THÀNH TỰU VÀ TỘI LỖI 5
(ĐC sưu tầm trên NET)
Bức tranh toàn cảnh về nghệ thuật quân sự hải quân
Trang 4 / 5
Sự
phát triển của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi sâu sắc nghệ thuật tác
chiến trên biển, với sự tham gia không chỉ của hải quân mà còn có các
quân, binh chủng khác.
Sự phát triển của khoa
học công nghệ quân sự đã đưa nghệ thuật chiến dịch phát triển lên một
nấc thang mới, không gian của chiến trường mở rộng hơn, tham gia vào các
hoạt động tác chiến cấp chiến dịch trên khu vực biển, đại dương và các
vùng nước ven bờ, khu vực bờ biển không chỉ là lực lượng hải quân, mà cả
lực lượng không quân, lực lượng lục quân, lực lượng tên lửa chiến lược
và lực lượng bộ đội không gian...
Thông thường, các hoạt động tác chiến
chiến dịch của Liên bang Xô viết trước đây và nước Nga ngày nay có thể
do một chiến hạm hoặc một cụm chiến hạm thực hiện, với sự yểm trợ tầm xa
của các lực lượng không quân hải quân, không quân và tên lửa chiến
lược.
Các cường quốc biển phương Tây thường
triển khai các chiến dịch trên biển với một cụm tầu hoặc một hạm đội đến
nhiều hạm đội với đầy đủ biên chế, bao gồm cả tầu sân bay. Lực lượng
hạm đội của Mỹ hoàn toàn có khả năng đáp ứng một cuộc chiến tranh cục bộ
hoặc một cuộc xung đột khu vực.
Từ góc nhìn về sử dụng lực lượng, có thể xác định được phương án chiển khai một chiến dịch tác chiến biển đại dương.
Phương án tác chiến biển – đại dương
cũng nằm trong những nguyên tắc tác chiến cơ bản, nhưng với không gian
tác chiến rộng lớn hơn, trên vũ trụ, trên không, trên biển – đại dương
và dưới biển, đại dương.
Các hoạt động tác chiến có thể đơn lẻ
như săn ngầm hoặc đồng bộ với mục tiêu chiếm quyền chủ động, nhằm vào
các mục tiêu quan trọng về kinh tế, quân sự, chính trị của đối phương,
từ các căn cứ hải quân đối phương đến các mục tiêu trên không, trên biển
– đại dương.
Đối với các lực lượng
Hải quân mạnh, có trong biên chế đầy đủ các phương tiện, từ tầu sân bay
đến các loại tầu xuồng chiến đấu, phương thức triển khai các chiến dịch
với các mục tiêu khác nhau, từ xung đột vũ trang đến chiến tranh cục bộ
trong giai đoạn ngày này thông thường có tính tương đương, (ngoại trừ
những hoạt động chống hải tặc).
Đó là thời gian chuẩn bị rất kỹ càng, có
thể kéo dài nhiều năm đến nhiều tháng cho những hoạt động nghiên cứu
vùng nước, địa hình đáy biển, hoạt động tầu thuyền, các sơ đồ bố trí lực
lượng của đối phương, chi tiết đến từng mục tiêu, các mục tiêu này sẽ
được lập trình trên tất cả các phương tiện trinh sát (vệ tinh, máy bay
trinh sát, tầu xuồng trinh sát….. và các phương tiện mang, từ các chiến
hạm mạng tên lửa, pháo hạm đến các các máy bay của lực lượng không quân
hải quân, các mục tiêu nay sẽ được theo dõi chặt chẽ, đảm bảo chắc chắn
không có sự bất ngờ xảy ra khi chiến dịch tiến công được triển khai.
Thời điểm triển khai chiến dịch thường
được giữ bí mật tối đa, khi giờ công kích đã đến các lực lượng hải quân
của các cường quốc biển sẽ đồng loạt tấn công hỏa lực từ tất cả các đơn
vị tác chiến như không quân hải quân, chiến hạm, tầu ngầm, lực lượng đặc
nhiệm hải quân trên toàn tuyến, trên không, trên biển, các căn cứ bờ
biển và trong các trường hợp chiến tranh cục bộ, sẽ đánh sâu vào đất
liên, các mục tiêu được tiến công bằng nhiều phương tiện hỏa lực, từ
nhiều hướng khác nhau, với yêu cầu trong thời gian ngắn của đợt công
kích, các mục tiêu quan trọng phải được chế áp hoặc tiêu diệt.
