|
Wikipedia tiếng Việt không bảo đảm tính pháp lý cho các thông tin có liên quan đến y học và sức khỏe.
Đề nghị liên hệ và nhận tư vấn từ các bác sĩ hay các chuyên gia. |
Khi các tế bào bình thường bị tổn thương hoặc lão hóa thì chúng thường bị
apoptosis hoặc
kiếm chế tế bào; tuy nhiên, những tế bào ung thư bằng cách nào đó đã tránh những con đường trên và tăng sinh không thể kiểm soát
Ung thư là một nhóm các
bệnh liên quan đến việc
phân chia tế bào một cách vô tổ chức và những
tế bào đó có khả năng xâm lấn những
mô khác bằng cách phát triển trực tiếp vào mô lân cận hoặc di chuyển đến nơi xa (
di căn). Hiện có khoảng 200 loại ung thư.
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây ung thư là sự sai hỏng của
ADN, tạo nên các
đột biến ở các
gene thiết yếu điều khiển quá trình
phân bào
cũng như các cơ chế quan trọng khác. Một hoặc nhiều đột biến được tích
lũy lại sẽ gây ra sự tăng sinh không kiểm soát và tạo thành
khối u.
Khối u là một khối mô bất thường, có thể
ác tính, tức ung thư hoặc
lành tính,
tức không ung thư. Chỉ những khối u ác tính thì mới xâm lấn mô khác và
di căn. Khái niệm ác hay lành tính ở đây nên hiểu về mặt
giải phẫu bệnh học nhiều hơn là về khả năng gây
chết người. Thật vậy, một người có thể sống nhiều năm với một
ung thư hắc tố da, trong khi một khối u "lành tính" trong
hộp sọ có thể chèn ép
não gây
tàn phế hoặc tử vong.
Ung thư có thể gây ra nhiều
triệu chứng khác nhau phụ thuộc vào vị trí, đặc điểm và khả năng di căn của khối u.
Chẩn đoán xác định ung thư thường đòi hỏi phải
sinh thiết rồi quan sát trên
kính hiển vi. Người bị ung thư có thể được chữa trị bằng
phẫu thuật,
hóa trị liệu hoặc
xạ trị liệu.
Nếu không được chữa trị sớm, hầu hết các loại ung thư có thể gây
tử vong,
đây là một trong những nguyên nhân gây tử vong chính trong những nước
phát triển. Hầu hết các bệnh ung thư có thể chữa trị và nhiều bệnh có
thể chữa lành, nếu được phát hiện và
điều trị sớm.
Nhiều dạng ung thư có liên quan đến các yếu tố
môi trường mà có thể tránh khỏi.
Hút thuốc lá là một trong những yếu tố gây nguy cơ ung thư nhiều nhất.
Chẩn đoán ung thư
Hầu hết các ung thư lần đầu được chẩn đoán dựa vào các triệu chứng
xuất hiện hoặc nhờ vào quá trình tầm soát. Qua đó không thể chẩn đoán
xác định được mà phải nhờ vào sinh thiết. Một số trường hợp ung thư khác
được chẩn đoán tình cờ nhờ khi đang khám hoặc điều trị bệnh khác.
Dấu hiệu và triệu chứng
Ban đầu,hầu hết bệnh nhân ung thư không có triệu chứng lâm sàng rõ
ràng. Khi xuất hiện triệu chứng rõ rệt thường là khi bệnh đã tiến triển
trầm trọng. Thông thường,ung thư có thời gian ủ bệnh(tức là thời gian từ
khi một tế bào bị đột biến thành tế bào ung thư đến khi các triệu chứng
của bệnh được bộc lộ) khá dài, khoảng 10 năm hoặc hơn nữa tùy thể loại
ung thư. Do đó cách phòng và điều trị ung thư hiệu quả nhất được khuyến
cáo là nên đi khám sức khỏe định kì 6 tháng một lần.
Do ung thư là tập hợp của nhiều dạng bệnh ung thư khác nhau nên triệu
chứng của ung thư rất đa dạng và khác nhau ở tùy thể bệnh ung thư.
Đại khái, triệu chứng của ung thư được phân làm ba nhóm chính:
- Triệu chứng tại chỗ: các khối u bất thường hay phù nề, chảy máu (hemorrhage), đau và/hoặc loét (ulcer). Chèn ép vào mô xung quanh có thể gây ra các triệu chứng như vàng da.
- Triệu chứng của di căn (lan tràn): hạch bạch huyết lớn lên, ho, ho ra máu, gan to, đau xương, gãy xương
ở những xương bị tổn thương và các triệu chứng thần kinh. Đau có thể
gặp ở ung thư giai đoạn tiến triển, nhưng thông thường đó không phải là
triệu chứng đầu tiên.
- Triệu chứng toàn thân: sụt cân, chán ăn và suy mòn, tiết nhiều mồ hôi (đổ mồ hôi trộm), thiếu máu và các hội chứng cận u đặc hiệu, đó là tình trạng đặc biệt được gây ra bởi ung thư đang hoạt động, chẳng hạn như huyết khối (thrombosis) hay thay đổi nội tiết tố.
Mỗi vấn đề nêu trên đều có thể gây ra bởi nhiều bệnh lý khác nhau (được xem như là
chẩn đoán phân biệt). Ung thư có thể là một bệnh lý thường gặp hay hiếm gặp gây ra các triệu chứng này.
Sinh thiết
Một biểu hiện ung thư có thể gợi ý đến nhiều nguyên nhân khác nhau,
nhưng để chẩn đoán xác định độ ác tính thì phải cần đến khám nghiệm
vi thể tế bào ung thư của các
nhà giải phẫu bệnh. Thủ thuật để lấy được tế bào và/hoặc các mẫu bệnh phẩm, và khám nghiệm chúng được gọi là
sinh thiết. Chẩn đoán mô học sẽ xác định loại tế bào ung thư đang tiến triển, mức độ ác tính (mức độ
loạn sản), sự lan tràn và kích thước của chúng.
Di truyền học tế bào và
hóa mô miễn dịch có thể cung cấp các thông tin về xu hướng phát triển sau này của ung thư (tiên lượng) và phương pháp điều trị tốt nhất.
Tất cả ung thư đều có thể được chữa trị nếu như khối u được cắt bỏ
hoàn toàn, và đôi khi điều này có thể thực hiện bởi sinh thiết. Khi toàn
bộ khối mô tổn thương bất thường được loại bỏ, bờ của bệnh phẩm phải
được khám xét cẩn thận để xác định chắc mô ác tính đã thực sự được loại
bỏ. Nếu ung thư lan tràn đến vị trí khác của cơ thể (di căn), phẫu thuật
cắt bỏ hoàn toàn là không thể.
Bản chất của sinh thiết phụ thuộc vào cơ quan khám nghiệm. Nhiều sinh
thiết (như là sinh thiết da, vú hay gan) có thể thực hiện ngoại trú.
Sinh thiết những cơ quan khác thì được tiến hành dưới điều kiện
vô cảm và
phẫu thuật.
Chẩn đoán giai đoạn ung thư
Hiệp hội chống ung thư quốc tế đã phát triển một hệ thống phân chia giai đoạn của các khối u ác tính gọi là
TNM (T:
tumor - khối u, N:
node - hạch lympho, M:
metastasis - di căn).
