CÂU CHUYỆN TÂM LINH 84
-Ông nào cũng lẫn lộn!
---------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Đại tá Đỗ Kiên Cường : Chiến binh “quét sạch” ngoại cảm giả danh!
08/10/2007
Ngọai cảm là một hiện tượng kỳ bí gây lúng túng cho các nhà khoa học. Ở Việt Nam ta, sau nhiều năm dài nhân dân chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, có rất nhiều liệt sỹ chưa tìm được mộ. Vào thời buổi kinh tế phát triển, thân nhân gia đình đã không tiếc tiền của đi tìm hài cốt các anh. Bên cạnh một số người có khả năng đặc biệt tìm được mộ của người chết, cũng không ít kẻ lợi dụng điều này mà kiếm tiền vô lương tâm, tạo nên "cơn sốt ảo" về sự hiện diện của những người siêu phàm được gọi là "ngọai cảm". Một bài phỏng vấn đại tá Đỗ Kiên Cường trên Vietimes, nhà khoa học chân chính quyết tâm làm sáng tỏ những trường hợp này sẽ cho chúng ta biết thêm về người được mệnh danh là "chiến binh quét sạch ngọai cảm giả danh".
Đại tá, nhà nghiên cứu Đỗ Kiên Cường, công tác tại Viện Vật lý Y Sinh học - Trung tâm Khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự - Bộ Quốc phòng xứng đáng là một Người chiến binh cần mẫn của khoa học thực nghiệm chân chính. Bằng tấm khiên vàng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chiến binh Đỗ Kiên Cường đã lần lượt "càn quét" sạch những sự mù mờ, sự lừa mị do những kẻ mạo danh ngoại cảm gây ra.
Phóng viên (PV): Ông theo dõi loạt bài về ngoại cảm trên VieTimes từ đầu?
Ông Đỗ Kiên Cường (ĐKC): Tôi đọc VieTimes sau khi đọc bài Không được lạm dụng “thánh thần”. Và tôi rất nhất trí với quan điểm của báo.
PV: Là người nghiên cứu chuyên sâu, xin ông cung cấp cho độc giả cái nhìn khái quát về tình hình nghiên cứu ngoại cảm trên thế giới và tại Việt Nam.
ĐKC: Việc nghiên cứu ngoại cảm một cách khoa học được bắt đầu từ 1882 tại Anh, khi Hội nghiên cứu tâm linh (Psychical Society) đầu tiên trên thế giới được thành lập.
PV: Xin lỗi vì ngắt lời ông. Về thuật ngữ, hình như không có sự phù hợp giữa tiếng Việt và tiếng Anh?
ĐKC: Đúng vậy. Trong tiếng Anh có hai thuật ngữ là duy linh luận (spiritualism) và thông linh luận (spiritism). Chúng thường được đánh đồng với nhau. Duy linh luận là niềm tin tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết. Và chúng ta có thể liên lạc với người chết qua giới đồng cốt. Về mặt khoa học, đây là quan điểm sai lầm.
Liên quan với các hiện tượng lạ, tiếng Anh dùng thuật ngữ psychical, cũng được dịch ra tiếng Việt là tâm linh. Nó nghiên cứu ngoại cảm, viễn di tâm học (như làm cong thìa bằng ý nghĩ chẳng hạn), hiện tượng “ma” ám, “ma” quấy rối (poltergeist) và cảm xạ.
PV: Đó là những thuật ngữ chuyên môn thuần túy, bạn đọc dễ bị rối…
ĐKC: Vì thế không nên dùng thuật ngữ tâm linh khi bàn về các hiện tượng lạ. Theo tôi khi nói về sự tồn tại sau cái chết, nên dùng thuật ngữ duy linh. Khi nói về ngoại cảm, nên dùng thuật ngữ lạ hay dị thường. Cuối cùng, nên dùng thuật ngữ tinh thần thay cho tâm linh. Chẳng hạn, nên viết “đời sống tinh thần” thay cho “đời sống tâm linh”.
Xin quay lại việc nghiên cứu ngoại cảm trên thế giới. Đầu tiên giới nghiên cứu tập hợp thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng rồi phân tích chúng. Và nghịch lý nhanh chóng xuất hiện: càng nghiên cứu cẩn thận càng thấy rằng, không thể dùng chúng như những bằng chứng khoa học.
PV: Vì sao vậy, thưa ông?
ĐKC: Vì thông tin trên báo chí dựa trên lời kể. Cần lưu ý rằng, nhận thức của chúng ta do sở nguyện và kỳ vọng chi phối; còn ký ức, nhất là về các sự kiện lạ thường, thường không chính xác. Khi ta nghĩ một sự kiện là dị thường, ta chỉ nhớ những gì khẳng định tính dị thường, mà quên mọi thông tin về tính không dị thường của nó. Vì thế khi đọc các bài viết về ngoại cảm trên một số tờ báo ở nước ta thời gian vừa qua, ta chỉ thấy thông tin ủng hộ, mà không thấy thông tin phản bác, vì chúng không được ghi nhớ.
PV: Vậy có thể khắc phục nhược điểm đó như thế nào?
ĐKC: Đưa ngoại cảm vào các phòng thí nghiệm. Nửa đầu thế kỷ 20, người ta dùng các phương pháp khá thô sơ (như đoán ý nghĩ một người đang lật các quân bài). Sau đó là các phương pháp tinh xảo hơn như dùng máy phát màu tự động để nghiên cứu tiên tri những năm 1970 (máy tự động phát ánh sáng một trong bốn màu, nhà ngoại cảm phải đoán màu trước khi ấn nút phát) hay thí nghiệm Ganzfeld để nghiên cứu thần giao cách cảm những năm 1980 (một nhà ngoại cảm lần lượt xem bốn bức tranh rồi gửi ý nghĩ cho một nhà ngoại cảm khác ở căn phòng bên cạnh; người này có nhiệm vụ tìm ra chúng trong số những bức tranh trong phòng).
PV: Kết quả các thí nghiệm đó thế nào, thưa ông?
ĐKC: Thất vọng. Đoán ý nghĩ người lật bài không thể xem là khoa học, vì nhà ngoại cảm có thể đọc ngôn ngữ cơ thể (hiệu ứng Hans thông minh). Còn các thí nghiệm về tiên tri hay thần giao cách cảm chỉ đạt tỉ lệ thành công khoảng 33-35%, dù giới ngoại cảm học đã rất kiên trì (trong thí nghiệm tiên tri, các nhà ngoại cảm đã bấm nút máy phát hơn một triệu lần!).
PV: Nhưng 35% cũng đã lớn hơn tỉ lệ ngẫu nhiên 25%, cho thấy tiên tri có thật ?
ĐKC: Ban đầu cũng có ý kiến như vậy. Nhưng khi khảo sát cụ thể hơn, người ta thấy một người thiết kế thí nghiệm lại tham gia thí nghiệm và đóng góp 2/3 số kết quả thành công. Vì thế kết quả nghiên cứu không được thừa nhận.
PV: Sau đó thì sao ?
ĐKC: Hai thập kỷ nay, giới ngoại cảm học không đưa ra được một phương pháp nghiên cứu mới nào. Gần đây giới khoa học ít quan tâm đến các hiện tượng dị thường nói chung, ngoại cảm nói riêng so với trước đây. Có thể họ đã thất vọng.
PV: Vậy họ làm gì, thưa ông ?
ĐKC: Để khuyến khích giới ngoại cảm, nhiều tổ chức và cá nhân đã treo các giải thưởng rất có giá trị cho bất cứ nhà ngoại cảm nào thành công trong một thí nghiệm được thiết kế đặc biệt để ngăn chặn sự truyền tin qua năm giác quan. Sự ngăn chặn như thế là cần thiết, vì ngoại cảm là sự cảm nhận phi ngũ quan.
Hiện Quĩ James Randi (ảo thuật gia Mỹ, đồng sáng lập Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố về hiện tượng dị thường CSICOP, có công phát hiện khả năng “nhìn cong thìa” của nhà ngoại cảm lừng danh Yuri Geller chỉ là trò ảo thuật) treo giải 1 triệu đôla Mỹ.
Các Tổ chức nghi ngờ tại Mỹ, Pháp, Úc, Canada… treo giải 200 ngàn euro/nước. Ngoài ra cũng phải kể thêm sồ tiền thưởng 50 triệu đôla của chính phủ Mỹ cho bất cứ ai giúp tìm ra trùm khủng bố Bin Laden. Không ai cấm các nhà ngoại cảm giành được khoản tiền lớn này, nếu họ thực sự có khả năng.
PV: Đã có nhà ngoại cảm nào nhận được tiền chưa ?
ĐKC: Khoảng vài chục nhà ngoại cảm đã tham gia nhưng đều thất bại. Giải thưởng vẫn chờ được trao.
PV: Quay trở lại Việt Nam, ông nghĩ sao về những nghiên cứu dùng ngoại cảm tìm mộ thời gian vừa qua ?
ĐKC: Tôi không thể ngạc nhiên hơn được nữa.
PV: Ngạc nhiên? Như thế nào và tại sao ?
ĐKC: Khoảng 10 năm trước, khi thấy một nghiên cứu kết luận rằng nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên đạt tỉ lệ thành công 70% khi tìm mộ, tôi rất ngạc nhiên, vì tôi vốn không tin ngoại cảm. Nhưng tôi bị thuyết phục khi biết có cả tổ chức khoa học hình sự nhà nước tham gia nghiên cứu. Tôi từng viết bài đăng báo cố gắng giải thích “khả năng” của ông Nguyễn Văn Liên. Tuy nhiên khi trực tiếp đọc báo cáo tổng kết, tôi hoàn toàn thất vọng.
PV: Điều gì làm ông thay đổi thái độ như thế ?
