễ truy điệu các liệt sĩ được tổ chức tại Đoàn
bay 919, ông Phạm Đình Đạt, nguyên là diễn viên múa Đoàn văn công Quân
khu Trị Thiên - Huế, nay sống tại phường Nhân Chính (Hà Nội) cho chúng
tôi biết, trong một đợt đi biểu diễn phục vụ mặt trận phía bắc Huế trong
chiến dịch Mậu Thân, chính ông và 2 người nữa cũng được giao nhiệm vụ
đốt lửa làm hiệu để máy bay thả hàng.
Tối hôm đó, các ông đã đốt một đống lửa to, mãi không
thấy máy bay đến nên lại dập đi, rồi lại đốt, rồi lại dập, tất cả đến 3
lần mà chẳng thấy máy bay đâu, đến 11 giờ đêm thì mọi người nản quá
không đốt nữa.
Ông Nguyễn Văn Sửu hiện ở ngõ 117, đường Nguyễn Sơn
là người khá thân với phi công Phạm Kế, lái chính của tổ bay vừa được
tìm thấy tại A Lưới. Ông kể: "Tôi và anh Phạm Kế cùng học ở Trường văn
hóa Lạng Sơn về đơn vị cách nhau vài tháng. Ngày đó, chúng tôi được cán
bộ Bộ Tổng tham mưu trực tiếp xuống giao nhiệm vụ. Sáu tổ bay được thành
lập và tổ chức huấn luyện. Chúng tôi sơ tán về thôn Quán Khê, xã Dương
Quang, cách sân bay Gia Lâm hơn 10km. Ở đó chúng tôi được học chính trị,
học sơ đồ đường bay, tính toán trên bản đồ... Sau đó là tập bay đêm,
một số đồng đội đã được bố trí đốt lửa làm địa tiêu để phi công bay tập
nhận biết, tập thả hàng. Địa bàn huấn luyện và đốt lửa chủ yếu ở vùng
tây bắc. Sau này chúng tôi mới biết tập để vào Trị Thiên thả hàng sẽ
hiệp đồng đốt lửa như vậy.
Đến tháng 2/1968 thì Tư lệnh Phùng Thế Tài cho gọi
chúng tôi về sân bay Gia Lâm. Từng tổ được giao nhiệm vụ riêng. Chúng
tôi hiểu rằng đây là nhiệm vụ hết sức đặc biệt và quan trọng. Các máy
bay tham gia phải xóa hết Quốc kỳ, số hiệu; tổ bay phải bỏ lại mọi thứ
tư trang hành lý, nhất là các giấy tờ tùy thân, mỗi người được phát một
bộ quần áo Quân giải phóng để mặc. Các việc làm trên nhằm mục đích dù
thế nào cũng không để lộ là quân từ Bắc vào. Trước khi xuất kích, các tổ
bay đều được chụp ảnh kỷ niệm.
Mọi người đều xác định tốt nhiệm vụ nên coi những
chuyến đi ấy rất nhẹ nhàng. Trong đơn vị ai cũng xác định tư tưởng là
vậy nhưng khi các tổ bay không trở về cả đơn vị buồn bã, mọi người nhìn
nhau không nói được câu nào, cả nhà ăn vắng hoe. Chị nuôi quân nấu một
nồi quân dụng cháo gà to ngồi chờ mãi nhưng chẳng ai trở về, chẳng ai
đến ăn...". Ngày ấy ông Sửu cùng với phi công Phạm Kế ở cùng một phòng
trong nhà trọ của ông Bảy ở thôn Quán Khê. Anh Kế là người hiền lành,
trầm tính nhưng hay đùa, dí dỏm. Khi đó, anh đã có vợ và con.