Trong một vài ung thư cụ thể, một số bảng phân loại khác lại thích hợp hơn, thí dụ hệ thống xếp loại FAB (
French-American-Bristish cooperative group) dùng cho một số
bệnh bạch huyết.
Tầm soát
Tầm soát ung thư là thử nghiêm nhằm thăm dò các dạng ung thư nghi ngờ
trong quần thể dân cư. Các thử nghiệm tầm soát phù hợp phải có thể đáp
ứng được cho một số lượng lớn người khỏe mạnh, an toàn, không xâm nhập
đồng thời có tỷ lệ dương tính giả thấp chấp nhận được. Khi triệu chứng
ung thư được phát hiện thì các phương pháp chẩn đoán kế tiếp thâm nhập
hơn và có khả năng khẳng định hơn được thực hiện để xác nhận chẩn đoán.
Tầm soát ung thư có thể giúp phát hiện sớm bệnh. Chẩn đoán sớm giúp
kéo dài đời sống. Một số thử nghiệm tầm soát đã được triển khai. Tầm
soát ung thư vú có thể được thực hiện bởi
tự khám vú. Tầm soát bằng chụp
tuyến vú
phát hiện được khối u sớm hơn cả tự thăm khám, và nhiều nước sử dụng nó
để tầm soát một cách hệ thống tất cả các phụ nữ trung niên. Ung thư đại
trực tràng có thể được phát hiện nhờ vào
xét nghiệm máu tiềm ẩn trong phân và
soi đại tràng,
chúng giúp làm giảm đi cả tỷ lệ mắc bệnh và tử vong nhờ phát hiện và
loại bỏ các polyp tiền ác tính. Một cách tương tự, xét nghiệm tế bào học
cổ
tử cung (sử dụng
Pap smear) giúp xác định và cắt bỏ các tổn thương tiền ung thư. Qua thời gian, những thử nghiệm như vậy đã dẫn đến giảm rõ rệt tỷ lệ
ung thư cổ tử cung và tỷ lệ tử vong. Nam giới được khuyên
tự khám tinh hoàn bắt đầu từ tuổi 15 để phát hiện
ung thư tinh hoàn.
Ung thư tiền liệt tuyến (nhiếp hộ tuyến) có thể được tầm soát nhờ vào
khám trực tràng bằng ngón tay cùng với thử máu tìm
kháng nguyên đặc hiệu tiền liệt tuyến (PSA).
Tầm soát ung thư là vấn đề còn bàn cãi trong những trường hợp khi
không biết chắc nó có thực sự cứu mạng sống hay không. Tranh cãi đặt ra
khi không rõ là liệu lợi ích từ việc tầm soát có hơn hẳn nguy cơ của các
xét nghiệm chẩn đoán tiếp theo và điều trị ung thư. Ví dụ trong trường
hợp tầm soát ung thư
tiền liệt tuyết,
xét nghiệm PSA có thể phát hiện những ung thư nhỏ mà sẽ không bao giờ
trở nên đe dọa đến tính mạng, nhưng khi đã được chẩn đoán thì sẽ dẫn đến
điều trị. Tình trạng này gọi là
chẩn đoán quá mức,
đưa con người đối diện với nguy cơ các biến chứng của điều trị không
cần thiết như là phẫu thuật hay xạ trị. Những thủ thuật tiếp theo được
sử dụng để chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến (như
sinh thiết tiền liệt tuyến) có thể gây ra các tác dụng phụ, như chảy máu và nhiễm trùng. Điều trị ung thư tiền liệt tuyến có thể dẫn đến viêc
đái són (mất khả năng kiểm soát dòng nước tiểu) và
rối loạn cường dương (cương không đủ cho
giao hợp). Tương tự đối với
ung thư vú,
gần đây có những phê bình về chương trình tầm soát ung thư ở một vài
nước đã gây là nhiều bất cập hơn là lợi ích thu được. Đó là vì tầm soát
phụ nữ trong quần thể rộng sẽ gây ra một số lớn dương tính giả cần khảo
sát tiếp theo để loại trừ ung thư, dẫn đến tăng số cần điều trị (hay số
cần tầm soát) để phòng ngừa hay bắt gặp một trường hợp ung thư vú giai
đoạn sớm.
Về phương diện y tế công cộng, tầm soát ung thư cổ tử cung bằng
Pap smear
có hiệu quả - chi phí tốt nhất trong các dạng tầm soát ung thư vì ung
thư này có yếu tố nguy cơ rõ ràng (tiếp xúc qua đường tình dục) và diễn
tiến tự nhiên chậm qua nhiều năm do đó cho phép chúng ta có thời gian để
tầm soát và phát hiện bệnh sớm. Hơn nữa, xét nghiệm này cũng dễ thực
hiện và tương đối rẻ tiền.
Sử dụng chẩn đoán hình ảnh để truy tầm ung thư ở những người không có
triệu chứng rõ ràng cũng có những vấn đề rắc rối tương tự. Nguy cơ tăng
đáng kể trong việc phát hiện những khối u mà gần đây được gọi là
khối u tình cờ - đó là tổn thương lành tính được xem là ác tính để rồi trở thành điểm ngắm cho các thăm dò nguy hiểm khác.
Vì những lý do này, điều quan trọng là lợi ích và nguy cơ của quá
trình chẩn đoán và điều trị phải được cân nhắc khi tiến hành tầm soát
ung thư.
Các loại ung thư
Ung thư có thể được phân loại dựa theo tính chất
giải phẫu bệnh hoặc theo cơ quan bị tổn thương.
Các tế bào ung thư trong một khối u (bao gồm cả tế bào đã di căn) đều
xuất phát từ một tế bào duy nhất phân chia mà thành. Do đó một bệnh ung
thư có thể được phân loại theo loại tế bào khởi phát và theo vị trí của
tế bào đó. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người ta không xác định
được
khối u nguyên phát.
Ung thư ở người lớn
Ở
Mỹ và các nước phát triển khác ung thư chiếm khoảng 25% trường hợp chết do mọi nguyên nhân
1. Theo thống kê hàng năm thì khoảng 0,5% dân số được chẩn đoán ung thư.
Đối với đàn ông trưởng thành ở Mỹ, các loại ung thư hay gặp là
ung thư tiền liệt tuyến (33% của tất cả các loại ung thư),
ung thư phổi (13%),
ung thư đại trực tràng (10%),
ung thư bàng quang (7%) và
u hắc tố
ở da (5%). Nguyên nhân tử vong do ung thư phổi hay gặp nhất (31%), sau
đó là ung thư tiền liệt tuyết (10%), ung thư đại trực tràng là (10%),
ung thư tụy (5%) bệnh ung thư bạch cầu (4%)
1.
Đối với phụ nữ trưởng thành ở Mỹ,
ung thư vú hay gặp nhất (32% của tất cả các loại ung thư) theo sau bởi ung thư phổi (12%), ung thư đại trực tràng (11%),
ung thư nội mạc tử cung (6%) và
u lympho bào không Hodgkin
(4%). Theo nguyên nhân tủ vong, ung thư phổi lại là dẫn đầu (27% trong
tống số chết do ung thư), theo sau bởi ung thư vú (15%), ung thư trực
tràng (10%),
ung thư buồng trứng (6%) và ung thư tụy (6%)
1.