Trong quá trình triển khai chiến dịch,
các đơn vị hợp thành của lực lượng hải quân có thể tiếp tục truy quét,
tìm diệt các mục tiêu đã được lựa chọn ( tầu ngầm, tầu chiến) hoặc chế
áp các đơn vị phòng không, tên lửa, sân bay, bến cảng…với mức độ hỏa lực
ngày càng tăng, các đợt tấn công dồn dập …cho đến khi mục tiêu chiên
dịch đạt được.
Do tính đặc thù của các chiến dịch hải
chiến, để phòng thủ không – biển đạt hiệu quả cao, yêu cầu quan trọng
đầu tiên trong cả thời chiến lẫn thời bình, đó là khả năng sẵn sàng tác
chiến cao độ, bí mật, bất ngờ, tính cơ động cao, khả năng sẵn sàng tham
gia chiến đấu cao của các phương tiện, vũ khí trang bị lực lượng hải
quân.
Việc nghiên cứu kỹ và sâu sắc, hiểu biết
thực tế vùng nước, vùng biển, ven biển, tính đặc thù của bờ biển, khả
năng ngụy trang che dấu lực lượng, khả năng cơ động, khả năng bố trí các
lực lượng phòng thủ hiệu quả là yếu tố vô cùng quan trong trong sự sống
còn của lực lượng phòng thủ.
Để chống lại các lực
lượng hải quân của các cường quốc biển, với công nghệ quân sự hiện đại
ngày nay, các lực lượng hải quân liên bang Nga cần quản lý chặt chẽ các
vùng nước có khả năng hình thành bàn đạp tiến công, các căn cứ hải quân
mà đối phương có thể sử dụng, các phương án đột kích, phản công đánh trả
ngay khi đối phương bắt đầu triển khai tấn công, các phương án phòng
không, phòng hải hiệu quả nhất, đồng thời phải bố trí sẵn sàng hệ thống
phòng thủ bờ biển, vùng nước nông và các hướng phản công hỏa lực từ
những căn cứ đã được chuẩn bị sẵn, với những khu vực mục tiêu.
Thông thường, mỗi khu vực mục tiêu phải
được sự quản lý của nhiều phương tiện hỏa lực hoặc nhiều đơn vị binh
chủng như tên lửa, không quân, tầu tên lửa hoặc tầu phóng ngư lôi, các
đơn vị đặc nhiệm hải quân, phòng thủ bờ biển.
Các hoạt động huấn luyện tác chiến nhằm
duy trì và nâng cao sức chiến đấu của các đơn vị phải diễn ra với sự đối
kháng thực tế, những hoạt động huấn luyện tác chiến phải được tiến hành
trong mội trường khách quan, với góc nhìn từ phía bên kia của lực lượng
đối phương có tiềm lực hải quân mạnh và hiện đại, các hoạt động triển
khai chiến đấu phải năng động, sáng tạo, nhịp độ triển khai phải nhanh
chóng, bất ngờ với yêu cầu cơ động chiến đấu ngày càng cao, áp lực tác
chiến càng ngày càng tăng, nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của các
sỹ quan chỉ huy, đặc biệt là các hạm trưởng và các sỹ quan chỉ huy lực
lượng phòng không, phòng hải.
Điểm đặc biệt quan trọng
trong nghệ thuật chiến dịch không-hải hiện đại là khả năng đảm bảo
thông tin và khả năng trinh sát, theo dõi, bám mục tiêu và quản lý chiến
trường bằng các phương tiện truyền thông hiện đại.
Theo đó, mạng lưới thông tin và truyền
thông cần được xây dựng đa tầng, đa điểm, đa dạng, có khả năng chống
nhiễu hiệu quả, ngay cả trong trường hợp bị tấn công (bị tấn công vệ
tinh trinh sát, hệ thống định vị vệ tinh, hệ thống vệ tinh truyền thông,
các trạm thông tin liên lạc, các trạm radar cảnh báo).
Để thực hiện được nhiệm vụ này, hệ thống
trinh sát, truyền thông phải được tính toán, xây dựng và thử nghiệm
trong điều kiện tác chiến hiện đại, với khả năng bị tấn công cao nhất,
hệ thống trinh sát, truyền thông và quản lý chiến trường phải biến đổi
linh hoạt, chuyển hóa liên tục trong không gian chiến trường phức tạp và
và hỏa lực tấn công dầy đặc với độ chính xác cao.
Do tính đặc thù của nghệ
thuật chiến dịch trên hải dương, các hoạt động huấn luyện tác chiến
thường có thể nhanh chóng chuyển thành các hoạt động tác chiến trên
biển, do đó, khái niệm ranh giới về huấn luyện thời bình và chiến đấu
thời chiến trong nghệ thuật quân sự hải dương rất mờ nhạt.
