THỰC TẠI & HOANG ĐƯỜNG 44/b
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (IV)
ĐẠI CHÚNG
--------------------------
PHẦN V: THỐNG NHẤT
“Chính qua cuộc đấu tranh
nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn
nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành
con mồi của ảo vọng”.
A. Anhxtanh
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy
cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
Upanishad
CHƯƠNG IV: ÊTE
“Một con người có thể thành
công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab.
“Nếu toán học quắc thước,
ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập thì vật lý học uyển chuyển, lúc
điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như dòng sông Nin và chúng hợp thành một
quang cảnh hiện thực khách quan vô cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được
tạo dựng bởi thiên nhiên hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi.
(tiếp theo)
Tồn Tại là duy
nhất, tuyệt đối và khẳng định bằng một Không Gian Vũ Trụ vận động “không biết mệt
mỏi” đến… vĩnh hằng. Sự khẳng định ấy là nguyên nhân làm xuất hiện đủ thứ tồn tại
tương đối dưới dạng vật chất và phi vật chất cũng như thời gian.
Có thể nói, Không
Gian làm nên tất cả, kể cả thời gian. Không có Không Gian thì cũng tuyệt nhiên
không có gì và đó là điều không thể đối với “tôi tư duy nghĩa là tôi tồn tại”.
Vạn vật - hiện tượng trong Vũ Trụ đều có nguồn gốc từ Không Gian và sự vận động
của Nó. Suy ra từ quan niệm này thì Không Gian thể hiện ra trước quan sát - nhận
thức dưới hai dạng cơ bản là môi trường và vật chất. Môi trường tuyệt đối, nền
tảng, “cưu mang” toàn bộ vật chất – môi trường tương đối khác có trong Vũ Trụ, chính
là Không Gian Vũ Trụ được hợp thành từ vô vàn hạt KG bình thường (ở trạng thái coi
như chưa bị kích thích). Có thể coi Không Gian Vũ Trụ chính là môi trường ête và
hạt KG bình thường chính là hạt ête mà các nhà vật lý đã hình dung, cố công tìm
kiếm trong một thời gian dài và cho đến tận ngày nay vẫn chưa phát hiện ra.
Nhờ
có hai trạng
thái kích thích tột độ tương phản nhau và sự tương tác bằng phương thức
cảm ứng
tương hỗ giữa chúng mà có thể thấy (dường như) có các lượng Không Gian
nổi trội
lan truyền trong khắp môi trường Không Gian Vũ Trụ. “Vật mang” những
lượng Không
Gian nổi trội ấy chính là những hạt KG kích thích và do đó cũng có thể
thấy (dường
như) những hạt KG ấy chuyển động khắp Không Gian Vũ Trụ với vận tốc cực
đại c.
Chúng tương tác nhau để nếu không triệt tiêu trạng thái kích thích của
nhau thì
“xô đẩy” tránh xa nhau (vì cùng dấu tương phản) và nếu hai trường hợp đó
không
xảy ra thì chúng “hút” nhau, kết hợp với nhau mà tạo thành những thực
thể lớn hơn
vận động trong Không Gian Vũ Trụ. Phải cho rằng tổng lượng Không Gian
kích thích
được bảo toàn tuyệt đối trong suốt quá trình tương tác xảy ra khắp Vũ
Trụ đó.
Nghĩa là nếu xảy ra một sự triệt tiêu kích thích lẫn nhau của một cặp
hạt KG kích
thích nào đó thì đồng thời cũng phải xuất hiện ngay lập tức hai hạt KG
kích thích
tương phản nhau ở đâu đó.(Có thể tưởng tượng: do cấu tạo bắt buộc của
không gian mà đương nhiên có tỷ lệ 3/5 (60%) đối với hạt KG thường và 2/5 (40%) đối với hạt KG kích
thích. Nếu số chỉ khối lượng của một hạt KG kích thích, như có lần
chúng ta xác định bằng 0,1024, thì số chỉ khối lượng của hạt KG thường
(vật chất tối!) có trong Vũ Trụ bằng 0,3072.)
Quá trình tương
tác nói trên là vĩnh cửu, đồng thời là đầu mối duy nhất làm xuất hiện các loại
vật chất khác nhau, các thực thể to nhỏ khác nhau, các hình thức tương tác khác
nhau, các kiểu vận động khác nhau mà con người đã thấy được (và cả chưa thấy được)
trong Vũ Trụ hiện thực khách quan của mình. Có thể chia vật chất thành hai dạng
cơ bản và mang tính tương đối là vật thể và môi trường chất. Cảm ứng Không Gian
là phương thức tương tác duy nhất trong Vũ Trụ. Tuy nhiên, Không Gian Vũ Trụ,
nhằm khẳng định sự tồn tại tuyệt đối của mình, đã phải liên tục biến hóa đến tận
“chân tơ kẽ tóc”, làm nên một toàn thể vận động - chuyển hóa cực kỳ phi phàm, một
quá trình sinh sinh diệt diệt vô cùng bi tráng và kéo dài bất tận. Muốn thế, Không
Gian Vũ Trụ phải phân định, làm xuất hiện những dạng thức tồn tại tương đối khác
biệt nhau, gọi chung là vật chất. Vật chất vận động và tương tác nhau theo những
cách thức tương đối khác nhau hay còn gọi là có tính đặc thù. Có thể phân tương
tác thành hai loại là tương tác gián tiếp và tương tác trực tiếp. Tương tác gián
tiếp là tương tác thông qua môi trường (như tương tác hấp dẫn, tương tác điện từ…)
mà môi trường tuyệt đối, nền tảng cuối cùng của vạn vật - hiện tượng là Không
Gian Vũ Trụ. Tương tác trực tiếp là tương tác coi như không thông qua môi trường,
vật chất vận động tiếp cận nhau, va chạm nhau, chuyển hóa nhau làm biến đổi
nhau ở một mức độ nhất định nào đó từ trạng thái vận động, hình thức tồn tại đến
tính chất vật chất của chúng. Cần phải nhấn mạnh lần nữa rằng vật chất và vận động
dù có biểu hiện muôn màu muôn vẻ đến thế nào chăng nữa thì truy nguyên cho đến
cùng đều có nguồn gốc là Không Gian và Cảm ứng Không Gian, đều chính là các hạt
KG chuyển hóa lẫn nhau. Không Gian là tồn tại tuyệt đối và duy nhất. Vì phải khẳng
định sự tồn tại tuyệt đối và duy nhất đó mà Không Gian phải vận động tuyệt đối
và do đó mà cũng xuất hiện trong Không Gian Vũ Trụ “đủ thứ” tồn tại tương đối.
Nếu tin vào
quan niệm nói trên về Không Gian Vũ Trụ thì chúng ta phải phản biện lại Anhxtanh
như thế này: “Nếu vật chất biến mất thì không gian và thời gian vẫn còn đó. Nếu
cả thời gian cũng biến mất thì quan sát - nhận thức biến mất theo chứ không
gian thì cũng vẫn còn đó. Còn nếu không gian biến mất thì tuyệt đối chẳng còn gì
ngoài Hư Vô. Nhưng Hư Vô thì vẫn là Tồn Tại cho nên không gian không thể biến mất
được. Do đó, khi không gian biến mất thì chỉ có nghĩa rằng quan sát - nhận thức
đã bị tiêu diệt”.
Ngày nay, những
khảo sát và nghiên cứu ngày một sâu vào tầng nấc Vũ Trụ vi mô của Vật lý học hiện
đại đã chỉ ra rằng cái gọi là “khoảng chân không” thực ra không hoàn toàn trống
rỗng mà vẫn có những biểu hiện về biến đổi năng lượng dù rất nhỏ, và được các
nhà vật lý gọi là “thăng giáng lượng tử”.
Chúng ta tin rằng,
càng quan sát sâu vào miền vi mô, tính cấu trúc mạng khối của Không Gian Vũ Trụ
càng thể hiện rõ rệt, và nếu “thấy được” hạt KG thì cũng sẽ thấy được một mạng
khối Không Gian bền chặt cũng như cứng tuyệt đối. Còn nếu từ đó đi ngược lại về
phía vĩ mô, sẽ thấy mạng khối Không Gian đó có vẻ như “loãng” dần, lỏng lẻo dần
cũng như “mềm” dần. Đến tầng nấc vĩ mô mà chúng ta đang hiện hữu thì Không Gian
Vũ Trụ đã được thấy như hoàn toàn trống rỗng và do đó mà cũng xuất hiện một loại
hình vận động đặc thù gọi là sự chuyển động di dời vị trí.
Có ba biểu hiện
cơ bản về tồn tại và vận động ở sâu thẳm Vũ Trụ vi mô trong Vũ Trụ vĩ mô là hiện
tượng hấp dẫn vạn vật, hiện tượng cảm ứng điện từ và hiện tượng lan truyền ánh
sáng. Đó là ba “nhánh” tồn tại, vận động và tương tác tương đối khác nhau nên có
những nét đặc thù khác nhau nhưng về cùng chung một gốc xuất phát nên giữa chúng
có mối quan hệ mật thiết với nhau và có thể thiết lập được một biểu diễn toán học
về mối quan hệ đó. Rất có thể rằng hiện tượng ánh sáng là có tính “trung gian
chuyển tiếp” giữa hai hiện tượng hấp dẫn và cảm ứng điện từ trước quan sát và
nhận thức của con người. Nếu cho rằng cảm ứng điện từ là do những luồng thực thể
vi mô mang điện chuyển động biến đổi (giao động) làm lan truyền kích thích có tính
điện (và từ) trong môi trường Không Gian gây ra, thì hiện tượng hấp dẫn là do
quá trình bức xạ tự nhiên từ hai vật ra các luồng thực thể vi mô nhỏ hơn nữa nhưng
trung hòa điện về phía nhau, tương tác nhau hoặc không tương tác nhau theo cách
nào đó mà gây ra hiệu ứng hút giữa hai vật đó. Nhìn ở góc độ này thì ánh sáng được
thấy như sự lan truyền sóng điện từ, nhìn ở góc độ kia thì lại được thấy giống
như luồng bức xạ đóng vai trò trong tương tác gây ra hiệu ứng hấp dẫn.
Nếu vận tốc
truyền sáng chính xác bằng vận tốc lan truyền cực đại c trong Vũ Trụ, nghĩa là
bằng vận tốc của hạt KG kích thích thì chúng ta có thể coi áng sáng chính là một
luồng gồm các thực thể trung hòa điện có cấu tạo nội tại gồm hai hay vài hạt KG
kích thích phân thành hai lực lượng bằng nhau nhưng tương phản nhau, tạm gọi là
hạt sáng lan truyền theo đường thẳng trong Vũ Trụ vĩ mô.
Trên cơ sở những
quan hiện vừa trình bày, đến đây chúng ta bước sang khảo sát mối quan hệ giữa
quan sát và sự truyền sáng.
Hình
3: Tính tương đối và tuyệt đối của hiện tượng đồng thời trước quan sát.
Giả sử có 5 điểm
được cho là đứng yên tuyệt đối trong chân không (so với ête) được bố trí như
minh họa ở hình 3/a. Tại A và B đặt lần lượt hai bóng đèn và đồng thời được bật
sáng. Tại Q1, Q2, Q3 đặt lần lượt ba trạm quan
sát hiện tượng, trong đó Q2 ở chính giữa Q1 và Q3.
Nếu sự đồng thời bật sáng của hai bóng đèn ở A và B là tuyệt đối chính xác thì
do tốc độ truyền sáng trong chân không là bất biến nên chỉ có quan sát ở Q2
“thấy” được sự đồng thời ấy vì khoảng cách từ A và B đến Q2 là bằng
nhau. Quan sát tại Q1, do khảong cách từ A đến đó ngắn hơn khỏang cách
từ B đến nên sẽ phải thấy đèn ở A bật sáng sớm hơn đèn ở B. Ngược lại và vì lý
do tương tự quan sát ở Q3 sẽ thấy bóng đèn ở B bật sáng sớm hơn bóng
đèn ở A. Chúng ta gọi đây là tính tương đối của hiện tượng đồng thời do vị trí
quan sát gây ra. Tuy nhiên, nếu thực hiện được việc đo đạc các khoảng cách truyền
sáng thì cả ba quan sát Q1, Q2, Q3 đều đi đến
kết luận sự bật sáng của hai bóng đèn ở A và B là đồng thời tuyệt đối một cách
khách quan.
Khi hai bóng đèn
ở A và B đồng thời bật sáng thì từ A và B đồng thời cũng xuất phát hai tia sáng
ngược chiều nhau để một cách khách quan đồng thời đến điểm N với N là trung điểm
của khoảng cách
. Giả sử rằng chỉ có sự đồng thời “đập vào” N của hai tia sáng,
bằng cách nào đó mới làm cho N phát sáng và có ba tia sáng đến được S1,
S2, S3 (xem minh họa ở hình 3/b). Một cách khách quan có
thể thấy chỉ có quan sát ở S2, dù trễ, là quan sát được chính xác nhất
hiện tượng. Một cách chủ quan, nếu chưa xác định được chính xác các khoảng cách
truyền sáng thì cả ba trạm quan sát đều không thể quả quyết được vị trí của N
trong không gian. Dù bất định về vị trí của N và chênh nhau về thời điểm phát
hiện thì cả ba trạm quan sát ấy đều khẳng định sự đồng thời đến N của hai tia sáng.
Chúng ta gọi đây là tính tuyệt đối của hiện tượng đồng thời. Điều cần nhấn mạnh
là dù quan sát ở vị trí nào, ở góc độ nào thì cũng không vi phạm vào nguyên lý
nhân quả, nghĩa là bao giờ cũng thấy sự phát sáng ở A và B xuất hiện trước rồi
mới đến sự phát sáng ở N.