Những con số thông kê này thay đổi theo từng nước.
Những ung thư khác:
- Ung thư biểu mô: ung thư da (thực tế đây là ung thư hay gặp nhất nhưng lại không đựoc phân loại theo thống kê sức khỏe), ung thư cổ tử cung, carcinoma hậu môn, ung thư thực quản, carcinoma tế bào gan, ung thư thanh quản, carcinoma tế bào thận, ung thư dạ dày, nhiều loại ung thư tinh hoàn và ung thư tuyến giáp.
- Bệnh lý ác tính về huyết học (máu và tủy xương): leukemia (bệnh bạch cầu), u limpho bào, bệnh đa u tủy, ung thư máu
- Sarcoma (ung thư mô liên kết): sarcoma xương, sarcoma sụn, sarcoma cơ vân.
- Có nguồn gốc hỗn hợp: u não, u mô đệm đường tiêu hóa (GIST), u trung biểu mô (ở màng phổi hay màng tim), u tuyến ức, u quái, u hắc tố.
Ung thư ở trẻ em
Ung thư có thể xảy ra ở trẻ nhỏ và thiếu niên. Ở đó các tiến trình di
truyền bất thường, mà không có khả năng bảo vệ chống lại sự phát triển
bất thường của các dòng tế bào bệnh lý, xảy ra rất sớm và có thể diễn
tiến rất nhanh chóng.
Lứa tuổi có tỷ lệ ung thư cao nhất là năm đầu tiên của cuộc sống.
Bệnh bạch cầu (thường là
bệnh bạch cầu nguyên bào lymphô cấp -
acute lymphoblastic leukemia hay
ALL) là dạng ung thư hay gặp nhất ở trẻ nhũ nhi (30%), theo sau đó là ung thư hệ thần kinh trung ương và
u nguyên bào thần kinh (
neuroblastoma). Phần còn lại thuộc về
u Wilms,
u lympho bào,
sarcoma cơ vân,
u nguyên bào võng mạc (
retinoblastoma),
sarcoma xương và
sarcoma Ewing.
Bé gái và trai có chung về tỷ lệ ung thư, nhưng trẻ nhỏ da trắng có
tỷ lệ ung thư cao hơn trẻ nhỏ da đen trong hầu hết các dạng ung thư. Tỷ
lệ sống sót đối với trẻ nhỏ là rất cao trong các trường hợp u nguyên bào
thần kinh, u Wilms và u nguyên bào võng mạc, và tương đối cao (80%) đối
với leukemia, nhưng lại không tốt đối với các loại ung thư khác.
Nguyên nhân và sinh lý bệnh
Nguồn gốc của ung thư
Phân chia tế bào (
tăng sinh) là quá trình sinh lý xảy ra trong những điều kiện nhất định ở hầu hết các
mô
trong cơ thể sinh vật đa bào. Bình thường sự cân bằng giữa tốc độ của
quá trình tăng sinh và quá trình chết của tế bào được điều hòa một cách
chặt chẽ để đảm bảo cho tính toàn vẹn của cơ quan và mô. Khi các tế bào
xảy ra những đột biến trong
DNA, chúng có thể phá vỡ cơ chế điều khiển này và dẫn đến ung thư.
Sự tăng sinh không kiểm soát và thường là nhanh chóng của tế bào sẽ tạo thành các
khối u lành tính hay khối u
ác tính (ung thư). Những khối
u lành tính
không lan tràn đến những nơi khác trong cơ thể hay xâm lấn vào các mô
khác, và chúng hiếm khi đe dọa đến tính mạng trừ khi chúng chèn ép đến
các cấu trúc sống còn. Các khối u ác tính có thể xâm lấn vào các cơ quan
khác, lan đến những nơi xa hơn (
di căn) và trở nên đe dọa đến tính mạng.
Bệnh học phân tử
Các ung thư được gây ra bởi một loạt các đột biến. Mỗi đột biến sẽ thay đổi đặc tính của khối u theo cách nào đó
Sinh ung thư (
carcinogenesis) là quá trình rối loạn tốc độ phân chia tế bào do tổn thương của
DNA. Do đó ung thư là một bệnh lý về
gene. Thông thường, một tế bào bình thường để chuyển dạng sang tế bào ung thư phải trải qua một vài
đột biến ở một số gene nhất định. Quá tình này liên quan đến cả hệ thống
gene tiền ung thư (
proto-oncogene) và
gene áp chế ung thư (
tumor suppressor gene). Gene tiền ung thư mã hoá cho nhóm
protein tham gia vào quá trình hình thành những
chất truyền tin (
messenger) trong quá trình
dẫn truyền tín hiệu tế bào.
Các chất truyền tin này sẽ truyền tín hiệu "tiến hành phân bào" tới
chính tế bào đó hay những thế bào khác. Do vậy, khi bị đột biến, các
gene tiền ung thư sẽ biểu hiện quá mức (
overexpression) các tín hiệu phân chia tế bào, và làm các tế bào tăng sinh thừa thãi, lúc này trở thành những gene ung thư (
oncogene). Tuy nhiên, vì các gene ung thư thực chất là các gene cần thiết đối với quá trình phát triển, sửa chữa và
hằng định nội môi của cơ thể, do đó không thể loại bỏ các gene này khỏi hệ gene nhằm làm giảm khả năng ung thư.
Khác với gene ung thư, các gene áp chế ung thư mã hóa cho các chất
truyền tin hóa học nhằm giảm hoặc ngừng quá trình phân chia của tế bào
khi phát hiện thấy có sai hỏng về DNA. Đó là các
enzyme đặc biệt có thể phát hiện các đột biến hay tổn thương DNA và đồng thời khích hoạt quá trình phiên mã của hệ thống
enzyme sửa chữa DNA Điều này nhằm hạn chế tối đa khả năng các sai hỏng này được truyền cho
thế hệ tế bào
kế tiếp. Thông thường, các gene áp chế ung thư sẽ được kích hoạt khi có
tổn thương DNA xảy ra, nhưng một số đột biến có thể bất hoạt protein áp
chế ung thư hoặc làm mất khả năng truyền thông tin của nó. Điều này làm
gián đoạn hoặc dừng cơ chế sửa chữa DNA, khi đó những tổn thương DNA
được tích luỹ lại dần dần hình thành ung thư.
Nhìn chung, điều kiện cần thiết để hình thành ung thư là phải đột
biến ở cả hai nhóm gene tiền ung thư và gene áp chế ung thư. Chẳng hạn
như đột biến giới hạn ở một gene ung thư sẽ bị ức chế bởi sự kiểm soát
phân bào bình thường (
giả thuyết Knudson
hay giả thuyết 1-2 cú đánh) và các gene ức chế khối u. Và cũng vậy chỉ
một đột biến gene ức chế khối u cũng không gây ra ung thư, do bởi có
nhiều gene "
dự phòng"
cùng chức năng. Chỉ khi có đủ gene tiền ung thư bị đột biến thành gene
ung thư và có đủ gene ức chế khối u bị bất hoạt hoặc tổn thương lúc đó
các tín hiệu cho tế bào phát triển vượt quá các tín hiệu điều hòa thì sự
phát triển tế bào sẽ nhanh chóng vượt khỏi tầm kiểm soát.