Các đòn tấn công có thể xuất phát từ bất cứ điểm nào, bất cứ thời gian nào trên toàn bộ các đại dương hoặc vùng biển.
Đánh chặn kịp thời và phản công hiệu quả
là phương án tốt nhất dành thế chủ động trên chiến trường hải dương. Đó
là điểm đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của nghệ thuật chiến
dịch hải quân và đó cũng là mối quan hệ tương quan chặt chẽ của chiến
lược và chiến dịch hải dương.
Lý luận về nghệ thuật chiến dịch
Nghệ thuật chiến dịch- Một thành phần quan trọng của nghệ thuật quân
sự, giải quyết những vấn đề liên quân đế lý thuyết và thực hành huấn
luyện tác chiến và tiến hành các hoạt động tác chiến hợp đồng quân binh
chủng, tác chiến độc lập cấp chiến dịch, các hoạt động tác chiến của các
quân chủng trên những chiến trường khác nhau. Nhưng lý luận và thực
tiễn của nghệ thuật chiến dịch được hình thành cơ bản trong Điều lệnh
tác chiến hải quân.Những nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật chiến dịch là: nghiên cứu tính chất và nội dung của những hoạt động tác chiến. Đề xuất các phương pháp huấn luyện tác chiến và tác chiến trên bộ, trên không và trên không gian vũ trụ, xác định các giải pháp tác chiến chiến dịch với khả năng sử dụng các phương tiện chiến đấu và các lực lượng chiến đấu, đồng thời sử dụng các binh chủng sao cho có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong chiến dịch. Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp, những phương pháp điểu hành các lực lượng tham gia tác chiến, khả năng đảm bảo hậu cần kỹ thuật, yểm trợ hỏa lực, thực tể điều khiển các hoạt động tác chiến của các lực lượng, các quân binh chủng trong các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch.
Nghệ thuật chiến dịch nghiên cứu tất cả các hoạt động
tác chiến cấp chiến dịch như tấn công, phòng ngự, tổ chức và thực hiện
những hoạt động bố trí, di chuyển, tập trung binh lực trong các chiến
dịch và mối tương quan trong quan hệ thay đổi bố trí binh lực trên chiến
trường.
Nghệ thuật chiến dịch giữ vị trí kết nối giữa nghệ thuật chiến lược
quân sự và nghệ thuật tác chiến (chiến thuật). Theo mối quan hệ với
chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch giữ vai trò vô cùng quan trọng, nó
xác định cho chiến thuật nhiệm vụ và hướng phát triển tiếp theo.Giữa nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật có sự ràng buộc liên kết nhân quả và sự ràng buộc phụ thuộc phả hệ (cha-con). Ví dụ, khi xác định mục tiêu chiến lược của chiến tranh và những phương pháp tiến hành chiến tranh ở các khu vực chiến trường (địa bàn tác chiến) cần phải tính đến khả năng thực tế của các lực lượng vũ trang, các đơn vị quân chủng và các đơn vị thành viên binh chủng của quân chủng trong điều kiện cụ thể của chiến trường. Tương tự như vậy, khi lên kế hoạch triển khai các chiến dịch, cần tính đến khả năng tác chiến của các đơn vị binh chủng hợp thành, mức độ phát triển của lý luận và thực tiến của nghệ thuật tác chiến chiến dịch. Như vậy trong điều kiện thực tế của chiến trường, kết quả thành công của các hoạt động tác chiến quyết định những thành quả của các hoạt động của chiến dịch, và chiến thắng của các hoạt động chiến dịch ảnh hưởng trực tiếp đến những thành quả đạt được của các mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển chiến tranh và mục tiêu cuối cùng của chiến lược tiến hành chiến tranh. Sự phát triển mạnh mẽ của vũ khí trang bị và phương tiện kỹ thuật, khoa học công nghệ đã hoàn thiện cơ cấu tổ chức của các lực lượng vũ trang, thay đổi các phương thức điều hành tác chiến, sự liên kết ràng buộc và và mối quan hệ liên kết phụ thuộc giữa nghệ thuật chiến lược quân sư, nghệ thuật chiến dịch và nghệ thuật tác chiến trở nên đa dạng hóa, đa chiều, và năng động hơn. Do nghệ thuật chiến dịch giải quyết những vẫn đề của lý luận và thực tiến huấn luyện tác chiến và tiến hành triển khai các hoạt động tác chiến các chiến dịch hiệp đồng quân binh chủng hoặc các chiến dịch phát triển độc lập của không quân, hải quân và lục quân. Do đó, trong nghệ thuật quân sự nói chung, có thể chia ra được 3 lĩnh vực có liên quan mật thiết là nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật của từng quân chủng.