Chúng ta tiếp tục
thực hiện một thí nghiệm giả tưởng khác. Giả sử có hai hệ qui chiến quán tính O
đứng yên và O’ chuyển động đều với vận tốc V so với O. Trên O đặt hai điểm có
thể phát sáng A và B, trên, O’ đặt hai điểm có thể phát sáng A’ và B’ sao cho:
AO = AB = A’O’ = O’B’
Với A, O, B cũng
như A’, O’, B’ thẳng hàng và cùng nằm trùng trên một đường thẳng theo phương của
vận tốc V như mô tả ở hình 4/a và
Hình
4: Tính tương đổi và tuyệt đối của sự bất biến vận tốc ánh sáng
Tại thời điểm
O’ trùng với O, cho các điểm A, B, A’, D’ đồng thời phát sáng, làm xuất hiện
hai tia sáng từ A và B truyền về hướng O và hai tia sáng từ A’ và B’ truyền về
hướng O’. Đối với hai tia sáng xuất phát từ A và B, vì hệ O được cho là đứng yên
tuyệt đối trong chân không nên hai tia sáng cùng có vận tốc bất biến c sẽ phải đồng
thời đến O. Nếu quan sát từ O’, cũng sẽ thấy hai tia sáng đó đồng thời đến O,
hoặc đến điểm N’ của hệ O’ mà tại thời điểm đó N’ trùng với O (xem hình 4/6).
Nếu quan sát tại O’ không biết rằng hệ O’ chuyển động, cũng không thấy hệ O và
tưởng rằng hai tia sáng đó xuất phát từ A’ và B’, thì nó phải đi đến hai nhận định
trái ngược nhau: hai tia sáng phát ra đồng thời và do đó, vận tốc ánh sáng
trong chân không là không bất biến, hoặc nếu cho rằng vận tốc ánh sáng trong chân
không là bất biến và thời điểm xuất phát của hai tia sáng là không đồng thời. Nếu
thực nghiệm chỉ ra rằng hai tia sáng đúng là phát ra đồng thời và cũng đồng thời
đến N’, trong khi đã phát hiện rằng hệ O’ chuyển động đều so với O thì quan sát
tại O’ sẽ phải lựa chọn một trong hai nhận định mới: hoặc phải cho rằng khoảng
cách A’N’ và N’B’, do hệ O’ chuyển động nên phải co, giãn thế nào đó để với vận
tốc bất biến, hai tia sáng phát ra đồng thời từ A’ và B’ cũng đồng thời đến N’,
hoặc phải cho rằng hai tia sáng đó xuất phát từ hai điểm ở ngoài hệ thống, đứng
yên so với hệ thống là A và B, nhận N’ là trung điểm tại lúc hai tia sáng đồng
thời đến đó, nghĩa là vận tốc ánh sáng chỉ bất biến đối với ête chứ không bất
biến đối với quan sát đặt trong hệ chuyển động. Ở đây, nếu quan niệm vận tốc ánh
sáng trong chân không là bất biến tuyệt đối so với ête (Không Gian Vũ Trụ) thì
sẽ rút ra được một điều quí giá là: một khi thực nghiệm xác nhận đúng đắn và chính
xác khoảng cách AO và OB bằng nhau, hai tia sáng thực sự đồng thời xuất phát từ
A và B rồi cũng thực sự đồng thời đến O thì hệ O chắc chắn đứng yên tuyệt đối
trong chân không.
Đối với hai tia
sáng thực sự đồng thời xuất phát từ A’ và B’ truyền đến O’ thì chúng gặp nhau
hay còn nói là điểm đồng thời và duy nhất mà chúng cùng đạt tới là ở đâu? Nếu
quan sát từ O’ xác định chắc chắn rằng hai tia sáng phát ra từ A’ và B’ một cách
đồng thời và cũng đồng thời gặp nhau tại O’ thì hệ O’ phải đứng yên tuyệt đối
trong chân không so với ête và chính hệ O mới chuyển động đều với vận tốc –V. Lúc
này, nếu quan sát ở hệ O sẽ phải đi đến những nhận định như quan sát ở hệ O’
trong trường hợp đầu. Nếu đúng là hệ O mới đứng yên tuyệt đối còn hệ O’ chuyển động
đều với vận tốc V so với hệ O và nếu cho rằng vận tốc truyền ánh sáng phát ra từ
hai điểm trong một hệ chuyển động cũng bất biến so với ête thì cả quan sát từ O
lẫn từ O’ đều thấy điểm đồng thời hai tia sáng gặp nhau chính là N’. (Ở đây, chúng
ta bỏ qua thời gian truyền tín hiệu thông tin đến các trạm quan sát O, O’, nghĩa
là thời gian quan sát các sự kiện là tức thời). Điều này sẽ dẫn đến mâu thuẫn đối
với quan sát và nhận thức ở hệ O’ và rồi cũng phải đi đến nhận định: nếu không
phải là sự co giãn của khoảng cách do chuyển động gây ra thì phải cho rằng vận
tốc truyền sáng trong chân không từ hai điểm (chuyển động) là không bất biến so
với ête. Mặt khác, thật khó mà hình dung được một điểm chuyển động, nghĩa là nội
tại của nó cũng chuyển động, phát ra một tia sáng từ “trong lòng” nó lại không ảnh
hưởng chút xíu nào đến sự truyền sáng của tia sáng ấy. Do đó, chúng ta cho rằng
cần phải quan niệm lại sự bất biến của vận tốc ánh sáng trong chân không so với
ête.
Đối với những hạt
KG ở trạng thái kích thích tột độ, vì không thể duy trì được trạng thái đó nên
chúng phải ngay lập tức, trong khoảng thời gian là đơn vị thời gian nhỏ nhất
tuyệt đối, bằng con đường cảm ứng Không Gian, “trút bỏ” trạng thái đó cho hạt
KG thông thường nào đó ở kề sát nó (nếu không gặp được hạt KG kích thích tột độ
tương phản để dung hòa nhau) và gây ra hiện tượng lan truyền hạt KG kích thích
trong Không Gian Vũ Trụ với vận tốc cực đại và bất biến c (so với ête). Vì hạt
sáng được cấu thành nên từ những hạt KG kích thích đó, nên có thể thấy, vận tốc
toàn phần của nó luôn bằng c nhưng vận tốc truyền thẳng của nó trong Vũ Trụ vĩ
mô, do có sự “cản trở” của hiện tượng chuyển động mà có thể nhỏ hơn c.
Trên cơ sở quan
niệm đó, chúng ta phán đoán rằng khi tia sáng xuất phát từ A’ truyền về phía
O’, dù được sự “ủng hộ” của vận tốc V, nhưng vì vận tốc cực đại trong Vũ Trụ là
c nên tia sáng đó chỉ có thể truyền với vận tốc c. Đối với tia sáng truyền từ
B’ về phía O’, vì bị “cản trở” bởi vận tốc V nên nó sẽ truyền với một giá trị vận
tốc nhỏ hơn một chút so với c. Nghĩa là khi tia sáng truyền từ A’ đạt đến điểm
N’ thì tia sáng truyền từ B’ mới đạt đến điểm O’. Do đó điểm đồng thời mà hai
tia sáng gặp nhau phải nằm đâu đó trong khoảng giữa N’ và O’. Nếu quan sát tại
O thấy điểm đó thì quan sát tại O’ cũng thấy điểm đó do biến cố đồng thời là khách
quan và duy nhất.
Để thấy rõ hơn
nữa, chúng ta xét đến trường hợp khi O trùng với O’, nghĩa là A cũng trùng với
A’ và B cũng trùng với B’. Lúc này không cho phát sáng đồng thời tại các điểm
A. B, A’, B’ nữa mà cho phát sáng đồng thời tại O và O’. Sẽ có hai tia sáng đồng
thời xuất phát từ O truyền ngược hướng nhau về hai phía A và B, và cũng có hai
tia sáng đồng thời xuất phát từ O’ truyền ngược hướng nhau về hai phía A’ và
B’. Đối với hai tia sáng xuất phát từ O, vì hệ O được cho là đứng yên tuyệt đối
trong chân không so với ête cho nên vận tốc của hai tia sáng đều bằng c và dù có
quan sát ở O hay ở O’ thì cũng thấy hai tia sáng đồng thời đạt đến A và B (nếu
bỏ qua thời gian truyền tín hiệu thông tin đến O cũng như O’, hay cho rằng thời
gian quan sát được hiện tượng là tức thời). Đối với hai tia sáng đồng thời xuất
phát từ O’, nếu quan sát ở O’ không phát hiện được sự chuyển động của O’ và phát
hiện được sự đạt đến A’ và B’ của hai tia sáng là không đồng thời (tia sáng đến
A’ sớm hơn tia sáng đến B’), thì quan sát đó phải đi đến quan niệm về sự không
bất biến của vận tốc truyền sáng trong chân không. Còn nếu quan sát ở O’ phát
hiện được sự chuyển động của nó đối với hệ O thì phải đi đến quan niệm về sự co
giãn của khoảng cách do chuyển động gây ra hoặc phải cho rằng vận tốc ánh sáng
phát ra từ điểm chuyển động sẽ không còn mang tính bất biến theo phương chiều
truyền sáng nữa. Nếu quan sát từ O, cũng sẽ thấy hai tia sáng đạt đến A’ và B’
là không đồng thời. Tuy nhiên quan sát từ O sẽ không thấy sự co rút kích thước
nào cả của hệ chuyển động O’ và giải thích rằng do tác động của sự chuyển động
mà vận tốc truyền sáng từ O’ tới A’ nhỏ hơn c trong khi vận tốc truyền sáng từ
O’ đến B’ vẫn bằng c sao cho tia sáng đạt đến A’ sớm hơn tia sáng đạt đến B’ và
không có sự co rút kích thước do chuyển động gây ra nào cả.
Nếu quan sát ở
O’ cho rằng hai tia sáng đồng thời xuất phát từ O’ cùng đồng thời đạt đến A’ và
B’ thì quan sát tại O cũng phải thấy điều đó và quan sát tại O sẽ phải kết luận
rằng vận tốc tia sáng từ O’ đến B’ sẽ lớn hơn c trong chân không so với ête. Kết
luận đó sẽ mâu thuẫn với kết luận rút ra từ suy lý của chúng ta về sự cực đại
tuyệt đối của c. Cần lưu ý rằng giả sử hệ O’ chuyển động với vận tốc c, trong
khi đó có một hạt sáng cũng lan truyền với vận tốc c theo phương trùng với đường
thẳng chứa véctơ vận tốc của O’ và đi qua O’ nhưng ngược chiều với véctơ vận tốc
ấy, thì quan sát ở O’ sẽ phải thấy hạt ánh sáng chuyển động về phía mình với vận
tốc 2c và như vậy hạt sáng đó có gốc xuất phát từ đâu đó bên ngoài hệ O’. Từ đây,
có thể nói rằng vận tốc truyền sáng cực đại trong chân không so với ête là c,
nhưng so với một hệ qui chiếu nào đó, do hiệu ứng của sự cộng vận tốc mà có thể
thấy nó lớn hơn c và cực đại là bằng 2c. Khi chúng ta nói vận tốc c là cực đại
và bất biến trong không Không Gian Vũ Trụ là chỉ nói cho chuyển động của hạt KG
kích thích thôi và hiểu rằng không chỉ có trong chân không mà ở bất cứ đâu,
trong bất cứ vật thể nào và môi trường nào, một hạt KG kích thích bất kỳ cũng
phải luôn luôn chuyển động với vận tốc cực đại và bất biến ấy. Vì ánh sáng có
thể lan truyền với vận tốc c và do tác động của chuyển động mà cũng có thể lan
truyền với vận tốc nhỏ hơn c so với ête, cho nên phải coi vận tốc truyền sáng là
không bất biến và vận tốc cực đại c được coi như vận tốc gọi là “toàn phần” của
sự truyền sáng.
Phép tổng hợp vận
tốc trong cơ học cổ điển là một suy lý toán học chính xác trên cơ sở quán sát trực
quan nên nó có tính chân lý cao độ, khó lòng phủ nhận được. Vận tốc truyền sáng
cực đại C đã là kết luận rút ra được từ hàng loạt trắc nghiệm thực tế, do đó mà
cũng khó lòng bác bỏ được. Việc tác động của một hay nhiều chuyển động có thể gây
biến đổi ở một hay nhiều chuyển động khác, là hiện tượng phổ biến, không loại
trừ nhưng lại không gây ảnh hưởng chút gì đến sự truyền sáng là một điều đáng
ngạn nhiên mà khó hình dung. Vì những lẽ đó, chúng ta cho rằng, phép tổng hợp vận
tốc của cơ học cổ điển và sự không thể vượt qua c của vận tốc chuyển động, bằng
cách nào đó đã “thỏa thuận” với nhau, hòa hợp với nhau để từ đó có thể xây dựng
nên một biểu diễn toán học thỏa mãn cả hai.
Trên cơ sở nhận
định suy lý đó, chúng ta đi đến với thí nghiệm giả tưởng mới. Trong thí nghiệm
này, chúng ta cũng bỏ qua thời gian truyền thông tin (thấy hiện tượng - biến cố
một cách tức thời). Làm như vậy không những không ảnh hưởng “xấu” đến vấn đề
nghiên cứu mà còn thấy được sáng tỏ hơn.
Cũng cho hai hệ
qui chiếu quán tính là O, đứng yên tuyệt đối và O’ chuyển động đều với vận tốc
v so với hệ O trên hình 5/a. Vận tốc v nhỏ hơn nhiều so với c.
Hình
5: Ảnh hưởng của chuyển động và tính cực đại C đối với sự truyền sáng.
Giả sử hai hệ
(phẳng) đó, mỗi hệ được bao bọc bởi một đường tròn có thể phát tín hiệu đến các
trạm quan sát đặt ở O và O’, có tâm là gốc tọa độ của hệ. Hai đường tròn ấy có
bán kính bằng nhau và bằng ct (với c là vận tốc truyền sáng cực đại trong chân
không so với ête, t là thời gian hạt sáng từ O đến đường tròn bao của nó). Chúng
ta gọi hai đường tròn có tâm O và O’ lần lượt là K và K’.
Bây giờ, tại đúng
thời điểm O trùng với O’, đồng thời cho O và O’ phát sáng ra khắp các phương
chiều trong mặt phẳng của mỗi hệ. Trước hết xét các hạt sáng đồng thời xuất phát
từ O ra mọi phía. Vì hệ O đứng yên tuyệt đối trong chân không so với ête, nên các
hạt sáng đó không bị ảnh hưởng bởi chuyển động nào và sẽ lan truyền với cùng một
vận tốc cực đại c và sau một thời gian t, chúng cũng sẽ đồng thời đến “đập” vào
đường tròn K. Dù quan sát từ O hay O’ thì vì qui ước sự truyền tín hiệu thông
tin là tức thời nên đều thấy duy nhất hiện tượng khách quan đó.