ĐKC: Có nhiều nguyên nhân. Trong đó quan trọng nhất là không ai trong nhóm tác giả có kiến thức cần thiết về ngoại cảm. Tôi khẳng định như vậy vì sau đó tôi đã gặp một phó giám đốc một trung tâm nghiên cứu chuyên về tiềm năng con người, còn viện trưởng một viện nghiên cứu thì nhờ tôi tìm tài liệu. Chính vì thiếu kiến thức chuyên ngành nên họ không thiết kế được thí nghiệm có kiểm soát và bị nhà ngoại cảm “làm xiếc”.
PV: Nhưng tỉ lệ thành công 70% cho thấy ông Nguyễn Văn Liên đã giúp được nhiều gia đình tìm được hài cốt người thân ?
ĐKC: Con số đó không đáng tin vì nó thu được dựa trên cái gọi là thử nghiệm tại hiện trường (field test). Trong các hiện tượng lạ, thử nghiệm tại hiện trường luôn thành công, trong khi thử nghiệm có kiểm soát luôn thất bại.
Thử nghiệm tại hiện trường là phương pháp thấy sao ghi vậy, nên không kiểm soát được các kênh cảm giác. Vì thế nhà ngoại cảm có thể nhận được nhiều chỉ dẫn cảm giác từ xung quanh. Chẳng hạn trong cảm xạ học, nhà ngoại cảm có thể tìm được nước ngầm do các chỉ dẫn hay ám hiệu địa hình (đất ẩm ướt, cây cỏ xanh tươi hơn…). Khi xóa hết các ám hiệu, khả năng giảm xuống bằng với tìm kiếm ngẫu nhiên (tức đoán mò). Ngoại cảm tìm mộ cũng vậy, khi đến nơi chôn cất liệt sĩ (thông tin này có thể thu được từ dồng đội, chính quyền địa phương…), thấy một nơi cây cỏ xanh tươi hơn, bên dưới nhiều khả năng có cốt.
PV: Đó là về ông Nguyễn Văn Liên và bà Năm Nghĩa. Nhưng nhiều nhà ngoại cảm khác đã được nghiên cứu và được tặng thường, như được tặng gương Huyền Thông của Liên hiện khoa học công nghệ tin học ứng dụng UIA. Ông nghĩ sao về việc này ?
ĐKC: Khi thấy bộ môn cận tâm lý của một trung tâm nghiên cứu khẳng định cô đồng Phương - Thanh Hóa có khả năng gọi vong người chết, tôi nghĩ ngay là họ thiếu kiến thức. Tuy nhiên chỉ đến khi đọc bài trả lời phỏng vấn VieTimes của ông Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc UIA, tôi mới biết cụ thể sự thiếu kiến thức đó là như thế nào.
Khi đọc bài Khi “ngoại cảm” chiếu yêu… khoa học, tôi thấy ông Vũ Thế Khanh hoàn toàn không biết ngoại cảm là gì. Hệ quả là ông không biết bố trí các thực nghiệm đúng cách. Vì thế mọi nghiên cứu và kết luận với sự tham gia của ông Vũ Thế Khanh và UIA đều mắc sai lầm nghiêm trọng trong quan niệm và trong phương pháp. Cần bác bỏ chúng.
Xin nhấn mạnh rằng, những nghiên cứu đó rất nguy hại đối với xã hội vì góp phần phổ biến sự mê tín và các quan niệm phản khoa học. Một người bạn kể với tôi rằng, khi được hỏi tại sao lại tin “ngoại cảm tìm mộ”, người anh trai trả lời là mấy viện nghiên cứu đã khẳng định thì phải tin chứ.
PV: Mấy viện nghiên cứu với rất nhiều nhà khoa học danh tiếng… Vậy điều gì quyết định sự đúng sai ?
ĐKC: Cái quyết định sự đúng sai là bằng chứng khách quan. Nhà thiên văn Carl Sagan, cha đẻ Chương trình tìm kiến nền văn minh ngoài trái đất SETI (bằng cách theo dõi sóng điện từ liên hành tinh) từng đặt ra tiêu chuẩn: Tuyên bố dị thường đòi hỏi chứng cớ dị thường. Ngoại cảm tìm mộ hay lúa nhân điện (trồng lúa không dùng phân bón và thuốc trừ sâu, chỉ cần nhà nhân điện mỗi tuần đến nhìn ruộng vài lần mà lúa tốt bời bời!) là những tuyên bố dị thường. Tuy nhiên bằng chứng về chúng thì rất sơ sài và kém thuyết phục. Vậy theo tiêu chuẩn Sagan thì ngoại cảm tìm mộ hoàn toàn không đáng tin.
Cần nhấn mạnh thêm rằng, kiến thức là quan trọng, nhưng quan điểm khoa học quan trọng hơn . Khi nghiên cứu ngựa Hans, một hội đồng chuyên môn gồm nhiều nhà khoa học tên tuổi thất bại, chỉ vì họ “muốn tin”. Trong khi đó chàng sinh viên Pfungst mới ra trường (học trò của vị giáo sư tham gia hội đồng) thành công vì quan niệm đúng (ngựa thì không biết làm toán!). Tương tự, phóng viên VieTimes hay phóng viên báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, tuy kiến thức có thể không bằng các nhà khoa học UIA, nhưng khám phá được sự thật vì có quan niệm đúng đắn (không có linh hồn).
PV: Vậy tại sao các nhà khoa học đó muốn tin và tại sao các nhà ngoại cảm tiếp tục thuyết phục chúng ta rằng, khả năng của họ không phải là sự lừa gạt ?
ĐKC: Với một số nhà khoa học không màng danh lợi, họ muốn tin vì bản chất của con người là như vậy (con người tiến hóa để tin các hiện tượng lạ có thật). Với số còn lại thì là chuyện danh lợi. Tôi được biết, mấy năm trước “gạo nhân điện” được bán 10.000 đ/kg, gấp đôi mức thông thường, mà bao nhiêu cũng hết! Ngoại cảm tìm mộ cũng vậy.
PV: Ông đã đọc bài Gửi các nhà “ngoại cảm” giả danh! chưa? Xin ông cho biết ý kiến về những yêu cầu mà cũng là thách thức của bạn đọc đối với các nhà ngoại cảm.
ĐKC: Tôi đã đọc và thấy bạn đọc rất sáng suốt. Những thách thức đó thì tự cổ chí kim, từ đông sang tây, không một nhà ngoại cảm giả danh và không giả danh nào làm được. Tôi xin khẳng định như vậy với tư cách một người đã gần 30 năm nghiên cứu vật lý y sinh học và các hiện tượng dị thường, trong đó có ngoại cảm.
Xin lưu ý một vấn đề. “Ngoại cảm giả danh” thì không nói làm gì, vì đó là sự giả danh. Tuy nhiên ngay cả ngoại cảm không giả danh cũng bất lực trước các thách thức mà bạn đọc đã nêu. Trong các bài viết của mình, tôi viết về ngoại cảm không giả danh. Và như đã trình bày, ngoại cảm là không đáng tin, vì không vượt qua được các thử nghiệm có kiểm soát.
PV: Hãy giả định một tình huống là tuy được cung cấp đầy đủ thông tin mà nhiều người vẫn tin ngoại cảm. Khi đó ông nói gì ?
ĐKC: Tôi không nói gì cả. Và tôi dẫn Blackmore. Từng xuất hồn và sau hơn 30 năm nghiên cứu thoát xác cùng nhiều hiện tượng lạ khác, nữ tâm lý gia Susan Blackmore đưa ra định luật Blackmore thứ nhất: “Khát vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người lớn hơn mọi chứng cớ phản bác”. Đó là bản chất con người. Tuy nhiên tôi phản đối mọi sự tuyên truyền hay trục lợi từ ngoại cảm và các hiện tượng lạ khác.
PV: Cuối cùng ông muốn gửi lời nhắn gì tới giới ngoại cảm nước nhà, kể cả giả danh và không giả danh ?
ĐKC: Tôi muốn nhắn rằng, nếu có khả năng thực sự, xin đừng kiếm những khoản tiền còm từ người dân nghèo và thiếu hiểu biết trong nước nữa. Hãy tìm kiếm vinh quang và tiền bạc từ chính phủ Mỹ, Quĩ James Randi, cũng như từ nhiều tổ chức và cá nhân khác trên toàn thế giới.
PV: Thật là một đề nghị trị giá hơn 50 triệu đô la Mỹ! Tôi nghĩ là không một nhà ngoại cảm có khả năng thực sự nào cầm lòng được. Xin cảm ơn ông.
Nhóm phóng viên VieTimes
PHẦN PHẢN BIỆN CỦA DIENBATN.