Đột biến có thể từ các nguyên nhân khác nhau. Một số nguyên nhân riêng biệt đã được liên kết với các loại ung thư đặc hiệu.
Hút thuốc lá liên quan đến
ung thư phổi. Phơi nhiễm kéo dài đối với
phóng xạ, đặc biệt là
phóng xạ tia cực tím từ
mặt trời, dẫn đến
u hắc tố và các loại ung thư da khác. Hít các sợi
amiăng có liên quan đến
u trung biểu mô. Tổng quát hơn, các chất hóa học đựoc gọi là
chất gây đột biến (
mutagen) và các
gốc tự do được biết là nguyên nhân gây ra đột biến. Các dạng khác của đột biến cũng có thể gây ra bởi quá trình
viêm mạn tính, vì
bạch cầu hạt trung tính tiết ra các gốc tự do có thể làm tổn thương DNA.
Hoán vị nhiễm sắc thể, ví dụ như
nhiễm sắc thể Philadelphia, là một dạng đặc biệt của đột biến liên quan đến sự trao đổi giữa các nhiễm sắc thể khác nhau.
Nhiều
chất gây đột biến cũng là
chất gây ung thư,
nhưng một số chất gây ung thư không là chất gây đột biến. Ví dụ của
chất gây ung thư nhưng không phải là chất gây đột biến bao gồm
rượu và
estrogen. Chúng được cho là thúc đẩy phát triển ung thư thông qua tác dụng kích thích tốc độ
phân bào. Tốc độ phân bào nhanh chóng sẽ để lại ít khoảng cửa sổ hơn cho các enzyme sửa chữa DNA tổn thương trong quá trình
sao chép DNA,
và gia tăng khả năng sai lạc di truyền. Một sai lạc xảy ra trong quá
trình phân bào có thể dẫn đến những tế bào nối tiếp nhận số lượng
nhiễm sắc thể sai, dẫn đến
dị bội nhiễm sắc thể và gây ra ung thư.
Các đột biến cũng có thể được di truyền. Thừa hưởng các đột biến nào đó trong gene
BRCA1, một gene ức chế khối u, làm cho phụ nữ dễ phát triển
ung thư vú và
ung thư buồng trứng. Đột biến ở gene
Rb1 có thể gây ra
u nguyên bào võng mạc, và các đột biến gene
APC dẫn đến
ung thư đại tràng.
Một số loại virus có thể gây ra đột biến. Chúng đóng vai trò trong khoảng 15% các trường hợp ung thư.
Virus khối u, chẳng hạn như
retrovirus,
herpesvirus và
papillomavirus, thường mang một gene ung thư hoặc một gene kìm hãm quá trình ức chế khối u trong
bộ gene của chúng.
Khó có thể biết nguyên nhân đầu tiên gây ra ung thư. Tuy nhiên kỹ thuật
sinh học phân tử
có thể giúp xác lập đặc tính của đột biến hay sai lạc nhiễm sắc thể
trong khối u, và cũng đã có tiến bộ nhanh chóng trong lĩnh vực tiên
lượng dựa vào hình thái đột biến ở một số bệnh ung thư. Ví dụ như hơn
phân nửa số ung thư có tổn thương gene
p53,
đây là gene ức chế khối u đồng thời cũng được biết như là "người bảo vệ
bộ gene". Đột biến này liên quan đến tiên lượng xấu, vì tế bào của các
khối u đó không đi vào quá trình
apoptosis (cái chết được lập trình). Đột biến của
telomerase đã loại bỏ các hàng rào hỗ trợ khác, làm tăng số lần tế bào có thể phân chia. Những đột biến khác giúp cho khối u
tăng sinh mạch máu để cung cấp nhiều hơn chất dinh dưỡng, hay giúp cho việc di căn đến những nơi khác của cơ thể.
Các tính chất đặc trưng của tế bào ác tính:
Một tế bào thoái triển thành tế bào khối u thường không có tất cả đặc
điểm này cùng một lúc, tuy nhiên hậu duệ của chúng sẽ được chọn lọc để
có các đặc tính đó. Quá trình này đựoc gọi là phát triển theo dòng (
clonal evolution). Bước đầu tiên trong quá trình phát triển của một tế bào u thường là một biến đổi nhỏ trong DNA, thông thường là
đột biến điểm,
nó tạo ra bất ổn về di truyền trong tế bào. Sự bất ổn này có thể dẫn
đến việc tế bào mất toàn bộ nhiễm sắc thể hay một vài nhiễm sắc thể tăng
thêm số lượng. Cũng vậy quá trình
methyl hóa DNA của tế bào thay đổi dẫn đến không kiểm soát được việc kích hoạt hay bất hoạt các gene. Tế bào có tốc độ phân chia cao, như
biểu mô, tỏ ra có nguy cơ cao trở thành ung thư hơn tế bào phân chia ít hơn, như
tế bào thần kinh.
Hình thái học
Hình thái tổ chức của mô từ dạng bình thường đến khi phát triển thành khối u
Mô ung thư có hình ảnh đặc biệt dưới
kính hiển vi. Các đặc điểm nổi bật có thể thấy là một số lớn các tế bào phân chia, thay đổi hình dạng và kích thước
nhân,
thay đổi hình dạng và kích thước tế bào, mất các đặc điểm chuyên biệt
của tế bào, mất cấu trúc mô bình thường, và ranh giới của khối u không
rõ. Phương pháp
hoá mô miễn dịch và các phương pháp phân tử khác có thể xác định chất đánh dấu đặc hiệu trên tế bào khối u, giúp cho chẩn đoán và tiên lượng.
Sinh thiết và khám nghiệm vi thể có thể phân biệt được giữa ác tính và
tăng sản.
Tăng sản là trường hợp tăng sinh mô do tốc độ phân bào quá mức, làm gia
tăng số lượng tế bào nhưng chúng vẫn giữ trật tự sắp xếp bình thường
trong mô. Quá trình này được xem là có thể hồi phục được. Tăng sản có
thể là một đáp ứng bình thường của mô đối với tác nhân kích thích, chẳng
hạn như
cục chai ở da.
Loạn sản
là một dạng bất thường của tăng sinh tế bào quá mức đặc trưng bởi mất
đi sắp đặt bình thường của mô và cấu trúc tế bào. Thường thì những tế
bào như vậy sẽ quay trở lại đặc tính bình thường của chúng, nhưng đôi
khi chúng dần dần trở nên ác tính.
Mức độ nặng nhất của loạn sản được xem như là "
ung thư tại chỗ" (
carcinoma in situ, trong
tiếng Latinh,
thuật ngữ "in situ" có nghĩa là "tại chỗ"). Ung thư biểu mô tại chỗ
được xem là sự phát triển không kiểm soát của tế bào vẫn còn nằm tại vị
trí nguyên thuỷ và chưa có biểu hiện xâm nhập đến nơi khác. Tuy vậy, ung
thư biểu mô tại chỗ có thể phát triển thành ác tính xâm lấn và thường
được phẫu thuật cắt bỏ nếu có thể.