Xét đến các hạt
sáng phát đồng thời từ O’ ra mọi phía trong hệ O’. Do hệ O’ chuyển động đều với
vận tốc v so với hệ O (cũng là so với ête) nên có sự ảnh hưởng của chuyển động ấy
đối với các hạt sáng phát ra từ tâm hệ (điểm chuyển động). Dù chuyển động của hệ
O’ có gây ảnh hưởng đến sự truyền sáng như thế nào chăng nữa thì như chúng ta đã
suy đoán, nó phải vừa tuân theo phép tổng hợp vận tốc của cơ học cổ điển, vừa
không được “tạo ra” sự truyền sáng có vân tốc vượt qua giá trị cực đại tuyệt đối
c.
Vậy đối với hạt
sáng truyền từ O’ (tại thời điểm O’ trùng với O) theo phương ngang, cùng chiều
với
, đáng lý ra theo phép tổng hợp vận tốc cổ điển, nó phải có vận
tốc là c+v, nhưng vì c+v>C là phạm luật cho nên vận
tốc của nó chỉ đạt được tối đa là C, nghĩa là theo quan sát tại O, đáng lý ra hạt
sáng đạt đến điểm a’ thì nó chỉ đạt đến điểm a sau khi đi hết đoạn đường ct
(xem hình 5/b). Đối với hạt sáng xuất phát từ O’ (tại thời điểm O’ trùng với O)
cũng truyền theo phương ngang nhưng ngược chiều với
, nếu O’ đứng yên thì trong thời gian t nó sẽ chuyển động với
vận tốc C để đạt đến. Song trong thời gian t, vì cũng đồng thời tham gia chuyển
động có vận tốc
, cho nên nó chỉ có thể đạt đến điểm b’ sau khi hành trình hết
đoạn đường Ob’ với vận tốc
. Đối với hạt ánh sáng xuất phát từ O’ (tại thời điểm O’ trùng
với O) truyền theo phương vuông góc với
và hướng lên trên (hướng
xuống dưới cũng tương tự). Tuân theo phép cộng vận tốc cổ điển (theo nguyên tắc
hình bình hành) và không được vi phạm điều cấm kỵ, đáng lý trong thời gian t đạt
đến điểm d’ thì hạt sáng chỉ đạt đến điểm d và hơn nữa, theo quan sát ở O, nó
phải truyền theo đường xiên
với vận tốc:
Với V1<c là vận tốc truyền sáng
theo phương vuông góc với 
Đối với các hạt
sáng xuất phát từ D’ (tại thời điểm O’ trùng với O), truyền theo mọi phương xiên
khác, bằng lập luận và dựng hình tương tự, chúng ta sẽ xác định được mọi điểm mà
sau t thời gian các hạt sáng đồng thời xuất phát từ O’ cũng đồng thời đạt tới
(chẳng hạn như mô tả trên hình 5/b, ở một phương xiên, đáng lẽ trong thời gian
t, hạt sáng sẽ đạt đến điểm e nhưng thực tế lại đạt đến điểm e’, ở phương xiên
khác và cũng trong thời gian t đáng lẽ hạt sáng đạt đến điểm f’ thì thực tế chỉ
đạt đến điểm f. Toàn bộ những điểm gọi là đồng thời ấy sẽ hợp thành một đường
cong kín được chúng ta vẽ đậm hơn trên hình 5/b, và gọi là “đường đồng thời”, ký
hiệu là D (và D’).
Nếu thí nghiệm
giả tưởng của chúng ta đã diễn giải đúng một cách cơ bản về sự truyền sáng
trong thực tại khách quan của Vũ Trụ vĩ mô thì đường đồng thời cũng phải là một
tồn tại khách quan và do đó nếu thời gian thấy mọi biến cố là tức thời đối với
mọi hệ quan sát thì mọi hệ quan sát ở cả hệ O lẫn hệ O’ đều phải thấy như nhau đối
với hình dạng và kích thước đường đồng thời D’ của hệ O’ trong thí nghiệm giả tưởng
vừa trình bày.
Do cách đặt vấn
đề của thí nghiệm mà có thể thấy đường đồng thời D của hệ đứng yên tuyệt đối O
trùng với đường tròn (đặc trưng cho cấu trúc) k của nó. Trong khi đó, đối với hệ
O’, đường K’ và đường D’ là có thể phân biệt được. Qua đây, cũng có thể nghĩ rằng
đối với những vật thể chuyển động trong Vũ Trụ vĩ mô, không xảy ra hiện tượng tự
co rút nào cả mà chỉ vì hiện tượng truyền sáng trong đó mà tưởng rằng kích thước
của nó co theo phương chuyển động. Sự co rút do chuyển động gây ra, nếu có thì
có lẽ chỉ xảy ra đối với các hạt vi mô, khi mà “vỏ bao ngoài” của chúng không xác
định dứt khoát được, hoàn toàn lệ thuộc vào sự vận động của các thành phần
trong nội tại chúng, liên kết làm nên chúng.
Có thể nào phát
hiện được một hệ vật lý đứng yên hay chuyển động trong chân không so với ête không?
Vì hạt KG thông thường là đứng yên tuyệt đối trong Không Gian Vũ Trụ nên một
khi phát hiện được nó thì lúc đó câu trả lời là khẳng định. Nếu không phát hiện
được hạt KG thông thường (hạt ête) thì còn một cách nữa là làm sao chế được một
dụng cụ đo đủ nhạy để xác định cho được hình dáng và kích thước đường đồng thời
của hệ vật lý cần khảo sát. Đó là một việc cực kỳ khó khăn do giá trị C quá lớn,
sự nhiễu loạn do tương tác giữa ánh sáng với dụng cụ đo và do sự “gây rối” của
thời gian truyền thông tin không đồng đều về các biến cố không thể loại trừ được
trong thực tiễn thí nghiệm. Chẳng hạn, chỉ riêng việc xác định chính xác vận tốc
truyền sáng từ O’ đến a đối với quan sát ở O’ đã thực sự là một khó khăn lớn rồi.
Giả sử gọi vận tốc đó là c’ thì:
c’=c-v
Nếu v’ là vận tốc
trái đất và bằng 3.106
. Biết giá trị c là bằng 3.1010
. Vậy:
c’=3.1010-3.106=3.1010(1-3.10-4)=3.1010.0,9997=2,9991.1010
Nếu đem so với
giá trị c đã được thực nghiệm xác định là 2,9979.1010 thì rõ ràng là c'>c và như thế làm sao biết
được hệ O’ có đứng yên tuyệt đối trong chân không so với ête hay không?
Tình hình vô cùng
khó khăn đó đã dẫn đến quan niệm: đối với hai hệ quán tính có sự chênh lệch
chuyển động là V so với nhau, sẽ không thể biết được hệ nào thực sự chuyển động
so với hệ nào và hơn nữa không có cách nào xác định được trạng thái chuyển động
tuyệt đối của một hệ vật lý quán tính trong không gian. Như vậy trong hai hệ
qui chiếu quán tính ấy, có thể tùy tiện chọn một trong hai hệ là đứng yên so với
hệ kia và quá trình khảo sát khoa học đều đưa ra một kết quả duy nhất.
Nếu quan sát ở
hai hệ đó chỉ “chằm chằm nhìn nhau” mà suy đoán thôi thì quan niệm trên có thể
chấp nhận được. Nhưng quá trình quan sát ngày một sâu rộng để nhận thức ngày một
đích đáng hơn là một quá trình tất yếu khách quan cho nên trước sau gì hai quan
sát ở hai hệ đó cũng phải hướng quan sát ra xung quanh, bên ngoài hai hệ. Chính
vì thế mà quan sát ở cả hai hệ đều xác định được chắc chắn hệ nào chuyển động
so với hệ nào. Trong cuộc sống đời thường cũng thấy rõ điều đó. Sự ngộ nhận chỉ
có thể là do quan sát còn thiển cận, nhận thức còn nông cạn và cũng chỉ mang tính
nhất thời.
Chúng ta gọi một
quần thể các vật chất vận động nào đó là hệ thống không gian nếu các vật chất đó
liên kết với nhau theo cách thức nào đó để có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau, cùng nhau tồn tại. Chẳng hạn Trái Đất và Mặt Trăng là một hệ thống
không gian, Thái Dương Hệ là một hệ thống không gian. Cần thấy rằng vận động (nội
tại) của một hệ thống không gian luôn được duy trì trong trạng thái cân bằng động.
Vì nếu không như thế nó sẽ bị phá vỡ và chấm dứt tồn tại. Nói đến một tổng thể
vận động cân bằng thì phải nghĩ đến một điểm chung nhất, đóng vai trò là trung điểm
duy nhất của toàn bộ hệ thống cân bằng động. Điểm đó được toán học nêu ra và gọi
là “điểm bất động”. Một cách hình thức có thể cho rằng điểm bất động luôn “trôi
nổi” trong không gian theo cách thức và sự ràng buộc nào đấy nhằm mục đích duy
trì tình trạng cân bằng động cho toàn bộ hệ thống mà nó đại diện. Khi có một tác
động ngoại lai gây nguy cơ phá vỡ trạng thái cân bằng động của hệ thống, điểm cân
bằng động lập tức phải thay đổi cách “trôi nổi” sao cho phù hợp để cố gắng duy
trì tình trạng cân bằng động, và nếu sự thay đổi ấy bị ngăn chặn, hệ thống sẽ
không tồn tại như cũ nữa, thậm chí là bị tan vỡ hoàn toàn.
Điểm bất động
“trôi nổi” trong không gian như thế nhưng đối với nội tại hệ thống, nó được xem
là đứng yên thực sự hay có thể nói là đứng yên tuyệt đối đối với toàn bộ vật chất
vận động trong hệ thống, tạo nên nội tại của hệ thống. Nhờ có điểm bất động đóng
vai trò chuẩn mốc mà có thể xác định rõ ràng được mối quan hệ về chuyển động giữa
các vật chất thành phần (vật thể - môi trường chất) trong nội tại hệ thống. Nếu
quan sát trên Trái Đất và quan sát trên Mặt Trăng chỉ “đắm đuối” nhìn nhau thôi
thì cả hai đều không biết được thực sự Trái Đất quay quanh Mặt Trăng hay Mặt Trăng
quay quanh Trái Đất. Nhưng nếu cả hai quan sát ấy cùng xác định được điểm bất động
của hệ thống Trái Đất - Mặt Trăng thì dựa vào điểm đó cả hai quan sát sẽ cùng đi
đến kết quả khảo sát là Mặt Trăng quay quanh Trái Đất. Nếu xác định được điểm bất
động của Thái Dương Hệ thì dựa vào đó cũng sẽ thấy Mặt Trăng quay quanh Trái Đất
và Sao Hỏa để nhận định đích thực hành tinh nào chuyển động so với hành tinh nào,
chuyển động đó như thế nào với vận tốc là bao nhiêu. Kết quả xác định đó có tính
tương đối và chủ quan so với bên ngoài Thái Dương Hệ nhưng cũng có tính tuyệt đối
và khách quan trong phạm vi nội tại hệ thống.
Quay trở lại với
thí nghiệm giả tưởng mà chúng ta đang bàn luận dở dang. Chúng ta đã cho rằng sự
tồn tại đường đồng thời là một hiện tượng khách quan thuần túy cho nên dù quan
sát từ O hay từ O’ và có thể có những nhận xét sai biệt giữa hai quan sát ấy thì
hai quan sát ấy đều phải thấy đường D’ như nhau về hình dạng và kích thước một
cách đồng thời (vì qui ước sự truyền thông tin là tức thời). Điều quan trọng là
cả hai quan sát ở O và O’ đều thấy đúng là vận tốc truyền sáng trong bất cứ trường
hợp nào cũng không lớn hơn giá trị c. Chẳng hạn, đối với hạt sáng phát ra từ O’
đúng thời điểm O’ và O trùng nhau, theo phương vuông góc với véctơ vận tốc
, thì sau thời gian t, nó phải đạt đến điểm d chứ không thể là
điểm đ’ và cả hai quan sát ở O lẫn ở O’ đều phải thấy điểm d duy nhất đó. Có thật
sự là như vậy không? Như đã nói thì đối với quan sát ở O, do tác động ngang của
chuyển động nên hạt sáng phải truyền lệch đi một góc so với phương vuông góc và
do vận tốc truyền sáng có tính giới hạn nên nó phải truyền theo tuyến od với vận
tốc c và sau thời gian t sẽ đạt đến d. Còn quan sát ở O’, quan niệm vận tốc ánh
sáng luôn cực đại bất biến trong môi trường chân không so với ête và đồng thời
cũng phải tuân theo nguyên lý quán tính của Galilê, sẽ đi đến suy luận rằng hạt
sáng sẽ truyền từ O’, theo tuyến o’d’ với vận tốc c và sau thời gian t sẽ đạt đến
điểm d’. Suy luận đó sai lầm vì nếu hạt sáng đạt đến d’ thì quan sát từ O cũng
thấy điều đó, nghĩa là phải thấy hạt sáng truyền với vận tốc lớn hơn c. Vì hệ O
đứng yên tuyệt đối trong chân không cho nên vận tốc truyền của các hạt sáng phát
ra từ o theo mọi hướng đều phải như nhau, phải cực đại, nghĩa là bằng một số c
cực đại bất biến nào đó gọi là vận tốc toàn phần. Do đó việc thấy một hạt sáng
truyền có vận tốc lớn hơn c, đối với quan sát ở O là điều phi lý. Một khi có được
các công cụ đo đủ khả năng quan sát chính xác hiện tượng thì quan sát ở O’ sẽ có
được kết quả thí nghiệm xác nhận rằng hạt sáng sau thời gian t đúng là chỉ đạt đến
điểm d chứ không phải điểm d’, và phải từ bỏ suy luận sai lầm của mình để nhận
thức lại.