Trước hết , dienbatn cũng nhất trí với Đỗ Kiên Cường là trong quá trình nghiên cứu về Ngoại cảm , cần phải sàng lọc , loại bỏ những " Nhà ngoại cảm giả danh " . Vấn đề đó hoàn toàn cần thiết , cũng như trong thí nghiệm , hóa chất đưa vào thí nghiệm càng tinh chất thì kết quả càng cao . dienbatn đã từng bỏ nhiều năm trời lăn lộn khắp các vùng quê của đất Việt , nghe đâu có nhà Ngoại cảm nào mới xuất hiện , đều đến để nghiên cứu tường tận , sau đó mới có những kết luận người đó đúng hay sai . Có nhiều nhà ngoại cảm , phải đi hàng trăm lần , nghiên cứu tường tận từng vấn đề rồi sau đó mới bước đầu có những kết luận riêng của mình . Có rất nhiều nhà ngoại cảm giả danh , kể cả họ đã biết kiến tạo những đàn cò Tâm linh , lừa gạt biết bao nhiêu người cả tin về tiền bạc , công sức , thời gian . Tuy nhiên , không phải vì những nhà ngoại cảm giả danh đó , những bày cò Tâm linh đó mà chúng ta phủ nhận sạch trơn công lao của những nhà ngoại cảm chân chính , đã , đang và sẽ mang lại cho hàng vạn gia đình niềm vui vì đã tìm được nắm xương tàn của con cháu mình đã biết bao năm chôn vùi nơi rừng vắng và không một ai đoáihoài . dienbatn rất tâm đắc với nhà nghiên cứu Tâm linh Phan Oanh : " Ngay từ những ngày đầu bùng nổ về khả năng ngoại cảm, tôi đã ngộ ra một điều: Khó nhất ở trên đời là sống ở dương phải làm việc âm. Không biết lấy cái gì để mà đo. Những người làm việc âm tìm ra được một cái thước chuẩn để đo là một công việc không dễ chút nào. Tìm hoài, tìm mãi, tìm ở đâu? Cuối cùng, tìm ngay trong ta chứ không phải ở đâu xa lạ. Bởi nó chứa đựng tất cả. Những cái gì tinh tuý nhất, ô trọc nhất, quỷ quái nhất đều tồn tại trong con người ta. Cho nên khi thực hành tâm linh, điều quan trọng nhất là tâm pháp. Và cái cao nhất cũng là tâm pháp. Ví như Bùa ngải xứ Mường mà tôi đã có dịp đọc trên Tạp chí Thế Giới Mới mà anh là tác giả. Bùa ngải không có tội, chỉ có người thực hành phương pháp này sinh công hay sinh tội mà thôi. Bản thân nó rất vô ngã. Và nếu như cái nghiệp nhà anh mà nó hợp với cái pháp này thì cái duyên pháp ấy nó hợp nhau để tạo nên một sự lợi lạc. Và chính cái bùa ngải này là hóa giải, là chuyển nghiệp. Vậy thì muốn chuyển nghiệp có ngàn vạn cách. Nhà Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn cơ mà. Nhưng tại sao anh chọn một pháp tu, anh lại bảo chỉ pháp tu anh mới đúng còn pháp kia là sai, là xấu, là lệch. Cái đó là do nhận thức của chúng ta quá chật hẹp...
...Điều khiến tôi xót xa là nhà nước Việt Nam thả nổi mảng này. Chả có ai hướng dẫn. Biết bao người có duyên vì không có người hướng dẫn mà họ đi lạc đạo, biến luôn Phật thánh thành hàng hoá. Có một chị làm công việc tôn giáo của sở văn hoá Hà Nội đến gặp tôi để đàm đạo. Tôi có hỏi một câu: “Hỏi thật em nhé. Nhân danh em làm văn hoá, phụ trách tôn giáo của thủ đô, đã bao giờ em tập hợp tất cả những bà đồng cao thủ của Hà Nội để nghe người ta nói về đaọ thánh chưa em?”. Cô ấy đáp: “Em chưa làm”. Tôi bảo: “Thế bây giờ bản thân em quản lý về tôn giáo mà không nghe người ta nói thì làm sao hiểu được. Không hiểu mà lại đề ra phương án, hướng dẫn người ta thì càng thật là vô duyên. Cứ mời người ta đến theo tinh thần học hỏi. Các ông bà cứ nói thoả mái những cảm nhận của mình về đạo mẫu, đạo bản địa của Việt Nam. Và chúng tôi, nhân danh những người quản lý của nhà nước, xin chân thành cầu thị học hỏi để xem, để thấy sức mạnh của đạo Mẫu. Và các vị có thể hiến kế làm thế nào để đưa đạo Mẫu thật trật tự. Và cuối cùng là giữ được cái cốt cách thanh cao, những giá trị rất quý của đạo Mẫu”. Thế nhưng cô quản lý tôn giáo ấy đã không làm. Chỉ làm một việc này: “Xem ông này có khả năng tâm linh, ngoại cảm, có đơn vị, cá nhân nào tài trợ không? Có làm gì ảnh hưởng đến chính trị, an ninh của sơn hà xã tắc không? Có tổ chức phản động nào núp sau không? Nếu không thì thôi. Chấm hết. Tôi cũng từng được người ta xem như vậy.
Nếu nhìn đủ một vòng tròn, chúng ta sẽ nhìn được giá trị của các bậc thầy đó. Họ là con tốt, con mã, con xe, pháo trên bàn cờ thì ta vẫn trân trọng. Nếu tôi là nhà nước, tôi phải xếp như thế nào để họ có chỗ đứng. Và phải hướng dẫn như thế nào để trăm họ đừng lạc đường, cứ chớm một tý lại đến thầy bói để hỏi. Khi chơi cờ mà anh không đủ trí tuệ đánh là anh bí cờ. Bí cờ mà đi hỏi là đánh cờ rất dốt. Cho nên cái việc đạo, nó chứa đựng những công việc như thế. Chứ việc đạo không phải là việc xem tướng, xem số, gọi hồn, cầu cúng, tế lễ, giải hạn, ngồi đồng… Đó chỉ là phương pháp thôi. Mà trong cái bầu hồ lô này có hàng tỷ pháp. Lúc nào cần, am hiểu, anh sẽ nhờ pháp ấy, đó là kẻ thông minh. Chứ nếu không nó nhiễu loạn sẽ vô cùng khó cho mọi người ".
Để bàn về vấn đề Ngoại cảm , trước hết chúng ta phải thống nhất định nghĩa Ngoại cảm là gì ? Từ trước đến nay chưa từng có khái niệm về Ngoại cảm , dienbatn thấy định nghĩa theo wikipedia.org là chính xác.
" Ngoại cảm làm một khả năng đặc biệt của con người. người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục hơn những người thường như khả năng nói chuyện với người chết, khả năng theo dõi con người, tiên đoán tương lai, biết được quá khứ của một thực thể nào đó v.v.
Ở Việt Nam các nhà ngoại cảm, như đã giúp tìm được rất nhiều mộ liệt sĩ kể lại các câu chuyện lịch sử với độ chính xác cao tương đối
Một số lý do của khả năng ngoại cảm:
khả năng bẩm sinh: Tức là sinh ra đã có khả năng ngoại cảm.
khả năng hình thành sau khi phải trải qua một biến cố ngoại cảnh : chấn thương, bệnh tật...
khả năng có do rèn luyện theo những phương pháp đặc biệt. "
Định nghĩa này khác hẳn với định nghĩa về Ngoại cảm
của Đỗ Kiên Cường : " Trong tiếng Anh có hai thuật ngữ là duy linh luận (spiritualism) và thông linh luận (spiritism). Chúng thường được đánh đồng với nhau. Duy linh luận là niềm tin tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết. Và chúng ta có thể liên lạc với người chết qua giới đồng cốt. Về mặt khoa học, đây là quan điểm sai lầm.
Liên quan với các hiện tượng lạ, tiếng Anh dùng thuật ngữ psychical, cũng được dịch ra tiếng Việt là tâm linh. Nó nghiên cứu ngoại cảm, viễn di tâm học (như làm cong thìa bằng ý nghĩ chẳng hạn), hiện tượng “ma” ám, “ma” quấy rối (poltergeist) và cảm xạ.
...Vì thế không nên dùng thuật ngữ tâm linh khi bàn về các hiện tượng lạ. Theo tôi khi nói về sự tồn tại sau cái chết, nên dùng thuật ngữ duy linh. Khi nói về ngoại cảm, nên dùng thuật ngữ lạ hay dị thường. Cuối cùng, nên dùng thuật ngữ tinh thần thay cho tâm linh. Chẳng hạn, nên viết “đời sống tinh thần” thay cho “đời sống tâm linh "
Ngoại cảm làm một khả năng đặc biệt của con người. người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục , nghĩa là khác hẳn với định nghĩa của ĐKC, đây không phải là niềm tin vì thực ra nó là một hiện tượng tồn tại thực tế khách quan , không phụ thuộc vào con người ta có tin hay không tin .Đây cũng không là :"đời sống tinh thần " vì đời sống tinh thần chỉ biểu hiện nhận biết của con người đối với quy luật tự nhiên .Vì là một hiện tượng tồn tại trên thực tế và không phải là một hiện tượng phổ biến, nên việc định nghĩa và giải thích nó tủy theo khả năng tri thức nhận xét về nó. Như vậy , khởi điểm của nhận thức sai dẫn đến quá trình nghiên cứu và kết luận của ông ĐKC đã sai ngay từ khởi điểm .
* " Vì thông tin trên báo chí dựa trên lời kể. Cần lưu ý rằng, nhận thức của chúng ta do sở nguyện và kỳ vọng chi phối; còn ký ức, nhất là về các sự kiện lạ thường, thường không chính xác. Khi ta nghĩ một sự kiện là dị thường, ta chỉ nhớ những gì khẳng định tính dị thường, mà quên mọi thông tin về tính không dị thường của nó "Từ nhận thức sai lầm về hiện tượng Ngoại cảm ở trên nên bước suy luận tiếp theo này không khỏi tránh sai lầm , đó là tính tất yếu đối với ĐKC . Hiện tượng ngoại cảm là một hiện tượng tồn tại thực tế , khách quan , không cần biết ông ĐKC có nhận biết được nó hay không ?
Các cụ ngày xưa có câu : " Nước chảy chỗ trũng " - Như vậy ở đây nước chảy vào chỗ trũng là một quy luật vận động của Thiên nhiên , nó chẳng cần biết con người có nhận thức được điều đó hay không ? Nhận thức được thì con người sẽ sử dụng hiểu biết đó vào cuộc sống , không nhận biết được thì sẽ tạo cho Khổng Minh ngày xưa dâng nước ngập thành lập công .
* " Đưa ngoại cảm vào các phòng thí nghiệm. Nửa đầu thế kỷ 20, người ta dùng các phương pháp khá thô sơ (như đoán ý nghĩ một người đang lật các quân bài). Sau đó là các phương pháp tinh xảo hơn như dùng máy phát màu tự động để nghiên cứu tiên tri những năm 1970 (máy tự động phát ánh sáng một trong bốn màu, nhà ngoại cảm phải đoán màu trước khi ấn nút phát) hay thí nghiệm Ganzfeld để nghiên cứu thần giao cách cảm những năm 1980 (một nhà ngoại cảm lần lượt xem bốn bức tranh rồi gửi ý nghĩ cho một nhà ngoại cảm khác ở căn phòng bên cạnh; người này có nhiệm vụ tìm ra chúng trong số những bức tranh trong phòng)....