Đặc điểm di truyền
Hầu hết các dạng ung thư là tự phát đơn lẻ, và không có cơ sở di truyền. Tuy nhiên một số
hội chứng của ung thư đã được biết có mang yếu tố di truyền. Ví dụ như:
Môi trường và chế độ ăn uống
Tỷ lệ phát hiện ung thư phổi và hút thuốc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo:NIH
Qua nhiều thập kỷ nghiên cứu, phát hiện chắc chắn nhất là sự phối hợp
chặt chẽ giữa hút thuốc lá và ung thư ở các vị trí khác nhau. Hàng trăm
nghiên cứu dịch tễ học đã khẳng định mối liên kết này. Dữ liệu ủng hộ
thêm nữa là tỷ lệ tử vong do
ung thư phổi ở
Mỹ
phản ảnh mức độ hút thuốc lá, trong đó sự gia tăng hút thuốc lá dẫn đến
gia tăng ung thư phổi, và gần đây hơn khi hút thuốc lá giảm đi kèm với
tỷ lệ tử vong do ung thư phổi giảm ở nam giới.
Đến phân nửa số ung thư tất cả các loại có sự đóng góp của hút thuốc
lá, chế độ ăn uống và ô nhiễm môi trường. Nguyên nhân chủ yếu có thể kể
đến là do nguồn nước ô nhiễm và nguồn thực phẩm có chứa chất bảo quản
độc hại. Ở Việt Nam, hàng ngày, người tiêu dùng phải ăn những loại thực
phẩm bị tẩm độc bởi những loại hóa chất độc hại, hầu hết đều có chứa các
chất bảo quản gây nguy cơ mắc bệnh ung thư cho người tiêu dùng: táo,
khoai tây, lê… hàng loạt các thực phẩm, hoa quả trong nước được tẩm ướp
và chế biến, bảo quản bằng hóa chất như giá đỗ, chuối, đu đủ, cà chua,
mít…
Những thứ quà vặt cho trẻ em như bim bim, bánh kẹo hay những thứ đồ
chơi cho trẻ như thú nhún, cây thông Noel, Đèn lồng cũng trở nên nguy
hiểm đổi với con người bởi bên trong đó là những loại hóa chất trở thành
tác nhân gây ra bệnh ung thư. Ngoài ra, ung thư vú hiện đang trở thành
loại bệnh thường gặp nhất ở nữ giới và được dự báo có xu hướng tiếp tục
tăng.
Điều trị ung thư
Ung thư có thể được điều trị bằng
phẫu thuật,
hóa trị liệu,
xạ trị liệu,
miễn dịch trị liệu hay các phương pháp khác. Việc chọn lựa phương pháp điều trị phụ thuộc vào vị trí và độ (
grade) của khối u,
giai đoạn của bệnh, cũng như tổng trạng của bệnh nhân. Một số
điều trị ung thư thực nghiệm cũng đang được phát triển.
Loại bỏ hoàn toàn khối u mà không làm tổn thương phần còn lại của cơ
thể là mục tiêu điều trị. Đôi khi công việc này được thực hiện bằng phẫu
thuật, nhưng khả năng xâm lấn ung thư đến các mô lân cận hay lan đến
nơi xa ở mức độ vi thể thường hạn chế hiệu quả diều trị. Hiệu quả của
hóa trị thì hạn chế bởi độc tính đối với các mô lành khác. Xạ trị cũng
gây thương tổn đến mô lành.
Bởi vì ung thư được xem như là tập hợp các bệnh lý, nên dường như
chẳng bao giờ có một phác đồ điều trị ung thư đơn lẻ so với khả năng có
một phác đồ điều trị duy nhất cho tất cả các bệnh lý nhiễm trùng.
Phẫu thuật
Nếu khối u còn khu trú,
phẫu thuật là phương pháp thường được lựa chọn. Ví dụ có phẫu thuật
cắt bỏ tuyến vú ở ung thư vú,
cắt bỏ tuyến tiền liệt
ở ung thư tuyến tiền liệt. Mục đích của phẫu thuật là có thể cắt bỏ chỉ
khối u đơn thuần hoặc toàn bộ cơ quan. Khi một tế bào ung thư phát
triển thành một khối u khá lớn, việc chỉ cắt bỏ khối u đơn thuần dẫn đến
tăng nguy cơ tái phát. Bờ của mô lành cũng thường được cắt bỏ để đảm
bảo toàn bộ mô ung thư được loại bỏ. phương pháp này có thể gây tế bào
ung thư bị biến dạng và khi ung thư đã di căn thì việc xác định được
điểm xuất phát khối u là rất khó để loại bỏ hết.
Bên cạnh việc cắt bỏ khối u nguyên phát, phẫu thuật cần thiết cho
phân loại giai đoạn, ví dụ như xác định độ lan tràn của bệnh, xem thử đã
có
di căn đến các
hạch bạch huyết vùng hay chưa. Phân loại giai đoạn cho biết tiên lượng và nhu cầu điều trị bổ sung.
Đôi khi, phẫu thuật cần thiết cho kiểm soát triệu chứng, như
chèn ép tủy sống hay
tắc ruột. Đây được gọi là
điều trị tạm thời.
Hóa trị liệu
Hóa trị liệu
là điều trị ung thư bằng thuốc ("thuốc chống ung thư") có khả năng tiêu
diệt tế bào ung thư. Chúng can thiệp vào phân bào theo các cách khác
nhau, ví dụ như sự sao chép
DNA hay quá trình phân chia các
nhiễm sắc thể
mới được tạo thành. Hầu hết các dạng hóa trị đều nhắm vào các tế bào
phân chia nhanh chóng và không đặc hiệu cho tế bào ung thư. Vì vậy, hóa
trị có khả năng làm tổn thương các mô lành, nó cũng tiêu diệt các tế bào
khỏe của cơ thể trong tủy xương và tế bào tiêu hóa trong ruột. Nó cũng
làm hư hại các cơ quan khác như lá lách, thận, tim, phổi... đặc biệt là
các mô có tần suất thay thế nhanh chóng (ví dụ như niêm mạc ruột). Những
tế bào này thường tự sửa chữa sau khi hóa trị.
Vì một số thuốc hoạt động tốt khi phối hợp với nhau hơn là dùng đơn
độc, nên hai hay nhiều thuốc thường được kết hợp cùng lúc với nhau. Đó
được gọi là "hóa trị phối hợp"; hầu hết các phác đồ hóa trị ở dạng phối
hợp. Ví dụ như tác dụng hỗ trợ thuốc ung thư của
mật gấu ngựa
Một kỹ thuật mới liên quan đến việc lấy mẫu mô của bệnh nhân trước
khi hóa trị. Những mẫu mô này được kiểm tra để đảm bảo chúng không chứa
tế bào ung thư. Mẫu mô này được phát triển nhờ vào kỹ thuật
phát triển mô (
tissue engineering)
sau đó chúng được cấy vào lại trong cơ thể để thay thế cho mô đã bị tổn
thương hay hủy hoại bằng cách nào đó bởi quá trình hóa trị liều cao.
Một dạng khác của phương pháp này là dùng mẫu mô dị gen (
allogenic) (lấy từ người cho khác) thay cho mô của chính bệnh nhân.