Vì cả hai hệ đều
thấy điểm d sau thời gian t một cách đồng thời, cho nên tại thời điểm ấy điểm d
phải đứng yên tuyệt đối trong chân không, nếu thời điểm ấy có độ “dài lâu” bằng
đơn vị thời gian nhỏ nhất tuyệt đối. Nếu thế, đường đồng thời D’ của hệ O’ cũng
là một tồn tại khách quan tuyệt đối, chưa bị quan sát chủ quan “bóp méo” tại thời
điểm ấy. Nghĩa là nếu có một quan sát thứ ba trong hệ qui chiếu quán tính O’’ nào
đó, cũng phải thấy đường O’ đúng như thế về hình dạng và kích thước.
Ba quan sát ở
ba hệ, sau khi đã nhất quán với nhau về điểm đến của hạt sáng thì có thể vẫn không
nhất quán với nhau về điểm xuất phát và độ dài quãng đường truyền sau thời gian
t của nó. Giả sử rằng hạt sáng phát ra tại thời điểm gốc tọa độ o, o’, o’’ của
ba hệ trùng nhau, và cho rằng quan sát ở o lúc này không biết hệ O đứng yên tuyệt
đối trong chân không. Nếu ba quan sát không phát hiện được hạt sáng phát ra từ
hệ nào thì cả ba quan sát ấy đều quả quyết rằng hạt sáng xuất phát từ gốc hệ của
mình để đến d. Với ba nhận định khác nhau đó, hạt sáng được thấy như phải “phân
thân” thành ba hạt sáng, truyền theo ba tuyến có độ dài khác nhau để sau thời
gian t đồng thời hội ngộ, trở lại nguyên hình là một hạt sáng duy nhất tại điểm
d. Hơn nữa điều “đáng sợ” nhất là ở chỗ trong
ba tuyến truyền hạt sáng đó, hoàn toàn có khả năng trên một tuyến nào đó,
hạt sáng phải truyền với vận tốc lớn hơn c. Đó là điều không thể tin được!
Thực ra, điểm
xuất phát của hạt sáng là duy nhất và do đó nó cũng truyền trên tuyến duy nhất để
đến điểm d. Vì đã qui ước hạt sáng được phát ra từ O’ nếu đúng thật là nó xuất
phát từ O’, nhưng phải tại điểm đơn vị thời gian nhỏ nhất tuyệt đối khi mà O’
trùng với O và O’’, nghĩa là phải coi hạt sáng xuất phát từ O’ trong thời điểm
cả O’, O, O’’ trùng với một điểm đứng yên tuyệt đối nào đó trong chân không và
tuyến đường truyền thực của hạt sáng đó có điểm đầu là điểm đứng yên tuyệt đối
mà ở đó điểm gốc của ba hệ trùng nhau và điểm cuối là điểm đứng yên tuyệt đối
d. Vì đã cho rằng hệ O đứng yên tuyệt đối trong chân không nên tuyến od chính là
tuyến thực sự khách quan mà hạt sáng truyền đi và vận tốc truyền trên tuyến đó
cùng lắm cũng chỉ bằng c (cụ thể trong thí nghiệm ở đây là đúng bằng c). Rõ ràng,
nhận định của quan sát ở O’ và O’’ là ngộ nhận nên cũng phạm sai lầm.
Khái niệm đơn vị
thời gian nhỏ nhất tuyệt đối làm xuất hiện nghi vấn là tại thời điểm đó toàn bộ
vật chất, hiện tượng trong Vũ Trụ đều bất động tuyệt đối, nghĩa là Không Gian
tuyệt đối không vận động. Vậy thì lúc đó, trong cái thời khắc cực nhỏ đó có phải
là Hư Vô không? Một bức ảnh chụp phong cảnh, dù cảnh vật trong đó là hoàn toàn
bất động thì đâu vẫn còn đó. Dù quan sát có thấy được hay không, không cần thiết,
cảnh vật trong bức ảnh vẫn tồn tại bởi vì nội tại của bức ảnh vẫn vận động không
ngừng nghỉ để duy trì bức ảnh. Tương tự như vậy, trong khoảnh khắcthời gian nhỏ
tuyệt đối không thể nhỏ hơn được ấy thì nội tại của hạt KG vẫn vận động không
ngừng. Đơn vị thời gian nhỏ nhất trong Vũ Trụ thực lại chính là khoảng thời
gian dài đến… “thiên thu” đối với bất kỳ hạt KG nào. Hư Vô thì cứ vẫn Tồn Tại là
vì thế!
Có một câu hỏi
hay ho được đặt ra là khi hệ O’ chuyển động đều so với hệ O không phải với vận
tốc v nữa mà với vận tốc c và tại thời điểm O’ trùng với O thì O’ phát sáng, tình
hình truyền sáng sẽ xảy ra như thế nào? Rất nhanh chóng, chúng ta trả lời rằng,
vì vừa phải thỏa mãn phép tổng hợp vận tốc trong cơ học cổ điển, vừa phải không
được vượt giới hạn c, nghĩa là vừa đồng thời bị hai điều kiện đó khống chế, cho
nên O’ không thể phát sáng ra bất kỳ phương chiều nào. Hay trả lời cách khác:
O’ không thể phát sáng ra bất cứ hướng nào ngoài hướng “chuyển động” của nó vì
lúc này nó chính là một luồng hạt sáng lan truyền với vận tốc toàn phần c.
Tóm lại, chúng ta
có thể rút ra vài kết luận sau:
- Nếu sự đồng
thời của hai biến cố là sự thực khách quan thì nó mang tính tuyệt đối và giữa
chúng không có mối quan hệ nhân - quả khách quan. Tùy thuộc vào góc độ, trạng
thái vận động của hệ quan sát mà thấy hai biến cố đó tương đối không đồng thời.
- Nếu hai biến
cố có mối quan hệ nhân quả khách quan thì chúng tuyệt đối không đồng thời. Giữa
chúng phải là một quá trình chuyển biến cho nên sự xuất hiện của chúng là có tính
trước - sau và cách nhau một khoảng thời gian nhất định. Bất kỳ quan sát và nhận
thức xác đáng nào đều phải thấy được hiện tượng xuất hiện trước - sau của hai
biến cố đó nghĩa là trước hết phải không được vi phạm luật nhân - quả.
- Vận tốc truyền
cực đại của ánh sáng là c. Trong Vũ Trụ, không thể có một vật thể nào vận chuyển
vượt qua được tốc độ này. Vận tốc truyền sáng trong chân không là không bất biến
hoặc có thể nói chỉ bất biến một cách có điều kiện. Nhưng vì mục đích nhận thức
mà có thể qui ước cho nó luôn cực đại bất biến trong mọi tình huống, mọi phương
chiều ở môi trường chân không.
- Đối với cùng
một hiện tượng, cùng một quá trình vận động vật chất xảy ra trong thực tại khách
quan, các hệ quan sát khác nhau (về góc độ, vê vị trí, về trạng thái vận động của
hệ vật lý đặt trạm quan sát…) có thế thấy khác nhau (về thời điểm xuất hiện, về
thời gian diễn tiến, về qui mô không gian,… và thậm chí là cả về mặt cấu trúc vật
chất). Nguyên nhân của hiện tượng ấy chính là do có sự “lũng đoạn” không thể loại
bỏ được bởi tính chủ quan cố hữu của bản thân quan sát gây ra trong quá trình
khảo cứu. Sự chủ quan trong quan sát - nhận thức có nguyên nhân từ khách quan và
từ chính chủ thể. Sự chủ quan do chủ thể gây ra là khả năng quan sát chưa đáp ứng,
quan sát còn phiến diện, trình độ nhận thức còn thấp dẫn đến nhận xét, kết luận
chưa thỏa đáng, thậm chí là hoàn toàn ngộ nhận, sai lầm. Loại chủ quan này có
thể được loại trừ trong quá trình nâng cao khả năng quan sát và trình độ nhận
thức. Sự chủ quan có nguyên nhân từ khách quan là khả năng quan sát bị giới hạn
một cách tự nhiên, góc độ quan sát, khoảng cách quan sát… và nhất là sự không
thể quan sát được cùng một lúc toàn bộ sự vật, toàn bộ khía cạnh về trạng thái,
một cách tức thời đối với hiện tượng quá trình vận động vật chất đang khảo cứu.
Loại chủ quan này là có tính vốn dĩ, không thể khắc phục được. Tuy nhiên dù các
kết quả thực nghiệm của các hệ quan sát về cùng một hiện tượng, một quá trình tự
nhiên, có khác nhau đến mấy, thì nếu đó là những kết quả hoàn toàn xác đáng, chúng
sẽ không thể vi phạm bất cứ nguyên lý cơ bản nào của tự nhiên, chẳng hạn như
nguyên lý nhân quả, nguyên lý bảo toàn Không Gian… và có thể lập được một biểu
diễn toán học về mối quan hệ giữa chúng và thông qua đó có thể đưa chúng về một
mối, đóng vai trò một qui luật khách quan phổ quát.
Sau hàng loạt
những thí nghiệm giả tưởng và qua đó rút ra hàng loạt những nhận xét, những hết
luận có vẻ khá chí lý, chúng ta thấy rằng đã đến lúc chín muồi để bước và cuộc
thí nghiệm giả tưởng có tầm quan trọng đặc biệt, có thể là then chốt cuối cùng
mở ra một chân trời mới cho nhận thức vật lý.
Cho hai hệ qui
chiếu quán tính O và O’ mà giữa chúng hệ O được cho là đứng yên còn hệ O’ thì
chuyển động đều với vận tốc v so với hệ O (Xem hình 6). Để loại bỏ bớt sự nhiễu
loạn do chủ quan gây ra trong quá trình khảo cứu, chúng ta qui ước hệ O đứng yên
tuyệt đối trong chân không. Nghĩa là hạt sáng phát ra từ O theo mọi phương chiều
đều có tốc độ truyền cực đại bất biến c và vận tốc v là có tính tuyệt đối so với
ête. Chúng ta gọi đường thẳng qua O và O’, trùng phương với véctơ vận tốc
là đường trục tọa độ k
(và k’) của hệ O và O’. Đường trục tọa độ này nhận O (và O’) làm gốc tọa độ của
hệ O (và hệ O’) và nhận chiều của
làm chiều dương.
Hình
6: Thí nghiệm về phát và truyền sáng trong một hệ chuyển động.
Tại thời điểm
O’ trùng với O (có thể qui ước t = 0), trong hệ O’ phát một hạt sáng từ O’ theo
hướng
, lập với trục k một góc
. Sau khoảng thời gian
, khoảng cách giữa hai hệ là vt. Vì v nhỏ hơn rất nhiều so với
c (v << c) cho nên theo nguyên lý quán tính Galilê, quan sát tại O’ phải
thấy hạt sáng luôn truyền theo hướng
và sau t thời gian đạt
được khoảng cách:
L’ = O’A
Tuy nhiên, theo
quan sát từ O, vì hạt sáng “ngay từ đầu” đã sẵn mang thành phần vận tốc v của hệ
O’ chuyển động ngang, cho nên theo phép tổng hợp vận tốc của cơ học cổ điển, nó
không thể truyền theo hướng
mà phải truyền theo hướng
để sau thời gian t đạt
được khoảng cách:
Rõ ràng, việc
cho rằng hạt sáng truyền theo hướng
, sau thời gian t đạt khoảng cách Lo là mang tính khách
quan hơn hẳn nhận định của quan sát tại O’ khi quan sát này (do ảnh hưởng gây
“nhiễu” của chuyển động) cho rằng, hạt sáng phát từ O’, truyền theo hướng
, sau thời gian t đạt được khoảng cách O’A.
Vì chúng ta đã
“láu cá” qui ước ngay từ đầu thí nghiệm rằng hệ O thực sự là đứng yên tuyệt đối
trong chân không (trong ête) nên kết luận mà quan sát tại O rút ra được về điểm
đầu, điểm cuối, cũng như khoảng cách đạt được trong thời gian t của sự truyền đi
của hạt sáng đang xét là hoàn toàn khách quan, phù hợp với thực tại (chứ không
phải phù hợp với thực nghiệm!), thậm chí có thể coi chính là thực tại.
Có thể quan sát
ở O không biết nhưng chúng ta, những kẻ “dựng nên” thí nghiệm này thì “biết tỏng”:
vì luôn luôn phải thỏa mãn điều kiện:
Cho nên trong
trường hợp cụ thể ở hình 6:
và do đó:
Dựa trên minh họa
của hình 6, chúng ta sẽ đi thiết lập biểu diễn toán học về mối quan hệ giữa Lo và L’. Để đỡ rối rắm, trước hết chúng ta đặt l=vt.
Vì:
Lo là cạnh huyền của tam
giác vuông OBA.
Nên chúng ta lập
được:
Vậy chúng ta có
phương trình bậc hai với ẩn số là L' như sau:
Giải ra thì được
hai nghiệm:
Trong hai nghiệm
đó có một nghiệm cho ra khoảng cách âm.
Chúng ta tin rằng
Tạo Hóa, vốn dĩ đã “bở hơi tai” trong việc điều hành, giám sát tồn tại và vận động
của toàn Vũ Trụ quá ư mông lung, hỗn độn rồi nên Ngài chẳng hơi sức đâu mà tạo
thêm ra những thứ dư thừa “vô tích sự”. Chắc rằng nghiệm âm ở đây phải mang một
ý nghĩa nào đó mà chúng ta chưa phát hiện ra. Nhưng thôi, chúng ta hãy tạm loại
nó ra khỏi “cuộc chơi tung hứng” vì đối với chúng ta, chỉ cần nghiệm dương thôi,
cũng đủ dùng để mua vui thiên hạ rồi. Vậy, biểu diễn toán học về mối quan hệ giữa Lo và L’ là:
Ở vế phải của
biểu diễn, nếu chúng ta giữ nguyên ký hiệu Lo ở ngoài dấu ngoặc đơn,
còn trong ngoặc đơn thay:
l=vt
Lo=ct
Lo=ct
sẽ được biểu diễn
mới:
Vì đã có “kinh
nghiệm” trong lần thực hành thí nghiệm giả tưởng mô tả ở hình 5/a và 5/b, nên
chúng ta thấy rằng biểu diễn
chỉ có thể đúng
trong một phạm vi hạn hẹp, khi Lo=ct. Còn nói chung, nếu không có những “biện hộ” cho tính khách
quan, tất yếu của nó, đồng thời vạch ra mặt công cụ toán học đơn thuần để hỗ trợ
cho nhận thức thực tại của nó, thì nó hoàn toàn sai lầm, và cứ cố tình nhắm mắt
sử dụng nó một cách “thiếu hiểu biết”, sẽ dẫn đến những ngộ nhận, nghịch lý tai
hại. Tuy nhiên, có thể thấy biểu diễn
là cách viết tổng
quát dẫn đến những tính toán về thời gian của hai tia sáng truyền theo hai hướng
vuông góc và song song với phương chuyển động của hệ thống thí nghiệm và phản xạ
trở lại điểm xuất phát. Và cũng chính biểu diễn
sẽ chỉ ra ngộ
nhận đáng tiếc về sự co kích thước của vật chuyển động dẫn đến sai lầm “chết người”
trong phép biến đổi Lorenxơ. Vì tiếp thu trọn vẹn sai lầm này nên Anhxtanh cũng
sai lầm nốt.