PV: Kết quả các thí nghiệm đó thế nào, thưa ông?
ĐKC: Thất vọng. Đoán ý nghĩ người lật bài không thể xem là khoa học, vì nhà ngoại cảm có thể đọc ngôn ngữ cơ thể (hiệu ứng Hans thông minh). Còn các thí nghiệm về tiên tri hay thần giao cách cảm chỉ đạt tỉ lệ thành công khoảng 33-35%, dù giới ngoại cảm học đã rất kiên trì (trong thí nghiệm tiên tri, các nhà ngoại cảm đã bấm nút máy phát hơn một triệu lần!).
PV: Nhưng 35% cũng đã lớn hơn tỉ lệ ngẫu nhiên 25%, cho thấy tiên tri có thật ?
ĐKC: Ban đầu cũng có ý kiến như vậy. Nhưng khi khảo sát cụ thể hơn, người ta thấy một người thiết kế thí nghiệm lại tham gia thí nghiệm và đóng góp 2/3 số kết quả thành công. Vì thế kết quả nghiên cứu không được thừa nhận."
Đến đây ta thấy rằng ông ĐKC khá là ấu trĩ về nhận thức ( mặc dù ông có bằng Tiến sĩ chẳng biết về cái gì ? ). Tương tự như dienbatn đố Tiến sĩ ĐKC dùng toán lớp 4 để giải những bài toán vi phân , tích phân vậy . Điều mà ông ĐKC không thể dùng toán lớp 4 để giải những phương trình vi phân , không có nghĩa là những phương trình vi phân đó sai , cái sai duy nhất ở đây là trình độ còn quá hạn chế , nhận thức còn quá ấu trĩ nên không thể thực hiện được . Ngoại cảm là một hiện tượng tồn tại khách quan và là :"Ngoại cảm làm một khả năng đặc biệt của con người. Người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục ". Để có thể nhận biết và lý giải hiện tượng Ngoại cảm , người ta cần phải có khả năng bước vào một hệ không gian khác có 4 chiều trở lên . Hình học phẳng , nghiên cứu các quy luật của không gian 2 chiều ( rộng và dài ) ; Hình học không gian nghiên cứu các quy luật vận động của không gian 3 chiều ( rộng - dài - cao ). Hình học không gian sẽ bao gồm hình học phẳng , có thể giải thích tất cả các quy luật của hình học phẳng , điều ngược lại tất nhiên là không thể. Điều đó tương tự không thể lấy toán lớp 4 để giải các phương trình vi phân vậy . Đây chính là xuất phát điểm sai lầm của các nhà khoa học ngày nay khi nghiên cứu Lý học Đông Phương chứ không phải chỉ riêng ông ĐKC . Từ vấn đề này , chúng ta phải đi tìm kiếm một phương pháp nghiên cứu khác hẳn để nghiên cứu về hiện tượng Ngoại cảm nói riêng và các vấn đề về Lý học Đông Phương nói chung . Đây cũng chính là nguyên nhân mà hàng ngàn năm nay người ta nghiên cứu về Lý học Đông Phương vẫn dẫm chân tại chỗ và để cho khoa học Phương Tây vượt lên qua mặt , biến Lý học Đông Phương thành cái gọi là " mê tín dị đoan ".
* " Có nhiều nguyên nhân. Trong đó quan trọng nhất là không ai trong nhóm tác giả có kiến thức cần thiết về ngoại cảm. Tôi khẳng định như vậy vì sau đó tôi đã gặp một phó giám đốc một trung tâm nghiên cứu chuyên về tiềm năng con người, còn viện trưởng một viện nghiên cứu thì nhờ tôi tìm tài liệu. Chính vì thiếu kiến thức chuyên ngành nên họ không thiết kế được thí nghiệm có kiểm soát và bị nhà ngoại cảm “làm xiếc”.
Riêng điều này thì ông ĐKC nói đúng . Ngày trước , khi cố GSTS Vũ Tuyên Hoàng còn sống , khi dienbatn và Thiên Sứ đến gặp để trình bày xin đăng ký hoạt động của Trung tâm Nghiên cứu lý học Đông Phương , ông cũng đã nói : " Tôi cũng đã duyệt chi hàng tỷ đồng để Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người hoạt động , nhưng kết quả chỉ là những tài liệu thống kê về hiện tượng Ngoại cảm mà chưa có một báo cáo nghiên cứu nào giải thích bản chất của hiện tượng Ngoại cảm cả ". Điều đó cũng nói lên một điều ngay bản thân cố GSTS Vũ Tuyên Hoàng cũng coi Ngoại cảm là một hiện tượng cần nghiên cứu , nhưng nghiên cứu theo phương pháp luận như thế nào bản thân ông cũng chưa hình dung được . Vấn đề này , dienbatn nhận thấy hiện nay chỉ có những nghiên cứu của cố GS.TS Nguyễn Hoàng Phương trong các tác phẩm : " Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một chiến lược mai sau "(http://www.4shared.com/document/I9tsFyKd/Tich_hop_da_van_hoa_dong_tay ) và tác phẩm cuối đời " Sứ mệnhđức Di Lặc " ( http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn/article?mid=3587 ), là có nhiều kiến giải khá thú vị .
*" Xin lưu ý một vấn đề. “Ngoại cảm giả danh” thì không nói làm gì, vì đó là sự giả danh. Tuy nhiên ngay cả ngoại cảm không giả danh cũng bất lực trước các thách thức mà bạn đọc đã nêu. Trong các bài viết của mình, tôi viết về ngoại cảm không giả danh. Và như đã trình bày, ngoại cảm là không đáng tin, vì không vượt qua được các thử nghiệm có kiểm soát. "
dienbatn lại xin nhắc lại từ khái niệm : " Ngoại cảm làm một khả năng đặc biệt của con người. Người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục " . Như vậy , ông ĐKC lại có ý định dùng toán lớp 4 để giải phương trình vi phân rồi . Việc ông ĐKC có nhận biết được hay không , thí nghiệm của ông đúng hay sai thì hiện tượng Ngoại cảm vẫn cứ tồn tại . Không thể có những cái đúng từ những khởi điểm sai cả . Theo tôi , ông ĐKC nên tập trung thời gian vào để đọc những tác phẩm của GS.TS Nguyễn Hoàng Phương ( Có lẽ cũng đã từng dạy ĐKC tại trường Đại học Tổng hợp - Hà Nội ).
Điều cuối cùng dienbatn muốn nêu ra trong bài phản biện này là : Chúng ta cần phải có một phương pháp nghiên cứu khác hẳn những phương pháp đang sử dụng về Ngoại cảm nói riêng và Lý học Đông Phương nói chung . Vấn đề này dienbatn xin nêu ở những bài tiếp theo .
Thân ái - dienbatn .
PM : bài này Thiên Sứ có viết thêm như sau :
" Thực ra tôi cũng chẳng chú ý lắm đến bài này. Bởi vì tôi đã giới thiệu một bài viết phản biện một nội dung tương tự. Nhưng cũng vì cái tật xem lướt của tôi - trước khi xem cẩn thận - thấy câu cuối cực kỳ ấn tượng:
PV: Thật là một đề nghị trị giá hơn 50 triệu đô la Mỹ! Tôi nghĩ là không một nhà ngoại cảm có khả năng thực sự nào cầm lòng được. Xin cảm ơn ông.
Lạy Chúa và cả Đức Ala toàn năng với mười phương chư Phật. Thật tối tăm mặt mũi với con số 50 triệu dol. Ý niệm so sánh tiền với vỏ hến của người Việt thật không đủ để diễn tả 50 triệu dol. Híc. Bởi vậy tôi phải xem toàn bài một cách cẩn thận và chi tiết, để xem làm thế nào để có một ý tưởng tuyệt vời xứng đáng 50 triệu dol.....
..........
Thiên Sứ tôi nghĩ mãi không ra cách nào để có 50 triệu dol. Thôi thì cái thân phận phó thường dân dự khuyết hạng II Nam Bộ đành chịu vậy. Cơm áo gạo tiền, có nhà ở, che mưa, che nắng là may lắm rồi. Nay nhà thì ở thuê, có miếng đất làm "zốn" . mơ ước bán đi để mua cái nhà nhỏ, đi zdìa có con mẹ Ngỗng nhăn như khỉ ăn gừng, thì chẳng may nó nằm trong cái quy hoặch. Híc. Thế là chẳng còn cái đếch gì. Thôi đành cầu xin tấm lòng hảo tâm của tha nhân vậy:
- Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại. Con vốn phó thường dân thân phận ngèo hèn, sống giang hồ, tứ chiếng, lông bông không nhà, không cửa ngót gần 40 chục năm nay. Nay con xin vong linh cô hồn các đẳng. Những người chết trong sóng thần Indo, mà con đoán và báo cho họ trước 10 tháng 24 ngày, mỗi người phù hộ cho con 1 dol để con có gần 300. 000 dol nhậu thịt chó. Con cũng cầu xin các bậc đại gia phá sản trong khủng hoảng kinh tế năm 2008 , mỗi người bố thí cho con 1dol trong 100 dol phá sản của họ, để con có vài tỷ dol sống cho sung sướng. Chưa kể rơi máy bay, lật tàu lừa, lũ lụt...vv....mà con đoán trước. Con chỉ xin mỗi thứ 1/100 để có 50 triệu đô quăng cho chó nhá.
Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại.....
TS. "
Tags:
CÁC BÀI NGHIÊN CỨU
---------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
PHẢN BIỆN NHỮNG BÀI VIẾT CỦA ĐỖ KIÊN CƯỜNG . BÀI 3.