Miễn dịch trị liệu (Tăng cường hệ miễn dịch)
Miễn dịch trị liệu ung thư là sử dụng cơ chế miễn nhiễm chống lại khối u. Chúng được dùng trong các dạng ung thư khác nhau, như
ung thư vú (
trastuzumab/Herceptin
®) và
leukemia (
gemtuzumab ozogamicin/Mylotarg
®). Các chất đó là
kháng thể đơn dòng nhằm chống lại các protein đặc trưng cho các tế bào ung thư, hay các
cytokine điều hoà đáp ứng của hệ miễn dịch. -
Miễn dịch trị liệu
là kích hoạt và làm tăng số lượng của các tế bào miễn dịch của cơ thể
gọi là macrophage và tế bào “sát thủ tự nhiên” NK Cell. Macrophage là
hàng rào miễn dịch đầu tiên bảo vệ và chống lại bất cứ yếu tố ngoại lai
nào xâm nhập cơ thể, kể cả các tế bào ung thư. NK Cell là một tế bào
miễn dịch đặc hiệu có chức năng nhận biết và tiêu diệt tế bào Ung Thư.
Xạ trị liệu
Xạ trị liệu (điều trị bằng tia X hay chiếu xạ) là sử dụng một dạng năng lượng (gọi là
phóng xạ ion hoá)
để diệt tế bào ung thư và làm teo nhỏ khối u. Xạ trị làm tổn thương hay
hủy hoại các tế bào được điều trị ("mô đích") bằng cách làm tổn thương
vật chất di truyền của chúng, khiến chúng không thể phát triển và phân
chia. Mặc dù xạ trị làm tổn thương cả tế bào ung thư và tế bào lành, hầu
hết các tế bào lành có thể hồi phục và hoạt động bình thường. Mục tiêu
của xạ trị là làm tổn thương càng nhiều tế bào ung thư trong khi giới
hạn tổn thương đối với mô lành lân cận.
Xạ trị có thể được dùng để điều trị hầu hết các loại u đặc, gồm ung
thư não, vú, cổ tử cung, thanh quản, tụy, tiền liệt tuyến, da, cột sống,
dạ dày, tử cung hay các sarcoma mô mềm. Xạ trị cũng có thể được dùng
trong leukemia và lymphoma (ung thư của tế bào tạo máu và hệ thống bạch
huyết). Liều xạ trị cho mỗi vị trí tùy thuộc vào một số yếu tố như loại
ung thư và có hay không khả năng mô hay cơ quan xung quanh bị tổn thương
bởi xạ trị.
Ức chế nội tiết tố
Sự phát triển của hầu hết các mô, bao gồm ung thư, có thể được gia tăng hay bị ức chế bằng cách cung cấp hay ngăn chặn các loại
hormone
nào đó. Điều này cho phép một phương pháp bổ sung trong điều trị nhiều
loại ung thư. Các ví dụ thông thường của khối u nhạy cảm với hormone là
một số loại ung thư vú, tiền liệt tuyến, và tuyến giáp. Việc loại bỏ hay
ức chế
estrogen (đối với ung thư vú),
testosterone (ung thư tiền liệt tuyến), hay
TSH (ung thư tuyến giáp) là phương pháp điều trị bổ sung quan trọng.
Kiểm soát triệu chứng
Mặc dù kiểm soát triệu chứng không là cách điều trị trực tiếp lên ung thư, nó vẫn được xem là yếu tố quan trọng quyết định
chất lượng sống
của bệnh nhân, và giữ vai trò quan trọng trong quyết định áp dụng các
điều trị khác trên bệnh nhân. Mặc dù mọi thầy thuốc thực hành đều có thể
điều trị kiểm soát đau, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, xuất huyết và các vấn
đề thường gặp khác ở bệnh nhân ung thư, chuyên khoa
săn sóc tạm thời (
palliative care) đã xuất hiện để đáp ứng nhu cầu kiểm soát triệu chứng ở nhóm bệnh nhân này.
Thuốc giảm đau (thường là các
opioid như
morphine) và
thuốc chống nôn rất thường được sử dụng ở bệnh nhân có các triệu chứng liên hệ đến ung thư.
Các thử nghiệm điều trị
Thử nghiệm điều trị,
cũng còn gọi là nghiên cứu điều trị, dùng để kiểm tra các phương pháp
điều trị mới trên bệnh nhân ung thư. Mục đích của nghiên cứu này là đi
tìm ra các phương pháp tốt hơn để điều trị ung thư và giúp đỡ bệnh nhân
ung thư. Các thử nghiệm lâm sàng khảo sát nhiều loại điều trị như thuốc
mới, phương pháp phẫu thuật hay xạ trị mới, phối hợp trị liệu mới, hoặc
phương pháp điều trị mới như
gene liệu pháp.
Thử nghiệm lâm sàng là một trong các giai đoạn cuối cùng của quá
trình nghiên cứu ung thư cẩn thận và lâu dài. Việc tìm kiếm phương pháp
điều trị mới bắt đầu trong phòng thí nghiệm, ở đó các nhà khoa học lần
đầu triển khai và kiểm tra các ý tưởng mới. Nếu một hướng nghiên cứu có
triển vọng, bước kế tiếp có thể là thử nghiệm điều trị trên động vật để
xem nó ảnh hưởng thế nào đến ung thư trên cơ thể sống đồng thời xem thử
độc tính của nó thế nào. Dĩ nhiên, các phương pháp điều trị có kết quả
tốt trong phòng thí nghiệm hay trên động vật chưa hẳn đã là tốt trên
người. Nghiên cứu được thực hiện trên bệnh nhân ung thư để xác định xem
các phương pháp điểu trị hứa hẹn này có an toàn và hiệu quả hay không.
Các bệnh nhân tham gia có thể đựợc giúp đỡ về mặt cá nhân nhờ vào
điều trị mà họ nhận được. Họ nhận được sự săn sóc cập nhật nhất từ các
chuyên gia ung thư, và họ nhận được hoặc một phương pháp điều trị mới
đang được thử nghiệm hoặc một phương pháp điểu trị tiêu chuẩn tốt nhất
đang có cho bệnh lý ung thư của họ. Lẽ dĩ nhiên không có sự đảm bảo nào
về các phương pháp điều trị mới hay chuẩn này mang lại kết quả tốt. Các
phương pháp điều trị mới cũng có những nguy cơ không được xác định,
nhưng nếu một phương pháp điều trị mới chứng minh được hiệu quả hay hiệu
quả hơn phương pháp chuẩn, các bệnh nhân nghiên cứu có thể nằm trong số
những người đầu tiên hưởng được lợi ích này.
Y khoa thế giới ghi nhận một liệu pháp chữa trị ung thư xuất phát từ
Việt Nam đang được nghiên cứu và thử nghiệm đó là sử dụng các chế phẩm
từ nấm lim xanh – một loài nấm đặc hữu của Việt Nam. Tạp chí Tin tức Y
tế xuất bản tại Mỹ số ra tháng 5/2012 cho biết các bác sỹ ở bệnh viện
St. John tại Birmingham nước Anh đã thử nghiệm sử dụng nấm lim xanh
trong điều trị ung thư và cho kết quả khả quan.