Nghệ thuật quân sự của mỗi lực lượng quân chủng xuất
phát từ những cơ sở căn bản của mô hình tác chiến lực lượng, yêu cầu của
lý luận và thực tiễn chiến đấu, tính đặc thù của cơ cấu tổ chức quân
chủng, của môi trường tác chiến, vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu,
khả năng và năng lực chiến đấu của các đơn vị binh chủng hợp thành của
quân chủng.
Những quan điểm về nghệ thuật chiến dịch được rút ra từ những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật quân sự nói chung.Những điểm mấu chốt là đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu cao của lực lượng và vũ khí trang bị; mạnh dạn, kiên quyết triển khai các hoạt động tác chiến với mục tiêu chiếm và nắm giữ quyền chủ động, sẵn sàng triển khai các hoạt động tác chiến khi địch sử dụng các loại vũ khí thông thường, vũ khí hiện đại và vũ khí có sức hủy diệt lớn; hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu đặt ra bằng sức mạnh tổng hợp của của các đơn vị binh chủng hợp thành, các đơn vị liên kết phối hợp của các quân chủng, trên cơ sở mối quan hệ tác chiến chặt chẽ của hiệp đồng quân binh chủng; tập trung được lực lượng đột phá chủ lực trên hướng tiến cống chính trong thời điểm quyết định. Áp dụng những nguyên tắc chung trong nghệ thuật chiến dịch phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của chiến trương, nơi diễn ra các hoạt động tác chiến của các đơn vị. Lý luận quân sự của các nước phương Tây không sử dụng thuật ngữ Nghệ thuật chiến dich, các nhà quân sự phương Tây sử dụng khái niệm Nghê thuật tác chiến lớn, hoặc khái niệm nghệ thuật chiến lược nhỏ. Sự phát triển của khoa học công nghệ quân sự đã đưa nghệ thuật chiến dịch phát triển lên một nấc thang mới, không gian của chiến trường mở rộng hơn, tham gia vào các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch trên khu vực biển, đại dương và các vùng nước ven bờ, khu vực bờ biển không chỉ là lực lượng hải quân, mà cả lực lượng không quân, lực lượng lục quân, lực lượng tên lửa chiến lược và lực lượng bộ đội không gian, các chiến dịch có sử dụng hải quân diễn ra liên tục thời bình như bảo vệ thềm lục địa, lãnh hải, vùng lợi ích, các tuyến vận tải chiến lược đường biển, các hoạt động chống xâm nhập, chống cướp biển đến thời chiến, khi các hoạt động tác chiến diễn ra trên không trên biển, trên đại dương và dưới đại dương, các đòn tấn công từ biển có thể đánh sâu vào đất liền khí sử dụng các tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình, không quân hải quân, đồng thời từ đất liền, các lực lượng như phòng thủ bờ biển, tên lửa chiến lược và chiến dịch, tên lửa phòng không S-500 hoàn toàn có khả năng tấn công các mục tiêu trên biển và trên các đại dương. Hỏa lực của một tầu chiến lớp khu trục có khả năng gây tổn thất nặng nề cho các đơn vị phòng thủ biển đảo mà không cần đòn tấn công của một liên đội tầu, hỏa lực của một tầu ngầm nguyên tử có khả năng tấn công hầu hết các mục tiêu chiến lược trên đất liền của cả một đất nước. Do đó, các nguyên tắc hải chiển sẽ có những thay đổi rất nhiều, vấn đề đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng hài quân được đặt lên một tầm cao mới, đó là khả năng huấn luyện, diễn tập thực binh và thực hiện những hoạt động đa nhiệm như tuần biển, trinh sát địa hình đáy biển, dòng chảy, thực hành những hoạt động cứu hộ biển và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của các loại tầu trên biển và đại dương, dưới biển (huấn luyện chống ngầm và chống ngầm). Để đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu, các đơn vị hải quân thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, tuần tiễu hoặc cùng với lực lượng cảnh sát biển, biên phòng duyên hải được tổ chức triển khai tương đương như những hoạt động tác chiến cấp chiến dịch, với biên chế đầy đủ vũ khí trang bị và mức độ sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Bức tranh toàn cảnh về nghệ thuật quân sự hải quân
Trang 5 / 5
"Trận
hải chiến vĩ đại" bị thay thế bằng những cuộc săn tìm trên biển với
hiệu quả sóng còn cao hơn, là nét nổi bật của tư duy tác chiến hải quân
mới.