Thứ Tư, ngày 26 tháng 5 năm 2010
Chị Năm Nghĩa và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Đại tá Đỗ Kiên Cường : Chiến binh “quét sạch” ngoại cảm giả danh!
08/10/2007
Ngọai cảm là một hiện tượng kỳ bí gây lúng túng cho các nhà khoa học. Ở Việt Nam ta, sau nhiều năm dài nhân dân chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, có rất nhiều liệt sỹ chưa tìm được mộ. Vào thời buổi kinh tế phát triển, thân nhân gia đình đã không tiếc tiền của đi tìm hài cốt các anh. Bên cạnh một số người có khả năng đặc biệt tìm được mộ của người chết, cũng không ít kẻ lợi dụng điều này mà kiếm tiền vô lương tâm, tạo nên "cơn sốt ảo" về sự hiện diện của những người siêu phàm được gọi là "ngọai cảm". Một bài phỏng vấn đại tá Đỗ Kiên Cường trên Vietimes, nhà khoa học chân chính quyết tâm làm sáng tỏ những trường hợp này sẽ cho chúng ta biết thêm về người được mệnh danh là "chiến binh quét sạch ngọai cảm giả danh".
Đại tá, nhà nghiên cứu Đỗ Kiên Cường, công tác tại Viện Vật lý Y Sinh học - Trung tâm Khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự - Bộ Quốc phòng xứng đáng là một Người chiến binh cần mẫn của khoa học thực nghiệm chân chính. Bằng tấm khiên vàng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chiến binh Đỗ Kiên Cường đã lần lượt "càn quét" sạch những sự mù mờ, sự lừa mị do những kẻ mạo danh ngoại cảm gây ra.
Phóng viên (PV): Ông theo dõi loạt bài về ngoại cảm trên VieTimes từ đầu?
Ông Đỗ Kiên Cường (ĐKC): Tôi đọc VieTimes sau khi đọc bài Không được lạm dụng “thánh thần”. Và tôi rất nhất trí với quan điểm của báo.
PV: Là người nghiên cứu chuyên sâu, xin ông cung cấp cho độc giả cái nhìn khái quát về tình hình nghiên cứu ngoại cảm trên thế giới và tại Việt Nam.
ĐKC: Việc nghiên cứu ngoại cảm một cách khoa học được bắt đầu từ 1882 tại Anh, khi Hội nghiên cứu tâm linh (Psychical Society) đầu tiên trên thế giới được thành lập.
PV: Xin lỗi vì ngắt lời ông. Về thuật ngữ, hình như không có sự phù hợp giữa tiếng Việt và tiếng Anh?
ĐKC: Đúng vậy. Trong tiếng Anh có hai thuật ngữ là duy linh luận (spiritualism) và thông linh luận (spiritism). Chúng thường được đánh đồng với nhau. Duy linh luận là niềm tin tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết. Và chúng ta có thể liên lạc với người chết qua giới đồng cốt. Về mặt khoa học, đây là quan điểm sai lầm.
Liên quan với các hiện tượng lạ, tiếng Anh dùng thuật ngữ psychical, cũng được dịch ra tiếng Việt là tâm linh. Nó nghiên cứu ngoại cảm, viễn di tâm học (như làm cong thìa bằng ý nghĩ chẳng hạn), hiện tượng “ma” ám, “ma” quấy rối (poltergeist) và cảm xạ.
PV: Đó là những thuật ngữ chuyên môn thuần túy, bạn đọc dễ bị rối…
ĐKC: Vì thế không nên dùng thuật ngữ tâm linh khi bàn về các hiện tượng lạ. Theo tôi khi nói về sự tồn tại sau cái chết, nên dùng thuật ngữ duy linh. Khi nói về ngoại cảm, nên dùng thuật ngữ lạ hay dị thường. Cuối cùng, nên dùng thuật ngữ tinh thần thay cho tâm linh. Chẳng hạn, nên viết “đời sống tinh thần” thay cho “đời sống tâm linh”.
Xin quay lại việc nghiên cứu ngoại cảm trên thế giới. Đầu tiên giới nghiên cứu tập hợp thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng rồi phân tích chúng. Và nghịch lý nhanh chóng xuất hiện: càng nghiên cứu cẩn thận càng thấy rằng, không thể dùng chúng như những bằng chứng khoa học.
PV: Vì sao vậy, thưa ông?
ĐKC: Vì thông tin trên báo chí dựa trên lời kể. Cần lưu ý rằng, nhận thức của chúng ta do sở nguyện và kỳ vọng chi phối; còn ký ức, nhất là về các sự kiện lạ thường, thường không chính xác. Khi ta nghĩ một sự kiện là dị thường, ta chỉ nhớ những gì khẳng định tính dị thường, mà quên mọi thông tin về tính không dị thường của nó. Vì thế khi đọc các bài viết về ngoại cảm trên một số tờ báo ở nước ta thời gian vừa qua, ta chỉ thấy thông tin ủng hộ, mà không thấy thông tin phản bác, vì chúng không được ghi nhớ.
PV: Vậy có thể khắc phục nhược điểm đó như thế nào?
ĐKC: Đưa ngoại cảm vào các phòng thí nghiệm. Nửa đầu thế kỷ 20, người ta dùng các phương pháp khá thô sơ (như đoán ý nghĩ một người đang lật các quân bài). Sau đó là các phương pháp tinh xảo hơn như dùng máy phát màu tự động để nghiên cứu tiên tri những năm 1970 (máy tự động phát ánh sáng một trong bốn màu, nhà ngoại cảm phải đoán màu trước khi ấn nút phát) hay thí nghiệm Ganzfeld để nghiên cứu thần giao cách cảm những năm 1980 (một nhà ngoại cảm lần lượt xem bốn bức tranh rồi gửi ý nghĩ cho một nhà ngoại cảm khác ở căn phòng bên cạnh; người này có nhiệm vụ tìm ra chúng trong số những bức tranh trong phòng).
PV: Kết quả các thí nghiệm đó thế nào, thưa ông?
ĐKC: Thất vọng. Đoán ý nghĩ người lật bài không thể xem là khoa học, vì nhà ngoại cảm có thể đọc ngôn ngữ cơ thể (hiệu ứng Hans thông minh). Còn các thí nghiệm về tiên tri hay thần giao cách cảm chỉ đạt tỉ lệ thành công khoảng 33-35%, dù giới ngoại cảm học đã rất kiên trì (trong thí nghiệm tiên tri, các nhà ngoại cảm đã bấm nút máy phát hơn một triệu lần!).
PV: Nhưng 35% cũng đã lớn hơn tỉ lệ ngẫu nhiên 25%, cho thấy tiên tri có thật ?
ĐKC: Ban đầu cũng có ý kiến như vậy. Nhưng khi khảo sát cụ thể hơn, người ta thấy một người thiết kế thí nghiệm lại tham gia thí nghiệm và đóng góp 2/3 số kết quả thành công. Vì thế kết quả nghiên cứu không được thừa nhận.
PV: Sau đó thì sao ?
ĐKC: Hai thập kỷ nay, giới ngoại cảm học không đưa ra được một phương pháp nghiên cứu mới nào. Gần đây giới khoa học ít quan tâm đến các hiện tượng dị thường nói chung, ngoại cảm nói riêng so với trước đây. Có thể họ đã thất vọng.
PV: Vậy họ làm gì, thưa ông ?
ĐKC: Để khuyến khích giới ngoại cảm, nhiều tổ chức và cá nhân đã treo các giải thưởng rất có giá trị cho bất cứ nhà ngoại cảm nào thành công trong một thí nghiệm được thiết kế đặc biệt để ngăn chặn sự truyền tin qua năm giác quan. Sự ngăn chặn như thế là cần thiết, vì ngoại cảm là sự cảm nhận phi ngũ quan.
Hiện Quĩ James Randi (ảo thuật gia Mỹ, đồng sáng lập Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố về hiện tượng dị thường CSICOP, có công phát hiện khả năng “nhìn cong thìa” của nhà ngoại cảm lừng danh Yuri Geller chỉ là trò ảo thuật) treo giải 1 triệu đôla Mỹ.
Các Tổ chức nghi ngờ tại Mỹ, Pháp, Úc, Canada… treo giải 200 ngàn euro/nước. Ngoài ra cũng phải kể thêm sồ tiền thưởng 50 triệu đôla của chính phủ Mỹ cho bất cứ ai giúp tìm ra trùm khủng bố Bin Laden. Không ai cấm các nhà ngoại cảm giành được khoản tiền lớn này, nếu họ thực sự có khả năng.
PV: Đã có nhà ngoại cảm nào nhận được tiền chưa ?
ĐKC: Khoảng vài chục nhà ngoại cảm đã tham gia nhưng đều thất bại. Giải thưởng vẫn chờ được trao.
PV: Quay trở lại Việt Nam, ông nghĩ sao về những nghiên cứu dùng ngoại cảm tìm mộ thời gian vừa qua ?
ĐKC: Tôi không thể ngạc nhiên hơn được nữa.
PV: Ngạc nhiên? Như thế nào và tại sao ?
ĐKC: Khoảng 10 năm trước, khi thấy một nghiên cứu kết luận rằng nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên đạt tỉ lệ thành công 70% khi tìm mộ, tôi rất ngạc nhiên, vì tôi vốn không tin ngoại cảm. Nhưng tôi bị thuyết phục khi biết có cả tổ chức khoa học hình sự nhà nước tham gia nghiên cứu. Tôi từng viết bài đăng báo cố gắng giải thích “khả năng” của ông Nguyễn Văn Liên. Tuy nhiên khi trực tiếp đọc báo cáo tổng kết, tôi hoàn toàn thất vọng.
PV: Điều gì làm ông thay đổi thái độ như thế ?