Chúng tôi đến thăm gia đình của liệt sĩ phi công Phạm
Kế. Hiện nay vợ và 3 người con của ông vẫn sống ở Gia Lâm, cách Đoàn
bay 919 không xa. Bà Hạnh, vợ của liệt sĩ, năm nay đã ở tuổi 70, dáng
người khắc khổ lam lũ, đôi mắt đục mờ, nghẹn ngào kể: “Tôi và ông ấy tuy
có với nhau 3 mặt con nhưng sống bên nhau chả được mấy ngày, vợ chồng
còn chưa thuộc hết tính nết của nhau thì ông ấy đã hy sinh”.
Quê ông bà ở xã Trung Lương, Đức Thọ (Hà Tĩnh). Ông
sinh năm 1934, là con cả trong gia đình nông dân. Năm 1953, ông tình
nguyện đi bộ đội, đơn vị đóng bên cầu Hiền Lương (Quảng Trị). Đến năm
1956 thì ông nghỉ phép về cưới bà, cưới nhau được 4 ngày thì ông trở lại
đơn vị, khi ấy bà mới 20 tuổi. Sau đó ông chuyển ra một đơn vị pháo
binh đóng quân ở Nghệ An, điều kiện gặp mặt giữa hai vợ chồng càng thưa
thớt hơn.
Năm 1957, ông được quân đội cho đi học văn hóa ở Lạng
Sơn, rồi học lái máy bay và về công tác tại Đoàn bay 919. Năm 1962, bà
lại ra Hà Nội ở nhờ nhà người anh trai để được gần chồng. Kết quả chuyến
đi ấy là bà đã mang thai và sinh đứa con đầu. Cũng muốn ở lại Hà Nội
cho vợ chồng con cái gần gũi nhưng ở quê còn mẹ chồng, cụ lại rất mong
cháu nên bà đã bế con về quê ở. Năm 1965, lần đầu tiên ông được về quê
ăn tết với gia đình, cũng dịp ấy bà có mang đứa con thứ hai. Đến năm
1966 thì bà chuyển ra Hà Nội để vợ chồng đoàn tụ, đứa con lớn để ở quê
với bà nội. Mang tiếng là gần nhau thật nhưng do nhiệm vụ thời chiến
căng thẳng, những người lính Không quân ngày đêm phải trực chiến và thực
hiện các nhiệm vụ đặc biệt nên chồng bà cũng chẳng được đảo qua nhà mấy
khi. Ra Hà Nội, bà xin vào làm công nhân tại Nông trường bò An Khánh
gần sân bay Gia Lâm, mấy mẹ con mượn tạm gian nhà kho trải chiếu ra nền
nhà ở tạm. Hôm nào ông về, người bảo vệ nông trường ở gần đó lại thương
tình đi chỗ khác ngủ, nhường cho vợ chồng bà mượn tạm căn phòng cùng
chiếc giường của mình. Những ngày trước tết Mậu Thân năm 1968 là những
ngày vui vẻ của gia đình. Ông nói với bà, năm nay mà được nghỉ thì mùng 4
tết sẽ về để ăn tết với mấy mẹ con cho gia đình sum họp. Thế rồi, nhiệm
vụ quá căng thẳng cứ cuốn đi, ông không tạt qua nhà được dù chỉ một
lát. Cái tết lặng lẽ trôi qua.
Năm ấy địch đánh nhiều, mẹ con bà phải sơ tán đến ở
trong một chiếc lò gạch cũ ở Làng Nha. Một buổi tối, sau tết hơn một
tuần, khi mấy mẹ con bà đã yên giấc thì ông về, lúc đó đã là 2 giờ sáng.
Ông thông báo sắp đi công tác. Rồi ông kéo bà lại và bảo: “Nếu một
tháng sau mà không thấy anh trở về thì anh không còn nữa đâu, em chịu
khó nuôi con, sau này con lớn thì nhờ chúng nó...”. Bà vừa khóc vừa hỏi:
“Sao anh lại nói thế, sao anh lại không về?”. Thấy thế ông cười bảo,
anh nói đùa đấy mà, anh mà chết thì ai sống với mẹ con em?
Bà đã ôm lấy ông mà khóc, linh cảm rằng ông sắp sửa
nhận một nhiệm vụ rất quan trọng. Buổi tối mùng 10 tết năm đó là buổi
tối cuối cùng bà được ở với ông. Sáng hôm sau, ông ra đi khi trời còn
nhập nhoạng, và... không trở về. Sau đó, một tuần thì bà trở dạ sinh đứa
con thứ ba. Đơn vị cử người ra thăm nói rằng ông đang học ở Trung Quốc
không về được, có gửi cho chị và cháu chút quà gồm một cân miến, một gói
chè, một bao thuốc lá, một gói kẹo và một lọ nước hoa, một lọ phấn rôm
cho cháu bé mới sinh. Bà nghẹn ngào trong nước mắt: “Tôi biết chồng tôi
hy sinh rồi, hãy cho tôi biết anh ấy hy sinh ngày nào để tôi còn cúng
giỗ cho anh ấy... Đừng giấu tôi làm gì...”.
Sau khi ông Kế hy sinh, biết bao khó khăn chồng chất
lên vai bà Hạnh. Một mình bà phải làm nuôi 3 con cùng mẹ chồng và bố đẻ ở
quê ra vì nhà cụ ở quê bị trúng bom Mỹ, cháy hết không còn gì. Đến năm
1978 thì bà chuyển từ Nông trường An Khánh về làm nuôi quân ở Đoàn bay
919 là đơn vị của ông. Tần tảo làm lụng, thờ chồng nuôi con, đến nay các
con của bà đều đã trưởng thành và có gia đình riêng, tuy chưa khá giả
nhưng cũng có nghề nghiệp ổn định. Cả 3 người con của ông bà hiện đều
công tác trong Tổng Công ty Hàng không, anh cả Phạm Ngọc Hải làm lái xe,
người con gái Phạm Phi Yến làm kế toán ở Đoàn tiếp viên, người con trai
út Phạm Ngọc Lâm sinh năm 1968, ngay sau khi cha hy sinh, nay làm ở bộ
phận kiểm soát không lưu.
Một thành viên nữa của tổ bay là liệt sĩ Ngô Phượng
Châu. Anh là người được những đồng đội còn lại và gia đình hết lời ca
ngợi về tài năng và đức độ. Trong tổ bay của phi công Phạm Kế, Ngô
Phượng Châu đóng vai trò dẫn đường. Ngay sau khi biết tin đã tìm được
nơi tổ bay hy sinh, gia đình của liệt sĩ Ngô Phượng Châu gồm mẹ ông và 4
người em đã tìm đến cám ơn Quân chủng Phòng không - Không quân và Đoàn
bay 919, tìm gặp những người đã trực tiếp đi vào A Lưới, nơi các anh hy
sinh để tìm hiểu rõ hơn sự việc. Cụ Ngô Thị Tuyết là mẹ của liệt sĩ nay
sống tại khu tập thể 1A - Đặng Thái Thân (Hà Nội) nghẹn ngào nói: “Gần
40 năm nay tôi tính từng ngày, biết rằng con là lính không quân, hy sinh
thì cũng chẳng mong gì tìm thấy thi thể nhưng không ngờ sau bấy nhiêu
năm lại có ngày tìm thấy nơi con ngã xuống, dù cho xương cốt không còn
gì thì đó vẫn là một niềm an ủi lớn với gia đình”.