Dù đã kể thì chúng
ta cũng nên nhắc lại những điểm cơ bản dẫn đến mâu thuẫn không khắc phục nổi của
thí nghiệm Maikenxơn-Moocly để rồi phải giải quyết bằng cách đưa ra ý tưởng về
sự co kích thước của vật chuyển động.
Tin tưởng tuyệt
đối vào phép cộng vận tốc của cơ học cổ điển, người ta đã tính toán ra thời
gian tia sáng đi từ B đến E và phản xạ lại B (theo phương song song với vận tốc
, xem lại hình 1) là:
L ở đây được
cho là khoảng cách giữa B và E của hệ thống đang trong trạng thái chuyển động. Để
khỏi lầm lẫn, chúng ta ký hiệu lại L thành L’//.
Trong khi đó, kết
quả tính toán ra thời gian tia sáng đi từ B đến C rồi phản xạ trở lại B (theo
phương vuông góc với vận tốc
), là:
L ở đây được
cho là khoảng cách giữa B và C của hệ thống đang trong trạng thái chuyển động. Để
khỏi lầm lẫn, chúng ta ký hiệu lại L thành
.
So sánh hai kết
quả tính toán cho thấy hai khoảng thời gian ấy là khác nhau, trong khi kết quả
cho thấy chúng phải bằng nhau vì hai tia sáng cùng xuất phát từ B và trở về đến
B một cách đồng thời.
Mâu thuẫn đó trở
thành một thách thức “dữ dội” đối với các nhà vật lý lúc bấy giờ. Nhiều giả
thuyết được đưa ra nhưng chỉ có giả thuyết về sự co kích thước của Lorenxơ (thực
ra, người đầu tiên đề xuất ý tưởng này là Filzgerald) là hợp lý hơn cả và trên
cơ sở đó đã giải thích thỏa đáng được mâu thuẫn của thí nghiệm Maikenxơn-Moocly.
Lorenxơ cho rằng
khi không chuyển động, khoảng cách giữa B và C, giữa B và E đều bằng Lo, nghĩa là:
Lo=L1=L//
Khi hệ thống
chuyển động với vận tốc v thì:
Mà cụ thể là:
Nhờ thế mà dẫn đến
kết quả thí nghiệm:
Tuy nhiên, sự
thể sẽ ít “mờ ám” hơn nhiều nếu chúng ta dẫn dắt ra từ biểu diễn
để giải quyết mâu thuẫn của thí nghiệm.
Khi cho
thì L' chính là:
Và: 
Khi cho
thì chúng ta phải có:
Khi cho
thì chúng ta có:
Vậy: 
Nghĩa là: t1+t2=2t3
Rõ ràng là khi
hệ thống chuyển động, chẳng xảy ra sự co kích thước nào cả. Nếu cho rằng vẫn có
sự co kích thước thì L1 cũng phải co nhưng điều
quyết địnhlà phải thỏa mãn L// nếu co lại bao nhiêu
khi tia sáng đi từ B đến E thì cũng phải dãn ra bấy nhiêu khi tia sáng từ E trở
về B! Còn không nữa thì chỉ còn cách nghĩ rằng hai tia sáng đi, về trên hai quãng
đường tuy khác nhau nhưng có tổng độ dài bằng nhau với cùng một vận tốc (trung
bình) là C, nếu quan sát từ O. Giả sử có thể hỏi được hai tia sáng ấy: “Sao vậy?”,
chắc là chúng sẽ cười khanh khách nói: “Chúng tớ đi theo khoảng cách chứ đâu có
đi theo kích thước”.
Biểu thức
đã làm một điều “giỏi” như thế nhưng vì
sao chúng ta lại vẫn “chê” nó? Bởi vì bản thân nó cũng mang một mâu thuẫn nội tại
ghê gớm. Dễ thấy là khi
, biểu diễn
phải có dạng:
Từ dẫn dắt của
thí nghiệm giả tưởng ở hình 5, có thể thấy rằng biểu diễn
chỉ đúng “một nửa”. Nghĩa là phải dùng
hai biểu diễn để diễn tả sự truyền sáng từ O’ trên khắp mọi phương chiều, đó là:
Có thể thấy điều
thú vị này từ hai biểu diễn: nếu
là thể hiện phép
tổng hợp vận tốc của cơ học cổ điển bị ánh sáng bắt phải tuân theo nguyên tắc
không được vượt qua giá trị vận tốc cực đại C thì
là thể hiện ánh sáng buộc phải giảm tốc độ
truyền để tuân theo pháp tổng hợp vận tốc của cơ học cổ điển.
Dùng hệ hai biểu
diễn
và
để giải quyết mâu thuẫn, tưởng là “tuyệt
cú mèo”, ai dè, chỉ là một “đống hỗn độn” chủ quan khiên cưỡng và… sai bét nhè!
Chỉ cần đưa ra một thí dụ nhỏ sau đây thôi cũng đủ biết hệ hai biểu diễn ấy là
không thể “xài” được.
Có thể thấy khi
phát sáng từ O’ đồng thời ra khắp các phương chiều, thì cả hai biểu diễn ấy cũng
coi như đồng thời phải triển khai và sẽ xảy ra trường hợp: L'=L.
Thay vế phải của
cho L ở
rồi biến đổi, ước lược, sẽ làm xuất hiện
kết quả:
Muốn thế v phải
bằng 0.
Có thể quan sát
ở O’ coi kết quả đó là hiển nhiên (vì nghĩ là mình đứng yên). Còn quan sát ở O
thì cũng chưa chắc đã dám phủ nhận vì có thể đang phân vân không biết mình đứng
yên hay chuyển động. Đối với chúng ta, “chắc như bắp”, kết quả đó là hoàn toàn
phi lý, vì chính chúng ta chứ không ai khác đã “phù phép” cho hệ O’ chuyển động
với vận tốc v so với hệ O và đến tận lúc này vẫn chưa cho phép nó dừng lại!
Không đồng ý với
Lorenxơ, hệ hai biểu diễn cũng “hỏng”, vậy thì bằng cách nào đây để xây dựng được
một biểu diễn hợp lý (không có mâu thuẫn nội tại) cho mối quan hệ giữa O và O’
trong việc quan sát sự truyền sáng ra từ O’?
Chẳng còn cách
nào khác là phải quay lại với biểu diễn
. Lý do thứ nhất
là vì nó được xây dựng trên cơ sở lập luận khá “rõ ràng và sáng sủa”. Thứ hai là
vì nó được xác lập một cách chắc chắn và chính xác về mặt toán học. Thứ ba là
như chúng ta đã trình bày, nó đã giải quyết được một cách hoàn toàn tự nhiên,
không một chút mắc mứu cái mâu thuẫn huyền bí nảy sinh ra từ thí nghiệm Maikenxơ
- Moocly. Lý do thứ tự là vì nó thỏa mãn một cách không chê vào đâu được hai đòi
hỏi cơ bản, có ý nghĩa sống còn đối với quan niệm của chúng ta (và cũng là đối
với quan sát thực tiễn của vật lý học). Đó là khi v nhỏ hơn nhiều so với c thì
nguyên lý quán tính của Galilê vẫn đúng (thậm chí là hoàn toàn đúng) và vận tốc
c đúng là cực đại tuyệt đối trong Vũ Trụ, bởi vì một khi v=c thì L’ biến mất
hay cũng có nghĩa là một lượng vật chất trở thành Hư Vô, gây ra sự “xâm phạm thô
bạo” đối với nguyên lý bảo toàn Không Gian. Lý do thứ năm là vì điều vô cùng sảng
khoái này: không những hình 6 đã phơi bày ra một cách trực quan hiện tượng
quang sai (là hiện tượng hướng truyền của một tia sáng trên hệ chuyển động O’ bị
lệch đi còn có thể xây dựng công thức toán học để tính giá trị góc lệch ấy. Nếu
gọi góc lệnh ấy là
thì đưa vào thuyết tương
đối hẹp của Anhxtanh, người ta rút ra được:
Nếu tính theo
biểu diễn
thì trước hết,
hình 6 cho chúng ta biết:
Từ đó:
Vì: 
Và: v << c
Nên: 
Theo lượng giác
thì:
Nhớ rằng vì v << c
nên:
Và: 
Hay: 
Cuối cùng, chúng
ta thu được:
Chúng ta cho rằng
bản thân biểu diễn
, sau khi được
xây dựng, cũng trở thành một hiện tượng của tự nhiên đòi hỏi phải nhận thức nó.
Nếu thế thì biểu diễn
phải không có
mâu thuẫn nội tại nào cả và do đó cái mâu thuẫn nội tại mà chúng ta gán cho nó
là do chính chúng ta đã sai lầm trong nhận định, tự tạo ra để làm khổ mình. Xem
xét kỹ lại, té ra chúng ta sai ở chỗ từ yêu cầu đúng đắn ban đầu:
nghĩa là chỉ cấm Lo không được lớn hơn ct
thôi, thì sau đó, chúng ta lại lấy trường hợp cụ thể khi Lo=ct áp đặt cho mọi trường
hợp khác của biểu diễn
, nghĩa là coi
vận tốc truyền sáng từ O’ ra xung quanh là bất biến trên mọi phương chiều mà thực
ra là không bất biến nếu quan sát từ O. Tương tự như vậy, đối với quan sát ở
O’, vì không biết hệ O’ chuyển động (trường hợp v=0) nên cũng tưởng rằng vận tốc truyền sáng từ O’ ra xung quanh
là cực đại bất biến theo mọi phương chiều nhưng thực ra lại không phải như vậy,
nghĩa là cũng chỉ có điều kiện:
Một người quan
sát không thể cùng lúc quan sát hiện tượng từ O và O’, nghĩa là không thể thấy Lo và L’ cùng một lúc. Biểu
diễn
chỉ là sự thỏa
thuận, hợp sức xây dựng của hai quan sát sau khi quan sát, nghiên cứu từ những
số liệu đo đạc được hoặc suy lý từ kết quả định tính thu lượm được. Để tìm hiểu
sâu hơn, chúng ta có thể viết lại biểu thức
như sau:
và nhớ rằng
(trong trường hợp
) là những lượng không bất biến có thể nhỏ hơn nhưng không
bao giờ được vượt quá giá trị ct.
Trước hết, chúng
ta thấy rằng thành phần trong dấu ngoặc đơn ở vế trái của biểu diễn chỉ lệ thuộc
vào
và v mà không lệ thuộc
vào t (nghĩa là bất biến đối với thời gian). Nó chính là biểu diễn chặt chẽ bằng
toán học về sự thỏa hiệp giữa phép tổng hợp vận tốc theo cơ học cổ điển và giới
hạn cực đại c không thể vượt qua đối với mọi chuyển động trong Vũ Trụ.
Bây giờ, chúng
ta lại phải bàn luận đến vấn đề thời gian, thứ mà cùng với không gian, loài người
đã hình dung đi hình dung lại, tranh luận miệt mài từ cổ chí kim và ngày nay tính
huyền bí của chúng hầu như vẫn còn nguyên, thậm chí là “nhờ” thuyết tương đối của
Anhxtanh mà còn huyền bí hơn nữa.
Một đặc tính
thuộc hàng cơ bản nhất của giới sinh vật và có thể dùng nó để phân biệt với giới
vô tri vô giác, đó là sự chủ động tương tác, trao đổi chất với môi trường thiên
nhiên để duy trì sự sống của chúng một cách tích cực. Không phải bỗng dưng mà
giới sinh vật có đặc tính ấy. Nguồn gốc sâu xa của sự tích cực duy trì sự sống ở
giới sinh vật chính là nguyên lý vận động cân bằng: tất cả vật thể, hệ thống, môi
trường và cả bản thân Vũ Trụ đều ở trạng thái vận động cân bằng nội tại và tự động
duy trì sự cân bằng động ấy bằng cách tương tác với môi trường chứa nó, thường
xuyên trao đổi vật chất với môi trường ấy. Một khi có nguy cơ vận động nội tại
mất cân bằng, bất cứ thực thể nào cũng lập tức tự biến đổi và bị biến đổi tương
tác, biến đổi quá trình trao đổi vật chất giữa nó với môi trường một cách phù hợp,
theo hướng bảo đảm sự cân bằng động nội tại không bị vi phạm. Có thể nói một thực
thể biến đổi, chuyển động trong môi trường chứa nó chính là sự thể hiện đồng thời
hai mặt: vận động nội tại cân bằng và vận động mất cân bằng của nó đối với môi
trường. Trong trường hợp gặp “tai biến” bất ngờ, môi trường bị biến đổi đột ngột,
nếu vật thể không kịp biến chuyển vận động theo làm cho vận động nội tại của nó
trở nên mất cân bằng không thể khôi phục so với điều kiện, hoàn cảnh của môi trường
mới, nó sẽ chấm dứt tồn tại (bị tan vỡ, biến chất hoàn toàn chẳng hạn).