Y học thay thế và bổ sung
Y học thay thế và bổ sung (
complementary and alternative medicine
- CAM) là nhóm phong phú các hệ thống săn sóc sức khỏe và y tế, thực
hành và sản phẩm vốn không được xem là có hiệu quả bởi các chuẩn mực của
y học quy ước. Một số phương pháp điều trị không quy ước được dùng "bổ
sung" cho điều trị quy ước, nhằm tạo sự thoải mái và nâng cao tinh thần
cho bệnh nhân. Một số phương pháp điều trị không quy ước khác được dùng
thay thế điều trị quy ước với hy vọng chữa lành ung thư.
Các phương pháp
bổ sung thông thường như
cầu nguyện
hay các biện pháp tâm lý như "tưởng tượng." Nhiều người cảm thấy phương
pháp này mang lợi ích cho họ, nhưng hầu hết không chứng minh được tính
khoa học và vì thể phải đối diên với sự hồ nghi. Các phương pháp bổ sung
khác bao gồm y học cổ truyền như
Đông y (thuốc nam/thuốc bắc).
Nhiều biện pháp điều trị thay thế đã được sử dụng trong ung thư ở thế
kỷ qua. Tính hấp dẫn của trị liệu thay thế đến từ các nguy cơ gây chán
nản với điều trị, chi phí và tác dụng phụ của điều trị quy ước, hoặc
triển vọng chữa lành thấp. Những người đề nghị các phương pháp này không
thể hay không muốn chứng minh tính hiệu quả bằng các tiêu chuẩn quy
ước. Các điều trị thay thế bao gồm chế độ ăn đặc biệt hoặc bổ sung thành
phần thức ăn (ví dụ "chế độ ăn nho" hay điều trị vitamin liều cao), các
dụng cụ điện (ví dụ "các máy xoa bóp"), các chất có công thức đặc biệt
(như
laetrile), sử dụng không theo quy ước các thuốc quy ước (như
insulin), xổ ruột hay thụt tháo, các thao tác vật lý trên cơ thể. Một vài phương pháp điều trị này mang tính
lừa dối hay
xảo thuật. Tóm lại chúng được đánh giá bởi các giới hồ nghi như
phương pháp lang vườn điều trị ung thư. Một danh sách có giải thích các phương pháp điều trị này có sẵn tại
Quackwatch (
Quan sát lang vườn) .
Hầu hết các thầy thuốc chống lại việc sử dụng các phương pháp này đơn
độc trong điều trị các bệnh lý có khả năng tử vong như ung thư.
Dịch tễ học
Ở các nước phương Tây như Mỹ và Anh, ung thư đang vượt qua
bệnh tim mạch là nguyên nhân gây chết hàng đầu. Ở nhiều quốc gia thuộc
Thế giới thứ ba
tỷ lệ phát hiện ung thư (đến mức có thể tính được) có vẻ thấp hơn
nhiều, hầu hết do bởi tỷ lệ tử vong cao hơn vì các bệnh nhiễm trùng và
chấn thương. Với sự gia tăng kiểm soát
sốt rét và
lao ở một số nước Thế giới thứ ba, tỷ lệ ung thư được trông đợi sẽ tăng lên; điều này được gọi là
hiện tượng tảng băng trong thuật ngữ
dịch tễ học.
Dịch tễ học ung thư phản ánh sát sự phân bố yếu tố nguy cơ ở các nước khác nhau.
Ung thư biểu mô tế bào gan (ung thư gan) hiếm gặp ở các nước phương Tây nhưng là ung thư chính ở
Trung Quốc và các nước lân cận, hầu hết do hiện diện nội dịch của
viêm gan B và
aflatoxin
trong dân cư. Cũng vậy, với việc hút thuốc lá đang càng ngày càng phổ
biến ỏ các nước Thế giới thứ ba, tỷ lệ mắc ung thư phổi cũng tăng theo
hướng song song.
Phòng ngừa
Phim chụp lồng ngực cho thấy ung thư phổi ở lá phổi trái.
Phòng ngừa ung thư là các biện pháp tích cực nhằm đề phòng, ngăn chặn
và giảm tỷ lệ ung thư. Điều này có thể thực hiện bằng cách tránh các
tác nhân sinh ung thư hay thay đổi quá trình
chuyển hóa của chúng: thay đổi lối sống và chế độ ăn uống nhằm ngăn ngừa các yếu tố gây ung thư hoặc can thiệp bằng y khoa (
hóa dự phòng, điều trị sang thương tiền ác tính).
Có nhiều hứa hẹn phòng ngừa ung thư rút ra từ các nghiên cứu dịch tễ
học quan sát. Các nghiên cứu này chỉ ra mối liên hệ giữa các yếu tố lối
sống có thể tác động được hay phơi nhiễm môi trường với các bệnh ung thư
đặc biệt. Các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát thực hiện trên các gợi
ý can thiệp rút ra từ nghiên cứu dịch tễ và phòng thí nghiệm đã đưa ra
bằng chứng về giảm tỉ lệ mới mắc và tỉ lệ tử vong.
Các ví dụ về các nguy cơ có thể tác động được gồm có uống
rượu
(phối hợp với tăng nguy cơ ung thư miệng, thực quản, vú và các ung thư
khác), không hoạt động chân tay (phối hợp với tăng nguy cơ ung thư đại
tràng, vú, và có thể các ung thư khác), tình trạng
béo phì
(phối hợp với ung thư đại tràng, vú, nội mạc tử cung, và có thể các ung
thư khác). Dựa vào các bằng chứng dịch tễ học, ngày nay người ta cho
rằng tránh uống rượu quá mức, tích cực hoạt động thể lực và duy trì
trọng lượng cơ thể thích hợp có thể góp phần làm giảm nguy cơ một số ung
thư; tuy nhiên khi so sánh với phơi nhiễm thuốc lá, các phương pháp này
có tính hiệu quả còn khiêm tốn và độ tin cậy của bằng chứng còn thấp.
Các yếu tố về lối sống và môi trường khác được biết có ảnh hưởng đến
nguy cơ ung thư (có lợi hay hại) là hoạt động tình dục hay sinh sản, sử
dụng hormone ngoại sinh, tiếp xúc với các phóng xạ ion hoá và tia cực
tím, phơi nhiễm với hóa chất và nghề nghiệp nào đó, các tác nhân nhiễm
trùng.
Chế độ ăn uống và ung thư
Chế độ ăn uống các thực phẩm chứa hóa chất (chất bảo quản, thuốc trừ
sâu, phân bón hóa học...) làm tăng nguy cơ gây ung thư. Thói quen ăn
uống thường giải thích cho sự khác biệt về tỷ lệ ung thư ở các nước (ví
dụ như
ung thư dạ dày hay gặp hơn ở
Nhật Bản, trong khi
ung thư đại tràng hay gặp hơn ở
Mỹ).
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, người nhập cư cũng phát triển nguy cơ
ung thư giống như ở đất nước mới đến của họ, gợi ý có sự kết nối giữa ăn
uống và ung thư hơn là cơ sở về di truyền.