Liệt sĩ Ngô Phượng Châu sinh năm 1942. Gia đình anh
là hậu duệ đời thứ bảy của Ngô Thời Nhậm. Mẹ anh vẫn nhớ như in hình ảnh
cậu con trai ngộ nghĩnh khi nhà còn ở phố Khâm Thiên những năm đầu
kháng chiến chống Pháp, mặc dù mới 5 tuổi đầu nhưng đã cầm cờ kháng
chiến chạy dọc hành lang trên gác hô to “ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Việt
Minh”. Khi gia đình chuyển lên sinh sống tại Việt Bắc, Phượng Châu được
đi học Trường thiếu sinh quân ở Quế Lâm, Trung Quốc. Trước ngày lên
đường anh còn tranh thủ vào rừng lấy củi cho mẹ chứa đầy gian bếp vì bà
sắp đến ngày sinh nở. Cho đến trước lúc lên xe, được chia mỗi người một
mũ lạc rang, anh còn tách khỏi các bạn chạy về đưa qua cửa sổ cho các em
của mình. Trước khi mất, bố của liệt sĩ Ngô Phượng Châu chỉ mong sao có
một ngôi mộ của anh trong một nghĩa trang nào đó, dù là mộ tượng trưng,
để tưởng nhớ đến người con của gia đình.
Chị Ngô Thanh Tâm là em gái của liệt sĩ Ngô Phượng
Châu, hiện công tác tại Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng thì lại nhớ về
hình ảnh anh trai mình như một người anh ân cần tận tụy. Lá thư cuối
cùng Ngô Phượng Châu gửi cho em trước khi hy sinh trong chuyến bay cảm
tử, anh đã dặn dò em gái nhiều điều, đặc biệt còn chép tặng chị bài hát
“Em là hoa pơ lang” và bốn câu thơ mừng sinh nhật lần thứ 20 của em gái.
Trước khi lên đường thực hiện chuyến bay ngày 7-2-1968, anh mới cưới vợ
được 10 ngày. Gia đình và vợ anh, chị Trịnh Thơ Thơ, lâu không thấy anh
về thì sốt ruột lắm nhưng không biết làm sao. Sáu tháng sau ngày anh hy
sinh, gia đình mới nhận được giấy báo tử. Chị Trịnh Thơ Thơ mãi sau này
mới đi bước nữa, nhưng vẫn là một thành viên trong gia đình anh Ngô
Phượng Châu.
Sau khi biết tin tìm thấy tổ bay cảm tử trong chiến
dịch Mậu Thân, chị Trần Thị Mây Lai ở thị trấn Bố Hạ, Yên Thế (Bắc
Giang) cũng đã tìm về Đoàn bay 919 để thắp hương cho anh trai mình là
liệt sĩ Trần Văn Thái trong tổ bay của phi công Phạm Kế. Chị Lai cho
biết, bố mẹ chị chỉ có hai anh em. Anh Thái sinh năm 1945. Bố của anh
chị là liệt sĩ chống Pháp, anh là con trai duy nhất trong diện được miễn
nghĩa vụ quân sự nhưng khi Bộ đội Không quân về tuyển quân, vì rất yêu
thích nên anh đã tình nguyện đi học lính dù. Sau này anh về nhận công
tác tại Sư đoàn dù B05.
Trong chiến dịch Mậu Thân 1968, sư đoàn anh có nhiệm
vụ phối hợp cùng Đoàn bay 919 để bay vào Trị Thiên - Huế thả hàng cho
chiến trường. Trước tết năm đó anh được về thăm nhà mấy ngày. Anh nói
với mẹ: Nhà mình dột lắm rồi, để con đi mấy ngày rồi con về con sửa cho
mẹ, cho em. Và anh dặn chị Lai, anh đi ở nhà mẹ có ốm đau gì thì em nhờ
hàng xóm, họ hàng giúp đỡ. Thế rồi anh đi, và đi mãi không về...
Khi từ A Lưới, Thừa Thiên - Huế trở về, chúng tôi đi
trên con đường Hồ Chí Minh mới mang theo 8 phần hài cốt tượng trưng của
các thành viên trong tổ bay cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Bốn
mươi năm, dù vật đổi sao dời, nhưng các anh - những tổ bay cảm tử - vẫn
được tạc bia trong lòng đồng đội, trong lòng những người thân yêu
-
Nguồn: ANTG, 12/03/2008.
Nhận xét
Đăng nhận xét