ĐKC: Có nhiều nguyên nhân. Trong đó quan trọng nhất là không ai trong nhóm tác giả có kiến thức cần thiết về ngoại cảm. Tôi khẳng định như vậy vì sau đó tôi đã gặp một phó giám đốc một trung tâm nghiên cứu chuyên về tiềm năng con người, còn viện trưởng một viện nghiên cứu thì nhờ tôi tìm tài liệu. Chính vì thiếu kiến thức chuyên ngành nên họ không thiết kế được thí nghiệm có kiểm soát và bị nhà ngoại cảm “làm xiếc”.
PV: Nhưng tỉ lệ thành công 70% cho thấy ông Nguyễn Văn Liên đã giúp được nhiều gia đình tìm được hài cốt người thân ?
ĐKC: Con số đó không đáng tin vì nó thu được dựa trên cái gọi là thử nghiệm tại hiện trường (field test). Trong các hiện tượng lạ, thử nghiệm tại hiện trường luôn thành công, trong khi thử nghiệm có kiểm soát luôn thất bại.
Thử nghiệm tại hiện trường là phương pháp thấy sao ghi vậy, nên không kiểm soát được các kênh cảm giác. Vì thế nhà ngoại cảm có thể nhận được nhiều chỉ dẫn cảm giác từ xung quanh. Chẳng hạn trong cảm xạ học, nhà ngoại cảm có thể tìm được nước ngầm do các chỉ dẫn hay ám hiệu địa hình (đất ẩm ướt, cây cỏ xanh tươi hơn…). Khi xóa hết các ám hiệu, khả năng giảm xuống bằng với tìm kiếm ngẫu nhiên (tức đoán mò). Ngoại cảm tìm mộ cũng vậy, khi đến nơi chôn cất liệt sĩ (thông tin này có thể thu được từ dồng đội, chính quyền địa phương…), thấy một nơi cây cỏ xanh tươi hơn, bên dưới nhiều khả năng có cốt.
PV: Đó là về ông Nguyễn Văn Liên và bà Năm Nghĩa. Nhưng nhiều nhà ngoại cảm khác đã được nghiên cứu và được tặng thường, như được tặng gương Huyền Thông của Liên hiện khoa học công nghệ tin học ứng dụng UIA. Ông nghĩ sao về việc này ?
ĐKC: Khi thấy bộ môn cận tâm lý của một trung tâm nghiên cứu khẳng định cô đồng Phương - Thanh Hóa có khả năng gọi vong người chết, tôi nghĩ ngay là họ thiếu kiến thức. Tuy nhiên chỉ đến khi đọc bài trả lời phỏng vấn VieTimes của ông Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc UIA, tôi mới biết cụ thể sự thiếu kiến thức đó là như thế nào.
Khi đọc bài Khi “ngoại cảm” chiếu yêu… khoa học, tôi thấy ông Vũ Thế Khanh hoàn toàn không biết ngoại cảm là gì. Hệ quả là ông không biết bố trí các thực nghiệm đúng cách. Vì thế mọi nghiên cứu và kết luận với sự tham gia của ông Vũ Thế Khanh và UIA đều mắc sai lầm nghiêm trọng trong quan niệm và trong phương pháp. Cần bác bỏ chúng.
Xin nhấn mạnh rằng, những nghiên cứu đó rất nguy hại đối với xã hội vì góp phần phổ biến sự mê tín và các quan niệm phản khoa học. Một người bạn kể với tôi rằng, khi được hỏi tại sao lại tin “ngoại cảm tìm mộ”, người anh trai trả lời là mấy viện nghiên cứu đã khẳng định thì phải tin chứ.
PV: Mấy viện nghiên cứu với rất nhiều nhà khoa học danh tiếng… Vậy điều gì quyết định sự đúng sai ?
ĐKC: Cái quyết định sự đúng sai là bằng chứng khách quan. Nhà thiên văn Carl Sagan, cha đẻ Chương trình tìm kiến nền văn minh ngoài trái đất SETI (bằng cách theo dõi sóng điện từ liên hành tinh) từng đặt ra tiêu chuẩn: Tuyên bố dị thường đòi hỏi chứng cớ dị thường. Ngoại cảm tìm mộ hay lúa nhân điện (trồng lúa không dùng phân bón và thuốc trừ sâu, chỉ cần nhà nhân điện mỗi tuần đến nhìn ruộng vài lần mà lúa tốt bời bời!) là những tuyên bố dị thường. Tuy nhiên bằng chứng về chúng thì rất sơ sài và kém thuyết phục. Vậy theo tiêu chuẩn Sagan thì ngoại cảm tìm mộ hoàn toàn không đáng tin.
Cần nhấn mạnh thêm rằng, kiến thức là quan trọng, nhưng quan điểm khoa học quan trọng hơn . Khi nghiên cứu ngựa Hans, một hội đồng chuyên môn gồm nhiều nhà khoa học tên tuổi thất bại, chỉ vì họ “muốn tin”. Trong khi đó chàng sinh viên Pfungst mới ra trường (học trò của vị giáo sư tham gia hội đồng) thành công vì quan niệm đúng (ngựa thì không biết làm toán!). Tương tự, phóng viên VieTimes hay phóng viên báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, tuy kiến thức có thể không bằng các nhà khoa học UIA, nhưng khám phá được sự thật vì có quan niệm đúng đắn (không có linh hồn).
PV: Vậy tại sao các nhà khoa học đó muốn tin và tại sao các nhà ngoại cảm tiếp tục thuyết phục chúng ta rằng, khả năng của họ không phải là sự lừa gạt ?
ĐKC: Với một số nhà khoa học không màng danh lợi, họ muốn tin vì bản chất của con người là như vậy (con người tiến hóa để tin các hiện tượng lạ có thật). Với số còn lại thì là chuyện danh lợi. Tôi được biết, mấy năm trước “gạo nhân điện” được bán 10.000 đ/kg, gấp đôi mức thông thường, mà bao nhiêu cũng hết! Ngoại cảm tìm mộ cũng vậy.
PV: Ông đã đọc bài Gửi các nhà “ngoại cảm” giả danh! chưa? Xin ông cho biết ý kiến về những yêu cầu mà cũng là thách thức của bạn đọc đối với các nhà ngoại cảm.
ĐKC: Tôi đã đọc và thấy bạn đọc rất sáng suốt. Những thách thức đó thì tự cổ chí kim, từ đông sang tây, không một nhà ngoại cảm giả danh và không giả danh nào làm được. Tôi xin khẳng định như vậy với tư cách một người đã gần 30 năm nghiên cứu vật lý y sinh học và các hiện tượng dị thường, trong đó có ngoại cảm.
Xin lưu ý một vấn đề. “Ngoại cảm giả danh” thì không nói làm gì, vì đó là sự giả danh. Tuy nhiên ngay cả ngoại cảm không giả danh cũng bất lực trước các thách thức mà bạn đọc đã nêu. Trong các bài viết của mình, tôi viết về ngoại cảm không giả danh. Và như đã trình bày, ngoại cảm là không đáng tin, vì không vượt qua được các thử nghiệm có kiểm soát.
PV: Hãy giả định một tình huống là tuy được cung cấp đầy đủ thông tin mà nhiều người vẫn tin ngoại cảm. Khi đó ông nói gì ?
ĐKC: Tôi không nói gì cả. Và tôi dẫn Blackmore. Từng xuất hồn và sau hơn 30 năm nghiên cứu thoát xác cùng nhiều hiện tượng lạ khác, nữ tâm lý gia Susan Blackmore đưa ra định luật Blackmore thứ nhất: “Khát vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người lớn hơn mọi chứng cớ phản bác”. Đó là bản chất con người. Tuy nhiên tôi phản đối mọi sự tuyên truyền hay trục lợi từ ngoại cảm và các hiện tượng lạ khác.
PV: Cuối cùng ông muốn gửi lời nhắn gì tới giới ngoại cảm nước nhà, kể cả giả danh và không giả danh ?
ĐKC: Tôi muốn nhắn rằng, nếu có khả năng thực sự, xin đừng kiếm những khoản tiền còm từ người dân nghèo và thiếu hiểu biết trong nước nữa. Hãy tìm kiếm vinh quang và tiền bạc từ chính phủ Mỹ, Quĩ James Randi, cũng như từ nhiều tổ chức và cá nhân khác trên toàn thế giới.
PV: Thật là một đề nghị trị giá hơn 50 triệu đô la Mỹ! Tôi nghĩ là không một nhà ngoại cảm có khả năng thực sự nào cầm lòng được. Xin cảm ơn ông.
Nhóm phóng viên VieTimes
dienbatn và chị Phan Oanh.
PHẦN PHẢN BIỆN CỦA DIENBATN.
Trước hết , dienbatn cũng nhất trí với Đỗ Kiên Cường là trong quá trình nghiên cứu về Ngoại cảm , cần phải sàng lọc , loại bỏ những " Nhà ngoại cảm giả danh " . Vấn đề đó hoàn toàn cần thiết , cũng như trong thí nghiệm , hóa chất đưa vào thí nghiệm càng tinh chất thì kết quả càng cao . dienbatn đã từng bỏ nhiều năm trời lăn lộn khắp các vùng quê của đất Việt , nghe đâu có nhà Ngoại cảm nào mới xuất hiện , đều đến để nghiên cứu tường tận , sau đó mới có những kết luận người đó đúng hay sai . Có nhiều nhà ngoại cảm , phải đi hàng trăm lần , nghiên cứu tường tận từng vấn đề rồi sau đó mới bước đầu có những kết luận riêng của mình . Có rất nhiều nhà ngoại cảm giả danh , kể cả họ đã biết kiến tạo những đàn cò Tâm linh , lừa gạt biết bao nhiêu người cả tin về tiền bạc , công sức , thời gian . Tuy nhiên , không phải vì những nhà ngoại cảm giả danh đó , những bày cò Tâm linh đó mà chúng ta phủ nhận sạch trơn công lao của những nhà ngoại cảm chân chính , đã , đang và sẽ mang lại cho hàng vạn gia đình niềm vui vì đã tìm được nắm xương tàn của con cháu mình đã biết bao năm chôn vùi nơi rừng vắng và không một ai đoáihoài . dienbatn rất tâm đắc với nhà nghiên cứu Tâm linh Phan Oanh : " Ngay từ những ngày đầu bùng nổ về khả năng ngoại cảm, tôi đã ngộ ra một điều: Khó nhất ở trên đời là sống ở dương phải làm việc âm. Không biết lấy cái gì để mà đo. Những người làm việc âm tìm ra được một cái thước chuẩn để đo là một công việc không dễ chút nào. Tìm hoài, tìm mãi, tìm ở đâu? Cuối cùng, tìm ngay trong ta chứ không phải ở đâu xa lạ. Bởi nó chứa đựng tất cả. Những cái gì tinh tuý nhất, ô trọc nhất, quỷ quái nhất đều tồn tại trong con người ta. Cho nên khi thực hành tâm linh, điều quan trọng nhất là tâm pháp. Và cái cao nhất cũng là tâm pháp. Ví như Bùa ngải xứ Mường mà tôi đã có dịp đọc trên Tạp chí Thế Giới Mới mà anh là tác giả. Bùa ngải không có tội, chỉ có người thực hành phương pháp này sinh công hay sinh tội mà thôi. Bản thân nó rất vô ngã. Và nếu như cái nghiệp nhà anh mà nó hợp với cái pháp này thì cái duyên pháp ấy nó hợp nhau để tạo nên một sự lợi lạc. Và chính cái bùa ngải này là hóa giải, là chuyển nghiệp. Vậy thì muốn chuyển nghiệp có ngàn vạn cách. Nhà Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn cơ mà. Nhưng tại sao anh chọn một pháp tu, anh lại bảo chỉ pháp tu anh mới đúng còn pháp kia là sai, là xấu, là lệch. Cái đó là do nhận thức của chúng ta quá chật hẹp...
...Điều khiến tôi xót xa là nhà nước Việt Nam thả nổi mảng này. Chả có ai hướng dẫn. Biết bao người có duyên vì không có người hướng dẫn mà họ đi lạc đạo, biến luôn Phật thánh thành hàng hoá. Có một chị làm công việc tôn giáo của sở văn hoá Hà Nội đến gặp tôi để đàm đạo. Tôi có hỏi một câu: “Hỏi thật em nhé. Nhân danh em làm văn hoá, phụ trách tôn giáo của thủ đô, đã bao giờ em tập hợp tất cả những bà đồng cao thủ của Hà Nội để nghe người ta nói về đaọ thánh chưa em?”. Cô ấy đáp: “Em chưa làm”. Tôi bảo: “Thế bây giờ bản thân em quản lý về tôn giáo mà không nghe người ta nói thì làm sao hiểu được. Không hiểu mà lại đề ra phương án, hướng dẫn người ta thì càng thật là vô duyên. Cứ mời người ta đến theo tinh thần học hỏi. Các ông bà cứ nói thoả mái những cảm nhận của mình về đạo mẫu, đạo bản địa của Việt Nam. Và chúng tôi, nhân danh những người quản lý của nhà nước, xin chân thành cầu thị học hỏi để xem, để thấy sức mạnh của đạo Mẫu. Và các vị có thể hiến kế làm thế nào để đưa đạo Mẫu thật trật tự. Và cuối cùng là giữ được cái cốt cách thanh cao, những giá trị rất quý của đạo Mẫu”. Thế nhưng cô quản lý tôn giáo ấy đã không làm. Chỉ làm một việc này: “Xem ông này có khả năng tâm linh, ngoại cảm, có đơn vị, cá nhân nào tài trợ không? Có làm gì ảnh hưởng đến chính trị, an ninh của sơn hà xã tắc không? Có tổ chức phản động nào núp sau không? Nếu không thì thôi. Chấm hết. Tôi cũng từng được người ta xem như vậy.
Nếu nhìn đủ một vòng tròn, chúng ta sẽ nhìn được giá trị của các bậc thầy đó. Họ là con tốt, con mã, con xe, pháo trên bàn cờ thì ta vẫn trân trọng. Nếu tôi là nhà nước, tôi phải xếp như thế nào để họ có chỗ đứng. Và phải hướng dẫn như thế nào để trăm họ đừng lạc đường, cứ chớm một tý lại đến thầy bói để hỏi. Khi chơi cờ mà anh không đủ trí tuệ đánh là anh bí cờ. Bí cờ mà đi hỏi là đánh cờ rất dốt. Cho nên cái việc đạo, nó chứa đựng những công việc như thế. Chứ việc đạo không phải là việc xem tướng, xem số, gọi hồn, cầu cúng, tế lễ, giải hạn, ngồi đồng… Đó chỉ là phương pháp thôi. Mà trong cái bầu hồ lô này có hàng tỷ pháp. Lúc nào cần, am hiểu, anh sẽ nhờ pháp ấy, đó là kẻ thông minh. Chứ nếu không nó nhiễu loạn sẽ vô cùng khó cho mọi người ".
Để bàn về vấn đề Ngoại cảm , trước hết chúng ta phải thống nhất định nghĩa Ngoại cảm là gì ? Từ trước đến nay chưa từng có khái niệm về Ngoại cảm , dienbatn thấy định nghĩa theo wikipedia.org là chính xác.
" Ngoại cảm làm một khả năng đặc biệt của con người. người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục hơn những người thường như khả năng nói chuyện với người chết, khả năng theo dõi con người, tiên đoán tương lai, biết được quá khứ của một thực thể nào đó v.v.
Ở Việt Nam các nhà ngoại cảm, như đã giúp tìm được rất nhiều mộ liệt sĩ kể lại các câu chuyện lịch sử với độ chính xác cao tương đối
Một số lý do của khả năng ngoại cảm:
khả năng bẩm sinh: Tức là sinh ra đã có khả năng ngoại cảm.
khả năng hình thành sau khi phải trải qua một biến cố ngoại cảnh : chấn thương, bệnh tật...
khả năng có do rèn luyện theo những phương pháp đặc biệt. "
Định nghĩa này khác hẳn với định nghĩa về Ngoại cảm
của Đỗ Kiên Cường : " Trong tiếng Anh có hai thuật ngữ là duy linh luận (spiritualism) và thông linh luận (spiritism). Chúng thường được đánh đồng với nhau. Duy linh luận là niềm tin tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết. Và chúng ta có thể liên lạc với người chết qua giới đồng cốt. Về mặt khoa học, đây là quan điểm sai lầm.
Liên quan với các hiện tượng lạ, tiếng Anh dùng thuật ngữ psychical, cũng được dịch ra tiếng Việt là tâm linh. Nó nghiên cứu ngoại cảm, viễn di tâm học (như làm cong thìa bằng ý nghĩ chẳng hạn), hiện tượng “ma” ám, “ma” quấy rối (poltergeist) và cảm xạ.
...Vì thế không nên dùng thuật ngữ tâm linh khi bàn về các hiện tượng lạ. Theo tôi khi nói về sự tồn tại sau cái chết, nên dùng thuật ngữ duy linh. Khi nói về ngoại cảm, nên dùng thuật ngữ lạ hay dị thường. Cuối cùng, nên dùng thuật ngữ tinh thần thay cho tâm linh. Chẳng hạn, nên viết “đời sống tinh thần” thay cho “đời sống tâm linh "
Ngoại cảm làm một khả năng đặc biệt của con người. người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục , nghĩa là khác hẳn với định nghĩa của ĐKC, đây không phải là niềm tin vì thực ra nó là một hiện tượng tồn tại thực tế khách quan , không phụ thuộc vào con người ta có tin hay không tin .Đây cũng không là :"đời sống tinh thần " vì đời sống tinh thần chỉ biểu hiện nhận biết của con người đối với quy luật tự nhiên .Vì là một hiện tượng tồn tại trên thực tế và không phải là một hiện tượng phổ biến, nên việc định nghĩa và giải thích nó tủy theo khả năng tri thức nhận xét về nó. Như vậy , khởi điểm của nhận thức sai dẫn đến quá trình nghiên cứu và kết luận của ông ĐKC đã sai ngay từ khởi điểm .
* " Vì thông tin trên báo chí dựa trên lời kể. Cần lưu ý rằng, nhận thức của chúng ta do sở nguyện và kỳ vọng chi phối; còn ký ức, nhất là về các sự kiện lạ thường, thường không chính xác. Khi ta nghĩ một sự kiện là dị thường, ta chỉ nhớ những gì khẳng định tính dị thường, mà quên mọi thông tin về tính không dị thường của nó "Từ nhận thức sai lầm về hiện tượng Ngoại cảm ở trên nên bước suy luận tiếp theo này không khỏi tránh sai lầm , đó là tính tất yếu đối với ĐKC . Hiện tượng ngoại cảm là một hiện tượng tồn tại thực tế , khách quan , không cần biết ông ĐKC có nhận biết được nó hay không ?
Các cụ ngày xưa có câu : " Nước chảy chỗ trũng " - Như vậy ở đây nước chảy vào chỗ trũng là một quy luật vận động của Thiên nhiên , nó chẳng cần biết con người có nhận thức được điều đó hay không ? Nhận thức được thì con người sẽ sử dụng hiểu biết đó vào cuộc sống , không nhận biết được thì sẽ tạo cho Khổng Minh ngày xưa dâng nước ngập thành lập công .
* " Đưa ngoại cảm vào các phòng thí nghiệm. Nửa đầu thế kỷ 20, người ta dùng các phương pháp khá thô sơ (như đoán ý nghĩ một người đang lật các quân bài). Sau đó là các phương pháp tinh xảo hơn như dùng máy phát màu tự động để nghiên cứu tiên tri những năm 1970 (máy tự động phát ánh sáng một trong bốn màu, nhà ngoại cảm phải đoán màu trước khi ấn nút phát) hay thí nghiệm Ganzfeld để nghiên cứu thần giao cách cảm những năm 1980 (một nhà ngoại cảm lần lượt xem bốn bức tranh rồi gửi ý nghĩ cho một nhà ngoại cảm khác ở căn phòng bên cạnh; người này có nhiệm vụ tìm ra chúng trong số những bức tranh trong phòng)....
PV: Kết quả các thí nghiệm đó thế nào, thưa ông?
ĐKC: Thất vọng. Đoán ý nghĩ người lật bài không thể xem là khoa học, vì nhà ngoại cảm có thể đọc ngôn ngữ cơ thể (hiệu ứng Hans thông minh). Còn các thí nghiệm về tiên tri hay thần giao cách cảm chỉ đạt tỉ lệ thành công khoảng 33-35%, dù giới ngoại cảm học đã rất kiên trì (trong thí nghiệm tiên tri, các nhà ngoại cảm đã bấm nút máy phát hơn một triệu lần!).
PV: Nhưng 35% cũng đã lớn hơn tỉ lệ ngẫu nhiên 25%, cho thấy tiên tri có thật ?
ĐKC: Ban đầu cũng có ý kiến như vậy. Nhưng khi khảo sát cụ thể hơn, người ta thấy một người thiết kế thí nghiệm lại tham gia thí nghiệm và đóng góp 2/3 số kết quả thành công. Vì thế kết quả nghiên cứu không được thừa nhận."
Đến đây ta thấy rằng ông ĐKC khá là ấu trĩ về nhận thức ( mặc dù ông có bằng Tiến sĩ chẳng biết về cái gì ? ). Tương tự như dienbatn đố Tiến sĩ ĐKC dùng toán lớp 4 để giải những bài toán vi phân , tích phân vậy . Điều mà ông ĐKC không thể dùng toán lớp 4 để giải những phương trình vi phân , không có nghĩa là những phương trình vi phân đó sai , cái sai duy nhất ở đây là trình độ còn quá hạn chế , nhận thức còn quá ấu trĩ nên không thể thực hiện được . Ngoại cảm là một hiện tượng tồn tại khách quan và là :"Ngoại cảm làm một khả năng đặc biệt của con người. Người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục ". Để có thể nhận biết và lý giải hiện tượng Ngoại cảm , người ta cần phải có khả năng bước vào một hệ không gian khác có 4 chiều trở lên . Hình học phẳng , nghiên cứu các quy luật của không gian 2 chiều ( rộng và dài ) ; Hình học không gian nghiên cứu các quy luật vận động của không gian 3 chiều ( rộng - dài - cao ). Hình học không gian sẽ bao gồm hình học phẳng , có thể giải thích tất cả các quy luật của hình học phẳng , điều ngược lại tất nhiên là không thể. Điều đó tương tự không thể lấy toán lớp 4 để giải các phương trình vi phân vậy . Đây chính là xuất phát điểm sai lầm của các nhà khoa học ngày nay khi nghiên cứu Lý học Đông Phương chứ không phải chỉ riêng ông ĐKC . Từ vấn đề này , chúng ta phải đi tìm kiếm một phương pháp nghiên cứu khác hẳn để nghiên cứu về hiện tượng Ngoại cảm nói riêng và các vấn đề về Lý học Đông Phương nói chung . Đây cũng chính là nguyên nhân mà hàng ngàn năm nay người ta nghiên cứu về Lý học Đông Phương vẫn dẫm chân tại chỗ và để cho khoa học Phương Tây vượt lên qua mặt , biến Lý học Đông Phương thành cái gọi là " mê tín dị đoan ".
* " Có nhiều nguyên nhân. Trong đó quan trọng nhất là không ai trong nhóm tác giả có kiến thức cần thiết về ngoại cảm. Tôi khẳng định như vậy vì sau đó tôi đã gặp một phó giám đốc một trung tâm nghiên cứu chuyên về tiềm năng con người, còn viện trưởng một viện nghiên cứu thì nhờ tôi tìm tài liệu. Chính vì thiếu kiến thức chuyên ngành nên họ không thiết kế được thí nghiệm có kiểm soát và bị nhà ngoại cảm “làm xiếc”.
Riêng điều này thì ông ĐKC nói đúng . Ngày trước , khi cố GSTS Vũ Tuyên Hoàng còn sống , khi dienbatn và Thiên Sứ đến gặp để trình bày xin đăng ký hoạt động của Trung tâm Nghiên cứu lý học Đông Phương , ông cũng đã nói : " Tôi cũng đã duyệt chi hàng tỷ đồng để Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người hoạt động , nhưng kết quả chỉ là những tài liệu thống kê về hiện tượng Ngoại cảm mà chưa có một báo cáo nghiên cứu nào giải thích bản chất của hiện tượng Ngoại cảm cả ". Điều đó cũng nói lên một điều ngay bản thân cố GSTS Vũ Tuyên Hoàng cũng coi Ngoại cảm là một hiện tượng cần nghiên cứu , nhưng nghiên cứu theo phương pháp luận như thế nào bản thân ông cũng chưa hình dung được . Vấn đề này , dienbatn nhận thấy hiện nay chỉ có những nghiên cứu của cố GS.TS Nguyễn Hoàng Phương trong các tác phẩm : " Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một chiến lược mai sau "(http://www.4shared.com/document/I9tsFyKd/Tich_hop_da_van_hoa_dong_tay ) và tác phẩm cuối đời " Sứ mệnhđức Di Lặc " ( http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn/article?mid=3587 ), là có nhiều kiến giải khá thú vị .
*" Xin lưu ý một vấn đề. “Ngoại cảm giả danh” thì không nói làm gì, vì đó là sự giả danh. Tuy nhiên ngay cả ngoại cảm không giả danh cũng bất lực trước các thách thức mà bạn đọc đã nêu. Trong các bài viết của mình, tôi viết về ngoại cảm không giả danh. Và như đã trình bày, ngoại cảm là không đáng tin, vì không vượt qua được các thử nghiệm có kiểm soát. "
dienbatn lại xin nhắc lại từ khái niệm : " Ngoại cảm làm một khả năng đặc biệt của con người. Người có khả năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, là khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục " . Như vậy , ông ĐKC lại có ý định dùng toán lớp 4 để giải phương trình vi phân rồi . Việc ông ĐKC có nhận biết được hay không , thí nghiệm của ông đúng hay sai thì hiện tượng Ngoại cảm vẫn cứ tồn tại . Không thể có những cái đúng từ những khởi điểm sai cả . Theo tôi , ông ĐKC nên tập trung thời gian vào để đọc những tác phẩm của GS.TS Nguyễn Hoàng Phương ( Có lẽ cũng đã từng dạy ĐKC tại trường Đại học Tổng hợp - Hà Nội ).
Điều cuối cùng dienbatn muốn nêu ra trong bài phản biện này là : Chúng ta cần phải có một phương pháp nghiên cứu khác hẳn những phương pháp đang sử dụng về Ngoại cảm nói riêng và Lý học Đông Phương nói chung . Vấn đề này dienbatn xin nêu ở những bài tiếp theo .
Thân ái - dienbatn .
PM : bài này Thiên Sứ có viết thêm như sau :
" Thực ra tôi cũng chẳng chú ý lắm đến bài này. Bởi vì tôi đã giới thiệu một bài viết phản biện một nội dung tương tự. Nhưng cũng vì cái tật xem lướt của tôi - trước khi xem cẩn thận - thấy câu cuối cực kỳ ấn tượng:
PV: Thật là một đề nghị trị giá hơn 50 triệu đô la Mỹ! Tôi nghĩ là không một nhà ngoại cảm có khả năng thực sự nào cầm lòng được. Xin cảm ơn ông.
Lạy Chúa và cả Đức Ala toàn năng với mười phương chư Phật. Thật tối tăm mặt mũi với con số 50 triệu dol. Ý niệm so sánh tiền với vỏ hến của người Việt thật không đủ để diễn tả 50 triệu dol. Híc. Bởi vậy tôi phải xem toàn bài một cách cẩn thận và chi tiết, để xem làm thế nào để có một ý tưởng tuyệt vời xứng đáng 50 triệu dol.....
..........
Thiên Sứ tôi nghĩ mãi không ra cách nào để có 50 triệu dol. Thôi thì cái thân phận phó thường dân dự khuyết hạng II Nam Bộ đành chịu vậy. Cơm áo gạo tiền, có nhà ở, che mưa, che nắng là may lắm rồi. Nay nhà thì ở thuê, có miếng đất làm "zốn" . mơ ước bán đi để mua cái nhà nhỏ, đi zdìa có con mẹ Ngỗng nhăn như khỉ ăn gừng, thì chẳng may nó nằm trong cái quy hoặch. Híc. Thế là chẳng còn cái đếch gì. Thôi đành cầu xin tấm lòng hảo tâm của tha nhân vậy:
- Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại. Con vốn phó thường dân thân phận ngèo hèn, sống giang hồ, tứ chiếng, lông bông không nhà, không cửa ngót gần 40 chục năm nay. Nay con xin vong linh cô hồn các đẳng. Những người chết trong sóng thần Indo, mà con đoán và báo cho họ trước 10 tháng 24 ngày, mỗi người phù hộ cho con 1 dol để con có gần 300. 000 dol nhậu thịt chó. Con cũng cầu xin các bậc đại gia phá sản trong khủng hoảng kinh tế năm 2008 , mỗi người bố thí cho con 1dol trong 100 dol phá sản của họ, để con có vài tỷ dol sống cho sung sướng. Chưa kể rơi máy bay, lật tàu lừa, lũ lụt...vv....mà con đoán trước. Con chỉ xin mỗi thứ 1/100 để có 50 triệu đô quăng cho chó nhá.
Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại.....
TS. "
Nhận xét
Đăng nhận xét