Tư duy "trận hải chiến vĩ đại" lui dần vào lịch sử
Trước thế kỷ 20 các hoạt động trên biển
hầu như chỉ là nhưng hoạt động tác chiến cấp chiến thuật, các nước
phương Tây, những nước thực dân với đường lối chính trị "ngoại giao pháo
hạm" và nguyên tắc tác chiến "trận hải chiến vĩ đại" đã sử dụng những
hạm tàu viễn dương đánh chiếm các nước nghèo, lạc hậu thuộc chế độ phong
kiến với mục đích mở rộng thuộc địa. Hầu hết các cuộc chiến đấu diễn ra
không cân sức và lực lượng hải quân mang tính yểm trợ, vận tải và đổ
bộ.
Vào những năm 1904 – 1905 trong cuộc
chiến tranh Nga Nhật các trận hải chiến giữa Hạm đội Thái bình dương và
Hạm đội hải quân của Nhật đã xuất hiện những yếu tố của hải chiến hiện
đại.
Hải quân Nhật phát triển vượt bậc với
các thiết giáp hạm, các tàu tuần dương trọng tải lớn và pháo hạm hiện
đại hơn, các khu trục hạm bọc giáp hạng nhẹ với khả năng tấn công nhanh
đã làm chủ chiến trường trên mặt biển.
Các chiến dịch trong chiến tranh Nga -
Nhật dù thời gian kéo dài hơn, nhưng vẫn có những nét tương đồng của các
trận hải chiến lớn thời kỳ tàu buồm, với sự thất bại của hải quân Nga,
do đánh giá sai lầm sức mạnh hỏa lực pháo binh Nhật bản và khả năng tấn
công trực diện với tốc độ cao của các tàu khu trục hạng nhẹ, là bước
phát triển cao nhất của các Thiết giáp hạm, pháo hạm và các tàu khu trục
ham.
Lý thuyết hải chiến được xây dựng trên
cơ sở: Để tiêu diệt một hạm đội cần có một hạm đội khác mạnh hơn, có
nhiều pháo hạng nặng hơn và nhiều tàu thiết giáp tốc độ cao hơn.
Các giai đoạn của cuộc chiến thế
giới 1 cũng cho thấy những thương vong của các thiết giáp hạm bởi các vũ
khí năng động và tiết kiệm hơn và cũng là sự phát triển mạnh mẽ của tàu
ngầm.
Trong tháng 9/1914, mối đe dọa thực sự
từ chiến dịch săn tàu của đội tàu ngầm U-boat Đức đến các tàu chiến chủ
lực đã được chứng minh bởi các cuộc tấn công thành công vào các tuần
dương hạm của Anh, chiếc tàu ngầm U-9 Đức trong 1 trận đánh chìm 3 tàu
tuần dương bọc thép của Anh chỉ trong vòng chưa đầy 1 giờ.
Thủy lôi tiếp tục chứng minh là một mối
đe dọa thường trực khi chỉ 1 tháng sau đó, "siêu thiết giáp hạm" lớp
Dreadnought Audacious của Anh đã đâm vào một quả thủy lôi và chìm.
Đến cuối những năm 1918 - 1920, chiến
lược và chiến thuật của Anh ở Biển Bắc phải thay đổi để làm giảm sự khả
năng tiêu diệt của tàu U-boat.
Tại Jutland là cuộc đụng độ lớn
duy nhất của các hạm đội thiết giáp hạm trong lịch sử, kế hoạch của Đức
trong trận chiến là dựa vào đội tàu U-boat để tung ra các cuộc tấn công
vào hạm đội Anh, và việc hạm đội thiết giáp hạm Đức thoát khỏi hỏa lực
mạnh mẽ hơn của tàu Anh là bởi các tàu tuần dương và tàu khu trục của
Đức có thể áp vào gần các thiết giáp hạm của Anh, làm chúng (các thiết
giáp hạm của Anh) phải di chuyển để tránh sự đe dọa của các cuộc tấn
công bằng ngư lôi.
Hơn nữa những thiếu sót để cho các tàu
ngầm tấn công các tuần dương hạm làm cho các tàu tuần dương bị thương
vong lớn đã dẫn đến những hoang tưởng ngày càng tăng trong Hải quân
Hoàng gia Anh về chỗ yếu của thiết giáp hạm.
Trận hải chiến Jutland vào cuối tháng
3/1916 giữa hạm đội của Anh và của Đức đã kết thúc tư duy chiến lược
"trận đánh vĩ đại trên biển".
Trong trận hải chiến này, người Anh đã
mất 14 tàu với trọng tải là 11.3570 tấn, 6.097 thủy thủ hy sinh, 510 bị
thương. Người Đức mất 11 chiến hạm với trọng tải là 60.250 tấn, 2.551
thủy thủ hy sinh, 507 người bị thương.
Nhưng trận chiến lớn nhất này không kết
thúc bằng sự hủy diệt của Hải quân Anh, và người Đức cũng không chiếm
được vị trí thống trị trên biển. Tư duy nghệ thuật chiến dịch kết thúc
bằng một trận hải chiến vĩ đại đã mất hoàn toàn giá trị hiện thực của
nó.
Các cuộc săn tìm trên biển
Sau đại chiến thế giới lần thứ 1, nghệ
thuật quân sự phát triển mạnh với sự phát triển của xe tăng, xe thiết
giáp, pháo nòng dài, tư duy chiến dịch có chiều sâu vào các chiến dịch
mà lực lượng chủ lực giải quyết chiến trường là lực lượng bộ binh, lực
lượng hải quân đóng vai trò yểm trợ.
Các chiến dịch hải chiến chủ yếu có mục
đích bảo vệ đường vận tải biển, tấn công tàu ngầm và chống ngầm, đồng
thời phát triển mạnh binh chủng không quân hải quân.
Nghệ thuật chiến dịch tập trung giải
quyết các nhiệm vụ chủ yếu, bảo vệ các căn cứ kinh tế, quân sự ven biển,
tấn công các tuyến đường vận tải bằng tàu ngầm bảo vệ đường vận tải và
chống ngầm, tác chiến không-hải bằng lực lượng không quân và không quân
hải quân với sự tham gia của các tàu sân bay.
Khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra,
trên các vùng nước của các cường quốc tham gia chiến tranh, cuộc chiến
đấu diễn ra ác liệt với các chiến dịch săn tìm các đoàn tàu vận tải của
đối phương, tấn công bằng tàu ngầm, các hạm đội hải chiến chủ yếu bằng
tàu sân bay và không quân hải quân tấn công căn cứ hải quân của đối
phương bằng lực lượng đổ bộ hải quân với sự yểm trợ hỏa lực mạnh mẽ của
hải quân.
Một trong những trận đánh làm thay
đổi tư duy chiến dịch của hải chiến, bắt đầu thời kỳ của khoa học công
nghệ hiện đại là trận đánh ở mũi Matapan ngày 27 – 29/5/1941 giữa Hải
quân Hoàng gia Anh và hải quân Italy.
Sau một thời gian dài tiến hành chiến
dịch săn tìm, cuối cùng hạm đội Anh đã phát hiện một hải đoàn của hải
quân Italy với kỳ hạm Vittorio Veneto, 6 tàu thiết giáp hạm hạng nặng, 2
tàu tuần dương hạng nhẹ và 13 tàu khu trục.
Không quân hải quân tàu sân bay
Formideybl của Anh đã đánh thiệt hại nặng kỳ hạm và thiết giáp hạm của
Italy. Cuộc chiến đấu tiếp tục diễn ra vào ban đêm, chiến hạm của Anh sử
dụng radar đã nhanh chóng phát hiện ra tàu chiến của Italy và nhấn chìm
3 tàu tuần dương hạng nặng, 2 tàu khu trục.
Đặc biệt đáng kể: Hải đoàn của người Anh không có tổn thất đáng kể.
Là nước có nền công nghiệp phát
triển mạnh, Đức đã phát triển một tư duy chiến dịch mới, đi kèm với sự
phát triển của công nghệ đóng tàu ngầm U-Boat tải trọng 200 tấn, "chiến
thuật bầy sói", người Đức đã tung hoành trên Đại Tây dương, tấn công các
tuyến đường vận tải, các hạm tàu của các nước Đồng minh, vũ khí tấn
công chủ yếu là ngư lôi, thứ yếu là pháo hạm hạng nhẹ.
Chiến thuật bầy sói đã gây rất nhiều tổn
thất cho các đoàn quân sự và đoàn tàu thương mại trên biển. Sự phát
triển mạnh mẽ của tàu ngầm, ngư lôi, thủy lôi và máy bay ném bom chìm,
phóng ngư lôi đã xuất hiện một thế hệ các tàu chiến mới, thay thế cho
các tuần dương hạm hạng nặng và thiết giáp hạm, đó là những tàu yểm trợ
và đánh chặn bảo vệ tiền duyên của các đoàn tàu thương mại và vận tải,
tàu khu trục phóng lôi và săn ngầm.
Hàng trăm chiếc tàu khu trục của
Anh, Mỹ với các thiết bị hiện đại được triển khai trên Đại tây dương và
Địa trung hải với mục tiêu săn ngầm, đánh tiêu diệt các tàu ngầm Đức,
với chiến dịch truy quét tàu ngầm, tập trung lực lượng từ nhiều hướng
bao vây và tiêu diệt, quân đội Đồng Minh đã đánh chim kỳ hạm Bismarck và
bắt đầu sự thảm bại của hải quân Đức.
Sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị
radar, sonar, ngư lôi và không quân hải quân đã tạo ưu thế trên mặt nước
Địa Trung hải, Hải quân Đức đã tổn thất nặng nề trong chiến dịch sử
dụng tàu ngầm thống trị mặt biển, người Đức cố gắng kéo lại ưu thế bằng
giải pháp thiết kế tàu ngầm mới loại Elektroboat với khả năng lặn lâu
hơn, tấn công ngư lôi từ dưới mặt nước, nhưng thời gian không cho phép,
khi quân Đồng minh đổ bộ lên Normandy từ 6 đến tháng 8/1944 đó cũng là
trận hải chiến cuối cùng của tàu ngầm Đức.
Nhìn toàn cuộc, 1.155 tàu ngầm Đức được tung vào cuộc chiến, trong đó có 725 chiếc bị đánh chìm.
Trong 6 năm, hơn 35.000 thủy thủ Đức lao
vào cuộc chiến sống còn trên biển và 28.744 người không bao giờ trở về -
tỷ lệ thiệt mạng 82% được xem là cao nhất trong lịch sử chiến tranh
hiện đại.
Đặc điểm của các chiến dịch do các
lực lượng hải quân tiến hành được thể hiện rõ nét nhất trên Chiến
trường Đông Nam Á, và nổi bật là cuộc chiến tranh trên biển Philippines
1941-1945 giữa lực lượng Hải quân Nhật bản và lực lượng Đồng Minh.
Hải quân Nhật dưới quyền chỉ huy của đô
đốc hải quân Isoroku Yamamoto nhận định, thời kỳ của những chiếc thiết
giáp hạm và pháo hạm đã kết thúc, phương án để đánh bại một hạm đội
thiết giáp hạm cần một hạm đội thiết giáp hạm lớn hơn, có vỏ thép dầy
hơn và pháo nặng hơn đã không còn thực tế nữa.
Đô đốc Yamamoto chọn phương án sử dụng
máy bay chiến đấu với các loại ngư lôi tấn công dưới ngấn nước, không
quân hải quân và tàu sân bay là lực lượng tác chiến chủ lực của hải quân
Nhật bản, do đó, lực lượng không quân hải quân và tàu sân bay của Nhật
được phát triển mạnh mẽ, khả năng hải hành viễn dương rất cao và có thể
hiệp đồng tác chiến quân binh chủng chặt chẽ.
Lực lượng viễn chinh chủ yếu của nhật
bản dưa trên sức mạnh của những hạm đội trong đó, lực lượng tàu sân bay
cảm tử kamikaze đóng vai trò chủ lực. Tuy nhiên, người Nhật luôn đánh
giá cao lý luận thống trị trên đại dương bằng một trận hải chiến vĩ đại,
tiêu diệt phần lớn lực lượng hải quân đối phương bằng những đòn tấn
công liên tiếp, quyết liệt của không quân, sau đó mở rộng không gian tác
chiến bằng những đòn đánh của lực lượng thiết giáp hạm, tuần dương hạm
và tàu ngầm với vũ khí chủ đạo là ngư lôi – pháo hạm với sự yểm trợ của
máy bay ném bom, kết thúc chiến dịch bằng các cuộc đổ bộ từ biển đánh
sâu vào đất liền, chiếm đóng và tiêu diệt.
Để khẳng định cho lý luận quân sự này,
Nhật Bản đã đưa lực lượng hải quân viễn dương hùng mạnh vào đại chiến
thế giới lần thứ 2. Mở màn bằng trận tấn công Chân Trâu cảng, Hải quân
Nhật đã đánh tiêu diệt hại nặng Hạm đội Thái bình dương của Mỹ do đô đốc
Husband Kimmel, tư lệnh hạm đội (từ tháng 2-1941).
Sau cuộc tấn công Chân Trâu cảng,
các chiến dịch hải chiến trong khu vực Đông Nam Á đã mở rộng, Hải quân
Nhật bản với biên chế đầy đủ tàu sân bay, thiết giáp hạm, tuần dương
hạm, các tàu khu trục, tàu ngầm và không quân hải quân đã vượt qua Thái
Bình Dương và tiến sâu vào Ấn Độ dương, tiêu diệt 2 hạm tàu mạnh nhất
của nước Anh Prince of Wales và Repulse đuổi hạm đội của Hoàng gia Anh
tháo lui khỏi biển Ấn độ. Quân đội Nhật đã đánh chiếm toàn bộ Đông Nam
Á. Nhưng cũng từ đó, lực lượng hải quân Nhật bản đã bộc lộ những điểm
yếu dẫn đến sự thảm bại sau này.
Điểm thứ nhất: Quân đội Nhật đã quá tin
tưởng vào sức mạnh hải quân, do đó, sự gắn kết chiến dịch với các lực
lượng lục quân Nhật Bản không chặt chẽ. Đặc biệt là với lực lượng lục
quân.
Điểm thứ hai. Quân đội Nhật được trang
bị vũ khí hiện đại, nhưng hệ thống thông tin trinh sát và quản lý chiến
trường rất yếu. Đó là khả năng thông tin liên lạc của các hải đoàn rất
kém, người Nhật không được trang bị radar, một thiết bị quân sự hiện
đại, song hành cùng với điều đó, nền công nghiệp Nhật bản, đặc biệt là
cụm công nghiệp tàu biển và máy bay chiến đấu, đã không đáp ứng được yêu
cầu trên chiến trường.
Những hạn chế trên đã trở thành nguyên
nhân chính gây ra thất bại của Hải quân Nhật bản. Sau chiến dịch tấn
công Midway thất bại, lực lượng Hải quân Nhật đã rơi vào tính thế chiến
đấu mà không có sự hộ trợ mạnh mẽ của nền công nghiệp quốc phòng, những
tổn thất nặng nề trong chiến tranh đã không được bù đắp, và loạt chiến
dịch liên tiếp trên chiến trường Philippines thất bại.
Hải quân Nhật bị tổn thất nặng nề bởi
các đòn tấn công của máy bay cường kích, tàu ngầm, trận chiến vịnh Leyte
đã chấm dứt mọi hoạt động của hạm đội Nhật bản với tư cách là lực lượng
hải quân hùng mạnh trên biển Thái Bình dương. Nhật bản bị đánh tiêu
diệt trên mặt trận Mãn Châu, bị hủy diệt bởi 2 quả bom nguyên tử, và
chiến dịch Okinawa đã buộc quân đội Nhật phải đầu hàng.
Sau những thất bại đầu chiến tranh, lực
lượng Đồng Minh đã học tập kinh nghiệm tác chiến chiến dịch của Nhật bản
với phương pháp sử dụng không quân kải quân và tàu ngầm tác chiến độc
lập.
Mỹ tập trung phát triển máy bay tác
chiến trên tàu sân bay, Anh tăng cường sức chịu đựng của thiết giáp hạm
trước sức tấn công của không quân hải quân, trong các chiến dịch hải
chiến, với sức mạnh vượt gấp nhiều lần của nền công nghiệp quốc phòng,
với khả năng có thể trang bị cho Hải quân những vũ khí và thiết bị quân
sự tối tân nhất.
Lực lượng Đồng minh đã có ưu thế cả trên
không và trên biển. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng tham gia tác
chiến, lấy không quân hải quân, với các pháo đài bay B-17 làm chủ đạo,
các máy bay cường kích mang ngư lôi và bom đã phối hợp chặt chẽ với các
lực lượng tàu ngầm, lực lượng bộ binh cơ giới.
Vượt trội hơn Nhật bản về công nghệ sản
xuất máy bay chiến đấu, máy bay trinh sát và hệ thống radar, Mỹ đã tăng
cường sức mạnh tối đa của không quân hải quân. Quân đội Đồng minh đã
tiến hành các chiến dịch tuy quét lực lượng hải quân Nhật bản, tập trung
máy bay tấn công với số lượng lớn nhằm tiêu diệt các tàu sân bay của
lực lượng hải quân Nhật bản.
Đầu năm 1945, hầu hết các hạm đội của
Nhật bản đều nằm sâu dưới đáy biến, Mỹ đồng thời dùng lực lượng bộ binh,
không quân đánh quỵ tiềm năng chiến tranh của Nhật. Từ đó triển khai
những chiến dịch tấn công đổ bộ lên đảo Okinawa, Nhật hoàng đọc tuyên bố
đầu hàng Đồng minh vô điều kiện.
TRỊNH THÁI BẰNG (GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG AN NINH)
ĐC chép từ http://reds.vn |
Nhận xét
Đăng nhận xét