Khi môi trường
thiên nhiên hoang dã chuyển biến đến một điều kiện, hoàn cảnh gọi là chín muồi
nào đấy đối với sự sống thì sự sống xuất hiện. Sự sống xuất hiện trong điều kiện
thuận lợi sẽ phát triển nhanh chóng về lực lượng làm biến đổi môi trường và đến
một giới hạn nào đó thì dẫn đến “khủng hoảng” thiếu đối tượng tương tác, thiếu
chất trao đổi đối với những thực thể sống đã định hình phương thức tương tác và
trao đổi chất ấy. Trong số những thực thể sống ấy, một số không chịu nổi sẽ chết
đi, một số chuyển biến dần sang một cách thức tương tác và trao đổi mới và đồng
thời như thế cũng tạo nên sự “giải phóng” môi trường cho số còn lại tiếp tục lối
sống cũ. Trong môi trường sống hữu hạn, quá trình đó cũng chính là quá trình mở
rộng một cách tương đối môi trường sống, đáp ứng sự phát triển của lực lượng sống
để rồi môi trường sống lại bị thu hẹp tương đối, và cứ thế, trở thành cốt lõi của
quá trình có tính chu kỳ, lặp lại theo thời gian trong suốt lịch sử tồn tại của
giới sinh vật.
Quá trình “đi tìm
lẽ sống” đầu tiên nói trên đã là tiền đề làm xuất hiện cảm giác sinh vật để có
thể phân biệt, lựa chọn giữa lợi và hại, cũng như từ đó xuất hiện nhưng biểu hiện
đặc thù khác ở giới sinh vật như: tích cực duy trì sự sống bản thân, ít hay nhiều
đều có biểu hiện chủ động thích nghi và tiến hóa để chủ động thích nghi hơn nữa,
cạnh tranh để sinh tồn.
Cơ sở tự nhiên
cho cảm giác sinh hoạt xuất hiện và tồn tại chỉ có thể là dựa trên nguyên lý tác
động - phản ứng. Quá trình tiến hóa thích nghi ở giới sinh vật sẽ làm cho cảm
giác sinh học ngày càng tinh vi, ngày càng hoàn thiện. Trên cơ sở cảm giác nói
chung mà xuất hiện các loại cảm giác tương đối đặc thù để đáp ứng đầy đủ cho lối
sống tích cực thích nghi, tìm kiếm miếng ăn, né tránh kẻ thù… của các giống loài
sinh vật. Tùy theo cấu tạo sinh học cũng như lối sống ở mỗi giống loài mà một
hay một vài loại cảm giác được ưu tiên lựa chọn và được tăng cường nổi trội. Có
thể phân loại và liệt kê các loại cảm giác đó là, cảm giác nhìn thấy, cảm giác
nghe thấy, cảm giác ngửi thấy, cảm giác nếm thấy, cảm giác sờ thấy, cảm ứng thấy
(nhận biết thông tin bằng sóng siêu âm, bằng từ trường, điện trường, điện từ trường,
bằng cảm biến nhiệt…).
Có thể nói cảm
giác được môi trường thiên nhiên để lựa chọn thích nghi nhằm duy trì sống còn,
cải thiện cuộc sống, tăng cường khả năng tồn tại là yêu cầu cơ bản số một của mọi
thực thể sinh vật, của mọi giống loài sinh vật. Từ cảm giác, sự lặp đi lặp lại
của cùng một cảm giác, sự lưu lại cảm giác trong một khoảng thời gian nhất định
tại đâu đó trong vận động nội tại của thực thể sống, mà đối với động vật bậc
cao là tập trung ở cơ quan thần kinh trung ương, hình thành nên những thứ như cảm
giác hồi ức, bản năng, phản xạ vô điều kiện, phản xạ có điều kiện, kinh nghiệm…
Thành quả cao nhất hình thành trong suốt quá trình cảm giác và tăng cường cảm
giác nhằm nâng cao khả năng thích nghi cũng như khả năng đấu tranh sinh tồn, chính
là sự suy nghĩ – tư duy trừu tượng.
Khi một giống loài
động vật đã được trang bị tư duy, trở thành loài người, thì quan sát (cảm giác
nhìn thấy thông qua cơ quan cảm thụ ánh sáng gọi là thị giác và hệ thần kinh thị
giác) cũng trở thành loại cảm giác tối quan trọng không những đối với cuộc sống
luôn phải cử động, di dời vị trí, mà còn đối với lối sống chủ động, tích cực nhận
biết hiện thực khách quan nhằm mục đích cuối cùng, xét ra thì cũng là sống còn.
Quan sát được
chính là khả năng phân biệt được vạn vật - hiện tượng trong hiện thực khách
quan nhờ vào hai biểu hiện cơ bản của chúng là hình dạng (quảng tính, tính không
gian) và sự biến chuyển (tính vận động). Nhờ có tư duy mà quan sát ở loài người
được tăng cường mạnh mẽ, không những làm cho quan sát trực giác sẵn có trở nên
sâu sắc hơn, chính xác hơn, mở rộng hơn mà còn làm xuất hiện một loại hình quan
sát mới, cũng cực kỳ quan trọng trong nhận thức tự nhiên, đó là quan sát trong
tưởng tượng trên cơ sở kiến thức sẵn có và suy tư.
Từ xa xưa, loài
người đã cảm nhận được sự không đều đặn của những sự biến đổi khác nhau trong
hiện thực khách quan có những sự vật xuất hiện “sớm” hơn, có những sự vật xuất
hiện “muộn” hơn, có những quá trình biến chuyển “chập chạp” hơn, duy trì “lâu hơn,
thì cũng có những quá trình biến chuyển “nhanh chóng” hơn, “mau” kết thúc hơn.
Thuở ban sơ ấy, loài người còn cảm nhận được những biến đổi có vẻ lặp lại, như
trăng khuyết rồi tròn, tròn rồi khuyết, những biến đổi có tính xoay vần như sự
chuyển mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông. Tuy nhiên, cò một loại biến đổi bao trùm lên
tất cả vạn vật - hiện tượng, đó là có một thứ gì đó “trôi” đi như ngày đêm kế
tiếp nhau trôi đi, trở thành cái gọi là “hôm qua”, là “quá khứ”, làm cho mọi giống loài sinh vật, không
biết vì sao, mang một định mệnh không cưỡng được, đó là sinh ra - lớn lên - già
đi và “qua đời”. Quá trình sống du cư, săn bắ htái lượm cũng như sau này là quá
trình sống chăn nuôi, trồng trọt theo mùa màng, đã tự nhiên nảy sinh trong lòng
nó sự đòi hỏi giải so sánh được sự lâu - mau, nhân - chận, sớm - muộn của những
biến đổi trong thiên nhiên với nhau để xác định được sự xuất hiện cũng như khoảng
tồn tại lâu - mau của những trạng thái thời tiết khí hậu khác nhau, tất yếu dẫn
loài người không những đến với ý niệm về thời gian, nêu ra khái niệm thời gian
mà còn dẫn đến những qui ước để định lượng thời gian.
Như vậy, qui ước
đơn vị thời gian và định lượng thời gian dựa trên một vận động vật chất làm chuẩn
mốc là hành động hoàn toàn tự nhiên của loài người, lầ tất yếu khách quan đối với
loài người, khi bước vào tìm hiểu, nhận thức sự biến đổi, nghĩa là sự vận động,
tương tác, chuyển hóa lẫn nhau của vạn vật - hiện tượng. Có thể thấy thời gian
là biểu hiện cơ bản nhất của vận động vật chất. Nhận thức Tự Nhiên Tồn Tại chủ
yếu là các quá trình tương tác và chuyển hóa lẫn nhau của vật chất trong khắp Vũ
Trụ. Đó cũng là vấn đề mà vật lý học đã khám phá ra được không trực tiếp thì cũng
gián tiếp hiện diện thời gian. Dù là tương đối thì thời gian cũng là một tồn tại
và sự tồn tại của nó chính là sự kết hợp giữa vận động có tính khách quan và
qui ước có tính chủ quan của quan sát, nhận thức ở loài người (thực ra ở nhiều
giống loài sinh vật khác nhau cũng có những biểu hiện cảm biết về thời gian, nhưng
tạm gọi là bản năng, mù quáng).
Cũng rất hồn
nhiên thôi, để đo độ lâu - mau, nhanh - chậm của vận động, người ta chỉ cấn qui
ước một đơn vị thời gian là đủ để so sáng, “qui chiếu” và như thế là xác đáng.
Không thể tưởng tượng được lại có thể tồn tại cùng một lúc hai đơn vị thời gian
hoàn toàn khác nhau, không quy đổi được cho nhau một cách tuyệt đối. Chúng ta
cho đó là hoàn toàn phi lý vì nó xâm phạm đến tính thống nhất và duy nhất của Không
Gian Vũ Trụ. Tuy nhiên, do “ảo giác” gây ra bởi chuyển động , cũng có thể tồn tại
hai đơn vị thời gian gọi là “riêng” được phân biệt tương đối so với nhau của
hai hệ thống vận động (chuyển động) khác nhau nào đó.
Với quan niệm
“thời gian trôi” đặc tính của qui ước về thời gian nói trên thì thời gian trong
một hệ quán tính nào đó và thậm chí là trong toàn Vũ Trụ, đều “trôi” như nhau tại
mọi vị trí, theo mọi phương chiều Không Gian. Nhưng như đã nói thì thời gian chỉ
là biểu hiện của vận động trước quan sát, cho nên nó gắn liền với vận động và
chỉ khi một quan sát thấy được sự vận động thì thời gian mới hiện hữu trước
quan sát đó. Có thể nói thời gian là một hiện hữu ảo nhờ có sự vận động và sự “đánh
giá” vận động đó là lâu hay mau, là nhanh hay chậm của quan sát. Thời gian chẳng
trôi đi đâu cả và cũng chẳng cuối theo cái gì từ tương lai, qua hiện tại để “dồn”
về quá khứ cả. Quá khứ, hiện tại, tương lai là do con người “đẻ ra” từ cảm giác
“biết” hồi tưởng, suy tưởng mạnh mẽ nhờ tư duy trừu tượng đã đạt mức “ghê hồn bạt
vía” của mình. Tổ tiên loài người Việt Nam, không biết tự bao giờ, đã đặt
ra một “nghi vấn” mà có lẽ đến ngàn đời con cháu mai sau sẽ không bao giờ trả lời
thỏa đáng được đó là:
Trăng bao nhiêu tuổi
trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi
là núi non?
Chúng ta hãy
quay lại tiếp tục tìm hiểu biểu diễn
’. Cần phải cho
rằng biểu diễn này được thiết lập bởi chủ thể thực hành thí nghiệm giả tưởng ở
hình 6. Trong hiện thực khách quan, một quan sát khó lòng, thậm chí là không thể
nhìn thấy hai hay nhiều hiện tượng xảy ra cùng một lúc, cũng như không thể nhìn
thấy cùng một lúc, tại cùng một vị trí những thể hiện của cùng một diễn tiến, cùng
một biến cố. Tuy nhiên, trong thí nghiệm giả tưởng, nhờ có suy lý mà điều đó hoàn
toàn có thể xảy ra. Biểu thức
’ được xây dựng
nhờ vào khả năng quan sát “siêu phàm” nhưng hợp lý của chủ thể thí nghiệm là thấy
được mọi biến cố, mọi diễn biến xuất hiện và xảy ra đồng thời trong thí nghiệm đó.
Khi bước vào thí
nghiệm, chủ thể thí nghiệm đã cố tình cho hệ O đứng yên (so với bản thân ông ta
và đo đó ông ta tuy đứng ngoài hệ O nhưng cũng coi như thuộc về hệ ấu) và hệ O’
chuyển động với vận tốc v so với hệ O.
Đầu tiên chủ thể
thí nghiệm cho điềm O phát sáng ra mọi hướng. Với quan niệm vận tốc truyền sáng
là cực đại bất biến cũng như sự “trôi” của thời gian là như nhau trên mọi phương
chiều, chủ thể thí nghiệm cho rằng, nếu ở một hướng bất kỳ, kết quả đạt được của
sự truyền tráng là ct, thì ở mọi hướng khác, kết quả của sự truyền sáng cũng là
ct (Có thể suy ra điều đó từ chính biểu diễn
’, khi vận tốc
tương đối giữa O và chủ thể quan sát là bằng không).
Tiếp theo, chủ
thể thí nghiệm tiến hành quan sát, đo đạc và nghiên cứu hiện tượng tia sáng phát
ra từ O’ khi
theo một hướng xiên
(như minh họa ở hình 6). Qua đó, ông ta rút ra những nhận xét quan trọng:
- Đường truyền
thuộc của tia sáng sau khoảng thời gian t chính là:
-
lập với phương của vận
tốc v một góc 
- Nếu quan sát ở
hệ O’, sẽ thấy tia sáng phát ra rừ O’ theo hướng lập với phương của vận tốc v một
góc là
và phương truyền ấy là
bất biến đối với quan sát ở O’. Nghĩa là đường truyền của tia sáng đối với quan
sát ở hệ O’ là 
- Rõ ràng là do
ảnh hưởng của chuyển động mà xảy ra hiện tượng quan sát ở hệ O đứng yên và quan
sát ở hệ O’ chuyển động so với hệ O đã thấy khác nhau đối với cùng một sự truyền
sáng.
- Tuy nhiên một
sự truyền sáng duy nhất (của một thực thể sáng duy nhất), một cách khách quan
không thể cùng một lúc “đi” trên hai tuyến đường khác biệt nhau được (vì vi phạm
nguyên lýbảo toàn Không Gian), cho nên phải kết luận: đúng thực là tia sáng xuất
phát từ O’ nhưng đường truyền
, mới là sự thực khách quan, còn tuyến
chỉ là sự ngộ nhận của
quan sát ở O’ do ảnh hưởng của chuyển động gây ra.
Từ kết quả thí
nghiệm và nhận xét rút ra đó, chủ thể thí nghiệm đi đến xây dựng được biểu diễn
toán học
và
’ để rồi “đâm sầm” vào… mâu thuẫn.
Dựa theo biểu
diễn toán học đó, chủ thể thí nghiệm tính ra được các giá trị L’ (hay (ct)’) mà
ông ta cho rằng quan sát ở O’ “đo” được hay ít nhất cũng tính toán được (một cách
ngộ nhận). Kết quả tính toán của chủ thể thí nghiệm (tất nhiên là theo đơn vị độ
dài và đơn vị thời gian đã qui ước từ trước, và cũng là của hệ O) sẽ phải dẫn đến
nhận định đối với quan sát ở hệ O’, ánh sáng từ O’ ra các hướng với những giá
trị không tuân theo nguyên tắc cực đại bất biến, nghĩa là có những hướng vận tốc
truyền sáng nhỏ hơn c và cũng có những hướng lại lớn hơn c. Sự ngộ nhận đó đã
phủ nhận nguyên lý quán tính của Galilê đồng thời cũng phủ nhận tính cực đại bất
biến của vận tốc truyền sáng trong chân không.
Nhưng có đứng
thực là quan sát ở O’ đã ngộ nhận như thế và sự ngộ nhận đó là mang tính tất yếu
không, hay là do chủ thể thí nghiệm áp đặt? Để trả lời câu hỏi này, chủ thể thí
nghiệm thấy rằng cần phải lặp lại thí nghiệm và lần này ông sẽ dấn thâm làm người
quan sát trong hệ O’.
Những gì trực
tiếp quan sát được ở hệ O’ đã làm cho chủ thể hết sức ngạc nhiên. Từ kết quả thí
nghiệm, đến những nhận xét rút ra từ đó đều hoàn toàn tương tự như khi ông ở hệ
O thực hành thí nghiệm chỉ có điều phải thay các ký hiệu O’ thành O, L’ (hay
(ct)’) thành Lo (hay ct). Rồi ông cũng đi đến biểu diễn toán học giống
hệt như biểu diễn
(hay
’), nhưng lúc này phải coi ánh sáng xuất
phát từ O’ và truyền theo tuyến
mới là sự thực khách
quan, còn những kết quả quan sát trước đây khi ở hệ O chỉ là ngộ nhận. Thế là
thế nào?
Chủ thể thí
nghiệm không nổ lực giải quyết nghịch lý ấy. Bởi vì nghịch lý ấy đe dọa làm đổ
vỡ niềm tin vào những kết quả thực nghiệm, cái nền tảng mà vật lý cổ điển được
xây dựng nên, cũng như đe dọa đến sự tồn tại của quan niệm về vận tốc truyền sáng
là hữu hạn đã được lý thuyết và cả thực nghiệm xác nhận.
Thế rồi, sớm
hay muộn gì chủ thể quan sát, để giải quyết rốt ráo được nghịch lý, sẽ phải đi đến
suy lý cuối cùng và có thể là duy nhất, tạo nên một cách mạng trong quan niệm về
không gian và thời gian. Ông cho rằng khi tia sáng thoát ly khỏi điểm
thì trong chân không (hay trong môi trường ête). Do đó vận tốc
truyền của tia sáng, quan sát từ hệ O hay hệ O’ đều thấy bằng giá trị cực đại bất
biến c. Chính sự “trải nghiệm” của ông trong quá trình thí nghiệm cũng xác nhận
điều đó. mặt khác, biểu diễn
hay
’ không phải được xây dựng một cách tùy
tiện hay “mù quáng” tuân theo phép tổng hợp vận tốc của cơ học cổ điển , mà từ
kết quả quan sát và “đo đạc”. Trong quá trình thí nghiệm đã dẫn đến phải và chỉ
có thể xây dựng biểu diễn toán học ấy theo phép tổng hợp vận tốc của cơ học cổ điển
trong điều kiện bị khống chế bởi giá trị cực đại và bất biến c của vận tốc. Tính
xác đáng của biểu diễn
hay
’ là ở chỗ dù quan sát hiện tượng ở hệ đứng
yên O hay ở hệ chuyển động O’, thì chủ thể thí nghiệm cũng thiết lập được đúng
biểu diễn ấy. Vậy phải cho rằng biểu diễn
là hoàn toàn đáng
tin cậy và nếu có thấy ở nó xuất hiện mâu thuẫn thì phải xem xét lại chính cái
sự “thấy” ấy. Từ biểu diễn
’ có thể viết:
Vì đó là sự tổng
hợp hai vận tốc “có thật” là c và v nên kết quả c’ cũng phải là vận tốc “có thật”
chứ không phải là ngộ nhận như suy diễn lúc đầu (của chủ thể quan sát). Nếu c’
là “có thật” thì nó tuyệt đối không được lớn hơn c. Tuy nhiên, như biểu diễn trên
cho thấy sẽ có ít ra là một giá trị góc
nào đó (chẳng hạn
=180o) làm cho c’>c. Đó chính là cái mâu thuẫn tạo thành “gót
chân Asin” của biểu diễn
’.
Để giải quyết mâu
thuẫn đó, đồng thời cũng bảo vệ được quan niệm c là vận tốc truyền sáng cực đại
bất biến trong chân không Vũ Trụ, chủ thể thí nghiệm chỉ còn nước kết luận rằng
không thể viết:
mà đúng ra phải
là:
Và như vậy, biểu
diễn
’ sẽ được viết
lại:
Từ đó làm xuất
hiện một biểu diễn dẫn đến phải quan niệm lại về vấn đề thời gian:
và hơn nữa, cũng
làm xuất hiện một biểu diễn “đi cặp” với biểu diễn
dẫn đến phải quan niệm lại về vấn đề không
gian, là:
Với niềm tin sắt
đá vào sự đúng đắn của quan niệm tia sáng truyền trong chân không với vận tốc
luôn bằng giá trị cực đại bất biến c, và cũng tin vào sự tồn tại của cái gọi là
“thời gian trôi”, chủ thể thực thành thí nghiệm giả tưởng sẽ phải lý giải hai
biểu diễn có tính cách mạng
và
mà ông “buộc phải” nêu ra và thừa nhận để
tháo gỡ bế tắc, như sau:
- Đối với quan
sát đặt ở hệ O (được cho là đứng yên so với hệ O’) thì thời gian của hệ O(t) trôi
đều đặn ở mọi nơi, trên mọi phương chiều, không gian của hệ O(x) là đồng nhất, đẳng
hướng. Trong khi đó, thời gian của hệ O(t’) được thấy trôi không đồng đều, có
hiện tượng “co - giãn” (nhanh - chậm) theo phương chiều nếu so với sự trôi thời
gian của hệ O, và không gian của hệ O’(x’) là không đồng nhất, đẳng hướng, có
hiện tượng “co - giãn” (ngắn - dài) khoảng
cách theo phương chiều so với không gian của hệ O.
- Ngược lại, đối
với quan sát đặt ở hệ O’ (được cho là chuyển động so với hệ O) thì thời gian của
hệ O’(t’) trôi đều đặn, ở mọi nơi, trên mọi phương chiều, không gian của hệ O’
là đồng nhất, đẳng hướng. Trong khi đó, thời gian của hệ O(t) lại được thấy trôi
không đồng đều, có hiện tượng “co - giãn” (ngắn - dài) khoảng cách theo phương chiều so với không gian của hệ
O’(x’).
- Vì trên cùng
một phương chiều, nếu có sự co - giãn của thời gian thì cũng có sự co - giãn của
khoảng cách và hai co – giãn ấy là có mức độ hoàn toàn như nhau nên bao giờ cũng
có:
Nghĩa là trong
bất cứ hệ nào (O hay O’), bao giờ cũng thấy vận tốc truyền sáng luôn bằng giá
trị bất biến cực đại c.
- Vì quan sát ở
hệ nào trong hệ nào trong hai hệ O và O’ cũng thấy hiện tượng hoàn toàn tương tự
như hệ nào nên phải kết luận rằng sự co - giãn không gian và thời gian theo phương
chiều của một hệ nào đó thể hiện ra trước quan sát từ hệ kia là do hiệu ứng bởi
sự ảnh hưởng đồng thời của sự chuyển động và tình hữu hạn của vận tốc truyền sáng
gây ra, chứ thực ra, một cách tuyệt đối, không có sự co – giãn không gian hay
co – giãn thời gian nào cả. Sẽ thấy rõ ràng hơn nhận định này nếu có thêm một hệ
qui chiếu quán tính O’’ chuyển động có vận tốc
so với hệ O. Quan sát
từ hệ này, sẽ thấy đồng thời có sự co – giãn không gian và thời gian ở cả hai hệ
O và O’ mà về mặt mức độ và thậm chí cả về mặt phương chiều, có sự khác biệt so
với kết quả quan sát từ hệ O đối với hệ O’ và ngược lại, từ hệ O’ đối với hệ O.
(Tuy nhiên, vì vật thể (lượng vật chất liên kết nhau và chiếm một thể tích nào đó)
được cấu tạo nên, xét cho cùng là từ những hạt KG kích thích, cho nên, nhất là đối
với những thực thể vi mô chuyển động với vận tốc lớn đáng kể so với c, cũng có
thể bị co – giãn kích thước do chuyển động gây ra. Nhưng nếu có thế đi chăng nữa
thì phải giải thích hiện tượng theo một cách khác, trên một cơ sở quan niệm khác).
- Giả sử rằng hệ
tọa độ góc của hệ O (có gốc tại O) có trục và chiều dương trùng với véctơ
và đồng thời cũng trùng
với trục của hệ tọa độ của hệ O’ (có gốc tại O’). Hai biểu diễn
và
chỉ ra rằng,
trong hệ tọa độ O’, nếu có một hạt sáng phát ra từ O’, truyền theo hướng lập với
trục k’ một góc
, sau thời gian t’ đạt được khoảng cách x’, thì khi chuyển sang
hệ tọa độ O, coi như hạt sáng đó được phát ra từ O, truyền theo hướng lập với
trục k một góc
, sau thời gian t (được tính theo biểu diễn
), đạt được khoảng cách x (được tính theo
biểu diễn
), hiệu số giữa
và
đúng bằng góc quang
sai.
Những lý giải ở
trên của chủ thể thí nghiệm rất chi là hay ho và phải nói là khá đích đáng. Nhưng
theo ý kiến riêng của chúng ta, những kẻ thực ra là “vừa đá bóng vừa thổi còi”
hay cũng có thể gọi là lũ “ném đá giấu tay”, thì những lý giải đó vẫn chưa triệt
để. Dù đã đi đúng hướng nhưng còn nặng lòng với những quan niệm như đã nói mà
chủ thể thí nghiệm đã không thể đi đến được chân lý đích thực. Dù quan niệm vận
tốc truyền sáng trong chân không luôn cực đại bất biến đã được thực nghiệm xác
nhận thì vì có thể cách tiến hành thí nghiệm chưa phù hợp, nhưng chủ yếu là vì
phương tiện thí nghiệm chưa đủ đáp ứng độ chính xác cần thiết nên bản thân thực
nghiệm cũng chưa đủ độ tin cậy. Trong khi mọi thực thể trong một hệ chuyển động
đều bị sự chuyển động đó gây ảnh hưởng, thì riêng sự truyền sáng lại không bị ảnh
hưởng gì là một điều khó tin. Còn nếu chuyển động được thấy là có ảnh hưởng đến
sự truyền sáng nhưng chỉ làm lệch hướng truyền thôi mà không đả động đến vận tốc
truyền sáng, thì cũng gây sự đáng ngờ không kém. Rõ ràng rằng qua hai biểu diễn
và
, đã thấy hé lộ về tính bất ổn của quan
niệm vận tốc truyền sáng cực đại bất biến trong chân không và cả của quan niệm
về thời gian trôi. Chính quá trình thực hành thí nghiệm, lần lượt dưới hai góc độ
quan sát khác nhau (từ hệ O và từ hệ O’) rồi từ đó lần lượt xây dựng một cách độc
lập hai biểu diễn toán học mà về thực chất, chỉ là một biểu diễn toán học duy
nhất (biểu diễn
) đóng vai trò
là xuất phát điểm dẫn đến hai biểu diễn về không gian và thời gian
và
đã chỉ ra rằng:
- Sự truyền sáng
trong chân không đúng là bị biến đổi bởi sự ảnh hưởng của chuyển động. Có ảnh hưởng
này là do hoặc chuyển động tác động trực tiếp đến hạt sáng (hay tia sáng), hoặc
chuyển động tác động trực tiếp đến quan sát, nhưng thông thường là do cả hai xảy
ra cùng một lúc.
- Vì vậy, sự biến
đổi bởi chuyển động của sự truyền sáng trong chân không trước quan sát là một
hiện thực vừa khách quan vừa chủ quan, hay có thể nói là hiện thực khách quan đã
bị lũng đoạn bởi chủ quan, mà xét cho đến cùng là hoàn toàn khách quan (vì phải
như thế chứ không thể khác).
- Sự biến đổi ấy
thể hiện ra, có khi chỉ là sự lệch hướng truyền sáng, có khi chỉ là sự thay đổi
tốc độ truyền sáng, nhưng phổ biến là đồng thời vừa lệch hướng vừa thay đổi tốc
độ truyền sáng.
- Sự biến đổi ấy
là có qui luật: tuân theo triệt để phép tổng hợp vận tốc (nguyên tắc hình bình
hành) của cơ học cổ điển, đồng thời phải thỏa mãn mặc định c là giá trị vận tốc
giới hạn cực đại. Nghĩa là nếu chia hai vế của biểu diễn
cho cùng một thời gian t (hoặc t’) nào đó
thì sẽ nhận được hai giá trị vận tốc w và w’ nào đó mà nếu chúng không trùng phương
thì cùng với vận tốc v, bao giờ cũng lập được chính xác một hình bình hành vận
tốc, và kể cả trường hợp trùng phương, trong hai vận tốc ấy (w và w’) nếu vận tốc
này bằng c thì vận tốc kia phải nhỏ hơn c và ngược lại.
- Hai biểu diễn
ấy trình bày mối quan hệ nhất quán giữa sự truyền sáng, chuyển động và quan sát
liên quan đến hai hệ qui chiếu quán tính chuyển động vận tốc v so với nhau,
trong đó, một cách tùy ý, nếu chọn một hệ là đứng yên thì hệ còn lại là chuyển động.
Khi chưa có cách nào xác định được sự đứng yên tuyệt đối trong chân không (hay
trong môi trường ête) thì vận tốc v là có tính tương đối và hai biểu diễn, nếu
có đúng thì cũng chỉ đúng đối với các quan sát được cho là ở một trong hai hệ
qui chiếu quán tính đang xét. Hay có thể nói, hai biểu diễn ấy mô tả một hiện tượng
phổ quát khách quan là, trong mọi quan sát chủ quan về thực tại, luôn tồn tại một
sự bất định nhất định và sự bất định ấy là có tính khách quan nên cũng không thể
khắc phục được. (Như vậy, nếu không có sự suy lý hỗ trợ, thậm chí là đóng vai
trò trọng yếu, thì nhận thức sẽ không bao giờ đạt đến tận cùng chân lý).
- Đến đây, có
thể thấy, quan niệm về sự phát sáng từ một hệ đứng yên tương đối (cũng có nghĩa
là chuyển động tương đối), lan truyền trong chân không với vận tốc cực đại bất
biến c trên mọi phương chiều là không thể đứng vững được. (Ánh sáng là vật chất
nên cũng phải vận động tuân thủ nguyên lý Tự Nhiên, phải tương tác và bị tương
tác). Việc thực nghiệm xác nhận sự bất biến của vận tốc c trong sự truyền sáng,
không bị ảnh hưởng bởi tác động của chuyển động chỉ có thể là do thực nghiệm đã
không đủ khả năng phát hiện ra sự chênh lệch quá nhỏ của sự biến đổi vận tốc
truyền sáng trên các phương chiều. Còn thấy rằng, vận tốc v không chỉ có tính tương
đối mà còn hàm chứa cả tính tuyệt đối (so với ête) nữa. Tại thời điểm
thì sự “hội ngộ” ấy xảy
ra trong môi trường ête nên lúc đó O và O’ cũng trùng với điểm ête đứng yên tuyệt
đối Oe nào đó. Giả sử rằng
khi
thì xảy ra sự phát sáng
từ Oe. Chỉ khi đó, nghĩa là chỉ khi được phát ra từ hệ đứng yên
tuyệt đối trong chân không, ánh sáng mới lan truyền với vận tốc cực đại c và bất
biến trên mọi phương chiều. Vận tốc v lúc đó cũng bộc lộ ra tính tuyệt đối của
nó. Tuy nhiên, nếu quan sát từ O và O’, chỉ trong trường hợp lý tưởng (sự truyền
tin tức thời, quan niệm đúng đắn về sự truyền sáng và chuyển động…) mới “thấy” được
hiện tượng ngoạn mục đó, còn trong thực tế là không thể quan sát được.
- Nếu hai biểu
diễn ấy là thực sự đúng đắn thì chúng cũng là một tất yếu khách quan và có tính
duy nhất. Do đó có thể dựa vào chúng và thậm chí phải dựa vào chúng để tiếp tục
nhận thức, tiếp tục nghiên cứu những hiện tượng có liên quan đến chuyển động và
sự truyền sáng. Tuy nhiên, vì hai biểu diễn ấy cũng đồng thời chỉ ra sự tồn tại
không thể khắc phục được của tính bất định trong quan sát, cho nên khi sử dụng
chúng, phải cẩn trọng trong nhận định đối với các kết quả thu được. Chẳng hạn,
có thể suy ra một cách giản đơn từ hai biểu diễn ấy sự bất biến về giá trị vận
tốc truyền sáng đối với ảnh hưởng của chuyển động và do đó, cũng phải đi đến
quan niệm không gian của hai hệ qui chiếu quán tính chuyển động so với nhau là
không đồng nhất và sự trôi thời gian trong mỗi hệ là nhanh chậm khác nhau. Thế
nhưng sự suy ra ấy chỉ là ngộ nhận và do đó mà cũng phạm sai lầm. Đúng ra thì nên
hiểu: không gian ở tầng vĩ mô của Vũ Trụ thực tại là đồng nhất, và trong Vũ Trụ
thực tại không hề có sự trôi thời gian nào cả. Hai biểu diễn
và
chỉ nói lên rằng,
do ảnh hưởng của chuyển động mà kết quả quan sát đối với cùng một hiện tượng
truyền sáng, đặt trên hai hệ qui chiếu quán tính chuyển động tương đối so với
nhau là có sự sai biệt nhau về hướng truyền sáng, độ dài ngắn của khoảng cách
truyền và độ lâu mau của thời gian truyền theo qui luật tỷ lệ của độ dài khoảng
cách và khoảng thời gian tương ứng với nó là bất biến đối với hai quan sát ấy,
hơn nữa là sao cho quan sát nào cũng thấy c
là giá trị vận tốc cực đại giới hạn trong Vũ Trụ. Nghĩa là về mặt toán học,
hai biểu diễn
và
hợp thành một phép biến đổi qua lại nhau
giữa hai kết quả quan sát nói trên, hay nói xác đáng hơn là giữa hai tọa độ góc
lấy phương chiều véctơ
làm đồng trục của hai
hệ quán tính chuyển động tương đối so với nhau.
Qua những nhận
xét trên có thể thấy quan niệm về thời gian trôi hoàn toàn chỉ là do cảm nhận
thuần túy chủ quan tạo ra. Đáng chú ý là trên cơ sở hai biểu diễn
và
có thể chỉ ra
một cách cụ thể sai lầm của nhận định thời gian trong hệ chuyển động trôi chậm
hơn so với sự trôi của thời gian trong hệ đứng yên và thời gian trôi càng chậm
khi vận tốc của hệ chuyển động càng lớn dẫn đến nghịch lý anh em sinh đôi mà chúng
ta đã kể.
Giả sử tại điểm
S (đứng yên) trong hệ chuyển động O’ với vận tốc v, xuất hiện một biến đổi vật
lý nào đó và sau khoảng thời gian t' thì quá trình biến đổi
vật lý đó kết thúc. Theo thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh thì:
với t là khoảng thời gian tồn
tại của quá trình vật lý xảy ra tại điểm S, được “thấy” trong hệ O đứng yên.
Từ đó mà suy ra
rằng thời gian trôi trong hệ O’ chậm hơn thời gian trôi trong hệ O.
Thực ra, cần thấy
rằng, điểm S chỉ đứng yên trong hệ O’ thôi chứ đối với quan sát ở hệ O, nó đang
chuyển động với vận tốc
. Cho nên theo nhận định của quan sát ở hệ O, thời gian tồn tại
của quá trình biến đổi vật lý tại S hoàn toàn tương đương với thời gian điểm S
chuyển động với vận tốc
(song song với trục tọa
độ k’ và cũng là k) và đạt được một quãng đường nào đó. Như thế, theo biểu diễn
3, vì
nên phải có:
Nếu dừng lại ở đây
và với quan niệm thời gian trôi thì cũng “đành” phải nhận định rằng thời gian
trong hệ chuyển động O’ trôi chậm hơn sự trôi của thời gian trong hệ O. Tuy nhiên,
chúng ta còn có biểu diễn
xác định quãng
đường mà điểm S đạt được trong thời gian t, quan sát từ hai hệ trong mối quan hệ
chuyển đổi lẫn nhau là:
Đem chia quãng đường
cho thời gian, chúng ta sẽ có:
Ở đây, có thể
thấy giá trị x', t' là được xác định bởi
chủ thể thí nghiệm, hay cũng là bởi quan sát ở hệ O. Tuy nhiên, một khi quan sát
ở hệ O’ nhận thức được sự chuyển động với vận tốc v của hệ O’ thì cũng đi đến kết
luận rằng, trong khoảng thời gian tồn tại quá trình biến đổi vật lý tại S, điểm
S cũng chuyển động và đạt được quãng đường:
x'=vt'
Vậy thì rốt cuộc,
nhận thức cuối cùng rồi cũng phải rút ra được kết luận gì? Đó là: vận tốc
biến đổi và thời gian tồn tại của quá trình vật lý tại S là tương đương với tốc
độ chuyển động của hệ O’ và thời gian điểm S chuyển động với vận tốc ấy để đạt được
quãng đường x' trong nhận thức của
quan sát ở O’ và x trong quan sát ở hệ O;
hay có thể nói vận tốc biến đổi của quá trình vật lý xảy ra tại S là được thấy
như nhau trong mọi hệ qui chiếu quán tính. Nghĩa là không thể xảy ra trong thực
tại nghịch lý anh em sinh đôi. Nếu cho rằng tuổi thọ của hai anh em sinh đôi bằng
nhau thì do tốc độ biến đổi sinh học cơ thể của người du hành với vận tốc đáng
kể so với giá trị vận tốc c cũng y hệt như vận tốc biến đổi sinh học cơ thể của
người ở lại Trái Đất, cho nên khi người du hành Vũ Trụ quay về Trái Đất, hai người
anh em ấy chẳng thấy xảy ra điều gì bất thường cả, vì họ đều “răng long, tóc bạc”
như nhau. (Trong thực tế, thậm chí người du hành có thể chết sớm hơn nhiều nhưng
đó thuộc về vấn đề khác).
Nói rộng ra, sự
trôi thời gian là không có thực, thời gian chỉ là một thể hiện cơ bản của vận động
vật chất trước quan sát - nhận thức, là thước đo để đánh giá sự lâu mau, nhanh –
chậm của quá trình biến, chuyển hóa hay nói chung là của sự vận động vật chất cụ
thể nào đó trên cơ sở qui ước chung của quan sát - nhận thức về đơn vị đo thời
gian. Thời gian gắn liền với vận động, không có vận động thì chủ thể quan sát có
trực giác tinh nhạy đến đâu đi nữa, có “nhìn lòi mắt ếch” ra cũng không cảm nhận
được thời gian, cũng không “thấy” được thời gian. Cuộc “công phá” thuyết tương đối
hẹp của Anhxtanh, có lẽ, đã đến hồi kết thúc. Nhìn lại, kể từ lúc bắt đầu “xắn
tay áo” lên… trình bày lại thí nghiệm của Maikenxơn – Moocly cho đến nay, chúng
ta có cảm tưởng như thời gian đã… trôi qua hàng thế kỷ rồi. Dù đang mệt nhoài và
tóc râu có phần bạc nhiều hơn trước, thì chúng ta cũng vô cùng phấn khởi đã dám
“cãi lại” thần tượng vật lý học của thế kỷ XX để bảo vệ những luận điểm cơ bản
của triết học duy tồn về Tự Nhiên Tồn Tại. Và (có thể là) đã thành công mỹ mãn.
Chúng ta tin tưởng
sâu sắc rằng, dù có thể còn ở dạng thô sơ (vì kiến thức toán học còn ngây thơ của
chúng ta chỉ cho phép xây dựng được đến đó), thì hai biểu diễn
và
cũng hoàn toàn
đủ năng lực thay thế cho phép biến đổi Lorenxơ trong vật lý học. Có thể thấy phép
biến đổi Lorenxơ được xây dựng dựa trên một phán đoán có tính huyền bí và chỉ là
một phép biến đổi gần đúng. Còn phép biến đổi gồm hai biểu diễn
và
thì được xây dựng
trên cơ sở một tiền đề duy nhất (c là giới hạn trên của vận tốc trong Vũ Trụ), đồng
thời cũng được giải thích tường tận hơn về mặt vật lý và điều quan trọng là được
dẫn dắt một cách tự nhiên, có tính giản dị, trong sáng về mặt toán học.
Để khẳng định sự
xác đáng của hai biểu diễn
và
thì cách thuyết phục nhất là… bắt chước Anhxtanh,
xây dựng nên một lý thuyết cơ học mới. Lý thuyết này phải là sự kết thừa có phê
phán cơ học cổ điển trong điều kiện phải thỏa mãn giá trị c là vận tốc cực đại
giới hạn trong Vũ Trụ mà mọi chuyển động, vận động, truyền tương tác không thể
vượt qua và đòi hỏi có tính sống còn đối với lý thuyết này là ít ra, nó cũng phải
giải thích được hiện tượng vật lý mà thuyết tương đối hẹp đã giải thích, phải được
thực nghiệm thừa nhận tương tự như đối với thuyết tương đối hẹp.
Chúng ta nhất
quyết sẽ thực hiện công việc đó. Nhưng tiếp theo, chúng ta xin kể một câu chuyện
và coi như đây là sự kết thúc có hậu cho những ăn nói bổ bã, liến thoắng “tự mình
cãi cọ với mình”, và những phát biểu văng mạng có phần phởn chí, huênh hoang của
“thằng cha” chủ thể thực hành thí nghiệm giả tưởng cũng như của “lũ ném đá giấu
tay” ở trên.
Vào năm 1851, một
nhà vật lý học người Pháp, tên là Fucô (Leon Foucault) đã thực hiện một thí
nghiệm nhằm chứng tỏ Trái Đất xoay quanh trục của nó. Fucô đã không thể ngờ rằng
thí nghiệm đó của ông trở nên rất nổi tiếng vì những hệ lụy mà nó gây ra cho các
nhà vật lý và ngày nay trong nhiều viện bảo tàng trên thế giới, vẫn còn trưng bày
mô hình của nó.
Trong thí nghiệm
đó, Fucô đã treo một con lắc nặng 28 kg vào đầu một sợi dây dài 67m, đầu dây
kia được neo chặt tại đỉnh vòm của điện Pantheon ở Pari bằng cách sao cho hầu
như loại bỏ được ảnh hưởng của ma sát và tác động do sự tự xoay của Trái Đất lên
con lắc đó. Khi cho con lắc dao động thì quá trình dao động của nó đã thể hiện
ra một điều đặc biệt là, nếu thả con lắc dao động theo hướng Bắc – Nam, vài giờ
sau nó sẽ dao động theo hướng Đông – Tây; nghĩa là có hiện tượng mặt phẳng dao động
của con lắc xoay quanh trục vuông góc với mặt đất và đi qua điểm cân bằng của nó
(chúng ta dùng từ “xoay” thay cho từ “quay” vì coi như đã loại bỏ được tác động
của chuyển động Trái Đất quanh Mặt Trời lên con lắc!). Ở Pari, do bị chi phối bởi
vĩ độ nên sự xoay đó chỉ “quét” được một phần nào đó của hình tròn trên mặt phẳng
cố định và song song với mặt đất. Nếu thực hiện thí nghiệm tại Bắc cực hay Nam cực
thì mặt phẳng dao động của con lắc sẽ xoay đúng một vòng sau 24 tiếng.
(còn nữa)
(còn nữa)
Nhận xét
Đăng nhận xét