Dù thường xuyên có các báo cáo về các chất đặc biệt (bao gồm cả thức
ăn) có tác động lợi hay hại đến nguy cơ ung thư, chỉ một vài trong số
chúng thiết lập được mối liên quan đến ung thư. Các báo cáo này dựa trên
các nghiên cứu trong môi trường nuôi cấy tế bào hay động vật. Các lời
khuyên về sức khỏe cộng đồng không nên dựa vào cơ sở các nghiên cứu này
cho đến khi chúng được xác định trên các thử nghiệm quan sát (hay đôi
khi là thử nghiệm can thiệp tiền cứu) trên người.
Trường hợp của
beta-carotene cho chúng ta ví dụ về sự cần thiết của thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
Các nhà dịch tễ học nghiên cứu cả hai nồng độ trong thức ăn và huyết thanh thấy rằng nồng độ cao của
beta-carotene, một tiền chất của
vitamin A,
có liên quan đến hiệu quả phòng bệnh, làm giảm nguy cơ ung thư. Hiệu
quả này thật sự đặc biệt mạnh trong ung thư phổi. Giả thuyết này đã dẫn
đến một loạt các thử nghiệm ngẫu nhiên lớn ở
Phần Lan và
Mỹ (nghiên cứu CARET) trong suốt hai
thập niên 1980 và
1990.
Nghiên cứu này cung cấp cho khoảng 80.000 người hút thuốc lá hoặc đã
từng hút thuốc lá các bổ sung hằng ngày về beta-carotene hoặc
placebo.
Ngược lại với mong đợi, những kiểm tra này cho thấy bổ sung
beta-carotene không có ích lợi trong giảm tỷ lệ mắc ung thư phổi và tỷ
lệ tử vong. Thực ra, nguy cơ ung thư phổi tăng nhẹ, nhưng có ý nghĩa, ở
người hút thuốc lá, khiến nghiên cứu kết thúc sớm.
Một số chất chống ung thư trong thực phẩm
Một số thực phẩm giúp ngăn ngừa ung thư
Các chất hóa dự phòng khác
Sử dụng hằng ngày
tamoxifen, một chất điều hoà chọn lọc
thụ thể estrogen, cho đến 5 năm, đã tỏ ra làm giảm nguy cơ phát triển ung thư vú ở phụ nữ nguy cơ cao khoảng 50%.
Axít cis-retinoic cũng tỏ ra giảm nguy cơ các ung thư nguyên phát tái phát ở các bệnh nhân ung thư nguyên phát vùng đầu - cổ.
Finasteride, là chất
ức chế men 5-alpha reductase, có thể hạ thấp nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến. Các ví dụ khác về thuốc tỏ ra có hứa hẹn trong hóa dự phòng gồm thuốc
ức chế men COX-2 (ức chế men
cyclooxygenase liên quan đến tổng hợp
prostaglandin tiền viêm).
Vắc xin trong ung thư
Ngày nay các nỗ lực đáng kể trong việc phát triển
vaccine (để dự phòng các tác nhân lây nhiễm sinh u, cũng như phát động đáp ứng miễn dịch chống lại các
epitope đặc hiệu cho ung thư) và để phát triển
gene tri liệu
đối với các cá thể có các đột biến di truyền hay đa hình thái khiến họ
đối diện nguy cơ ung thư cao. Hiện tại không có vaccine nào được sử
dụng, và hầu hết các nghiên cứu vẫn còn ở giai đoạn bắt đầu.
Xét nghiệm di truyền
Xét nghiệm di truyền
được dùng cho cá thể nguy cơ cao, nhằm tăng cường giám sát, hóa dự
phòng, hay phẫu thuật để giảm nguy cơ cho các đối tượng có xét nghiệm
dương tính. Hiện tại xét nghiệm này đã có sẵn cho vài loại đột biến gene
có liên quan đến ung thư.
Đối diện với ung thư
Nhiều tổ chức địa phương cung cấp các dịch vụ thực hành và hỗ trợ khác nhau cho các bệnh nhân ung thư. Hỗ trợ gồm các hình thức
nhóm hỗ trợ,
tham vấn,
khuyên nhủ, hỗ trợ tài chính, vận chuyển đi lại trong điều trị, hay các
thông tin về ung thư. Các tổ chức lân cận, các người cung cấp các dịch
vụ y tế địa phương, hay các bệnh viện khu vực là nơi tốt để tìm kiếm hỗ
trợ.
Mặc dù có một số người lưỡng lự trong việc tìm kiếm tham vấn, các
nghiên cứu chỉ ra rằng có người nào đó để trao đổi giúp giảm căng thẳng
tinh thần và giúp họ về mặt tinh thần và thể chất. Tham vấn cũng có thể
giúp hỗ trợ tình cảm đối với bệnh nhân ung thư và giúp họ hiểu tốt hơn
bệnh lý của họ. Các dạng tham vấn khác nhau là cá nhân, nhóm, gia đình
và tự giúp nhau (đôi khi được gọi là tham vấn đồng hành), thăm viếng
người quá cố, bệnh nhân với bệnh nhân và vấn đề tình dục.
Nhiều tổ chức chính phủ và từ thiện được thành lập để giúp đỡ các
bệnh nhân đối diện với ung thư. Các tổ chức này thường liên quan đến dự
phòng ung thư, điều trị ung thư và nghiên cứu ung thư. Ví dụ như:
Hội ung thư Mỹ,
Tổ chức ung thư BC,
Tổ chức xoa dịu ung thư Macmillan,
Nghiên cứu ung thư Anh,
Hội ung thư Canada,
Tổ chức quốc tế nghiên cứu ung thư và
Viện ung thư quốc gia (Mỹ).
Tác động đối với xã hội
Ung thư có tiếng là căn bệnh chết chóc. Tuy nhiên điều này chỉ đúng
cho một vài dạng cụ thể nào đó. Một số loại ung thư có tiên lượng còn
tốt hơn các bệnh không ác tính như
suy tim và
tai biến mạch máu não.
Các bệnh lý ác tính diễn tiến và lan tỏa có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng sống của bệnh nhân, và nhiều điều trị (như
hoá trị)
có thể có tác dụng phụ nặng nề. Ở giai đoạn tiến triển ung thư, nhiều
bệnh nhân các săn sóc tăng cường, và ảnh hưởng đến người thân và bạn bè.
Giải pháp
săn sóc tạm thời có thể là săn sóc điều dưỡng nội trú vĩnh viễn hay ngắn hạn.
Nghiên cứu ung thư
Nghiên cứu ung thư
là nỗ lực khoa học nhằm tìm hiểu quá trinh bệnh lý và phát hiện các
phương pháp điều trị có thể áp dụng được. Trong khi ung thư
tăng theo cấp lũy tiến từ thập niên cuối của
thế kỷ 20, các phương pháp điều trị mới triệt để chỉ phát hiện và giới thiệu một các từ tốn.
Ức chế men tyrosine kinases (
imatinib và
gefitinib) vào cuối thập niên 1990 được xem như là bước đột phá lớn, chúng can thiệp một cách đặc hiệu vào protein đặc hiệu của khối u.
Kháng thể đơn dòng chứng tỏ là một tiến bộ lớn khác trong điều trị ung thư.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 03:26, ngày 1 tháng 4 năm 2014.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét