Thứ Năm, 3 tháng 4, 2014

THÀNH TỰU VÀ TỘI LỖI 3

(ĐC sưu tầm trên NET)


Trận Salamis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Salamis (tiếng Hy Lạp cổ: Ναυμαχία τῆς Σαλαμῖνος), là một trận đánh hải quân quyết định giữa các quốc gia-thành phố Hy Lạpđế quốc Ba Tư vào năm 480 trước Công nguyên ở một eo biển giữa Piraeusđảo Salamis, một hòn đảo ở vịnh Saron gần Athena. Chiến thắng của người Hy Lạp đã đánh dấu một bước ngoặt của chiến dịch, dẫn đến thất bại cuối chung cuộc của quân Ba Tư.
Năm 490 TCN hoàng đế Ba Tư là Darius Đại đế mang quân sang đánh Hy Lạp. Trong trận Marathon, quân Ba Tư bị thua rút chạy về nước, sửa soạn phục thù trong mười năm. Đến năm 480 TCN, hoàng đế Ba Tư là Xerxes Đại đế đưa đại quân đến đánh Hy Lạp. Nước Hy Lạp lúc đó do Themistocles đứng đầu. Mùa xuân năm 480 TCN, quân Ba Tư tiến vào Địa Trung Hải và tấn công Hy Lạp. Mục đích ban đầu là đánh chiếm thành Athena. Người đứng đầu nhà nước Hy Lạp lệnh cho tất cả các thành phố cảng vùng biển phải dựng các chướng ngại vật dọc theo bờ biển để ngăn quân đối phương đổ bộ và cho tập trung tất cả quân đội và chiến thuyền tại eo biển Salamis.
Đoàn chiến thuyền của Ba Tư gồm 1200 chiếc, chạy dọc theo bờ biển Thessali tiến xuống quần đảo ở phía Bắc mỏm Eubée, nơi có mặt những chiến thuyền tiên phong của Hy Lạp... Xerxes cho dàn thuyền chiến thành 8 hàng trong đêm tối nhưng khi bố trí xong thì gần đến sáng, bỗng có cơn giông ập tới, phá tan thuyền chiến Ba Tư, đánh giạt hàng trăm chiếc vào bờ và bị chìm một số. Khi tập hợp lại chỉ còn không đầy 800 chiếc. Xerxes liền cắt cử Nữ hoàng xứ Halicarnass Artemisia I - đồng thời cũng là nữ tướng chỉ huy 5 chiến thuyền bất ngờ tấn công vào phía Hy Lạp. Hạm đội Hy Lạp bị thua to khi trời gần sáng. Artemisia bắt được một viên tướng Hy Lạp, sai đem buộc vào mũi thuyền, cắt cổ cho máu chảy xuống biển để tạ ơn Thần Biển! Tiếp đó thừa thắng xông lên, Ba Tư kéo đại quân xuống phía đông Eubée. Trong khi đó quân Hy Lạp nung nấu ý chí phục thù, rồi nhân một đêm tối trời, họ phản công lại quân Ba Tư. Quân Ba Tư chủ quan khinh địch không kịp trở tay, bị đắm ba chục chiếc thuyền phải tháo chạy ra biển và liền bị bão giông nổi lên làm đắm nhiều chiếc khác. Sau ba ngày, trời yên, bể lặng, quân Ba Tư kéo trở lại mỏm Eubée. Nhưng họ lại bị thua và phải rút lui về cảng Sêpia. Trong lúc Hy Lạp nhận được thêm viện binh liền truy kích quân Ba Tư. Trận cuối cùng nổ ra ở Salamine, quân Hy Lạp đã thắng, thuyền chiến Ba Tư đắm gần hết, một số bị bắt làm tù binh. Hoàng đế Xerxes hạ lệnh giết hết những người chỉ huy và thủy thủ bỏ chạy. Bên Hy Lạp cũng giết hết các tù binh, trong số đó có Đô đốc là Hoàng tử Ariabigne (Ariabinhơ) là em trai của chính Xerxes.
Trận thắng của Hy Lạp đã làm tan vỡ mộng tưởng chinh phục Châu Âu của Ba Tư. Đây là trận thủy chiến nổi tiếng trong lịch sử cổ đại và đã đưa Themistocles lên hàng danh tướng thế giới thời cổ đại.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 18:04, ngày 7 tháng 10 năm 2013.

Bức tranh toàn cảnh về nghệ thuật quân sự hải quân

    Chiến lược hải quân thời bình và thời chiến phản ánh trung thành đường lối chính trị của quốc gia, dân tộc với mục tiêu phát triển và bảo vệ lợi ích biển, đại dương.
    Những yếu tố lịch sử của nghệ thuật quân sự Hải quân
    Những thành tố đầu tiên của nghệ thuật quân sự Hải quân được hình thành từ rất lâu, khi xuất hiện các hạm đội và hoàn thiện cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, vũ khí trang bị và các mô hình tác chiến.
    Thời kỳ chiếm hữu nô lệ, ở các nhà nước Hy Lạp cổ đại, La mã cổ đại và các nước khác, hạm đội được hình thành từ những tàu có mái chèo do nô lệ chèo thuyền. Chiến lược chiến tranh của các nước cổ đại đã để lực lượng hải quân như là lực lượng hỗ trợ và các hoạt động tác chiến của hải quân chủ yếu là vùng bờ biển.
    Phương pháp tác chiến cổ điển vẫn là dùng mũi nhọn thân tầu để đâm và đổ bộ, đánh chiếm tàu đối phương. Chiến thuật duy nhất là các tàu chiến dàn hàng ngang và lao vào nhau, khả năng dành ưu thế ban đầu là kỹ năng điều khiển tàu của thuyền trưởng.
    Một sự cố gắng đầu tiên trong xây dựng nghệ thuật quân sự Hải quân là tác phẩm của Vegetius thế kỷ thứ 5, có tên "Bản tóm tắt những đề xuất về tác chiến”. Trong bản tóm tắt này cùng với những hoạt động tác chiến khác ông đã đưa ra những giới thiệu sơ lược về phương pháp chiến đấu trên biển.
    Châu Âu vào thời kỳ tiền phong kiến (đến thế kỷ thứ 10) hạm đội và nghệ thuật tác chiến trên biển chưa có những phát triển đáng kể.
    Do sự phát triển mạnh mẽ về thương mại, trong thời kỳ chế độ phong kiến phát triển rực rỡ nhất ở châu Âu, kỹ thuật đóng tàu đã có những bước tiến mạnh mẽ.
    Thế kỷ thứ 10 và 11 xuất hiện các tàu buồm, đồng thời là các thiết bị dẫn đường trên biển (la bàn, kính lục phân - dụng cụ đo độ cao mặt trời, để xác định vị trí con tàu, bàn đồ biển) cho phép tàu có thể đi dài ngày trên biển rộng. Từ thế kỷ 14, trên các tàu buồm được trang bị pháo thần công. Từ thế kỷ 15 – 16 bắt đầu chuyển hướng từ tàu có mái chèo sang sử dụng các tàu buồm, quá trình này kết thúc vào giữa thế kỷ 17.
    Chiến lược quân sự hải quân hình thành vào thế kỷ 15 – 16, trong quân đội các nước thực dân như Italy, Bồ Đào Nha, sau đó là Anh, Pháp, và Hà Lan. Chiến lược xâm lược thuộc địa bằng hải quân đã nâng cao vị trí của hải quân trong chiến tranh, thay đổi tính chất sử dụng hải quân, đồng thời đặt lên vai của Hải quân nhiệm vụ độc lập như tiến công tàu hàng, chống cướp biến, cắt đứt các đường giao thông, liên lạc và vận tải đường biển, đồng thời bảo vệ các tuyến giao thông đường biển của quân mình. Tuy nhiên, nghệ thuật tác chiến chưa phát triển, vẫn gần giống với nghệ thuật tác chiến thời La mã cổ đại.
    "Ngoại giao pháo hạm" thúc đẩy sự phát triển của hải quân
    Thế kỷ thứ 17, đánh dấu sự hình thành các hạm đội thường trực chiến đấu, trở thành công cụ quan trọng cho chính sách "ngoại giao pháo hạm" của các nước phát triển.
    Sự phát triển mạnh mẽ của pháo hạm, sử dụng hạm đội pháo hạm như một vũ khí quan trọng chính trong các cuộc chiến đấu trên biển trong chiến tranh Anh – Hà Lan thế kỷ 17, làm thay đổi căn bản tận gốc về biên chế lực lượng, cơ cấu tổ chức của hạm đội tàu buồm và nghệ thuật tác chiến của hải quân.
    Đòn tấn công chủ lực dành cho các thiết giáp hạm có trang bị pháo cỡ nòng lớn và số lượng nhiều, các tàu khu trục frigate nhỏ, các thuyền có mái chèo trang bị pháo nhỏ và các tầu hỏa công (fire – ship) đóng vai trò hỗ trợ trong các cuộc chiến đấu trên biển và phong tỏa trên biển.
    Cơ cấu tổ chức hạm đội đã phức tạp hơn, các tàu đã liên kết lại thành các liên đội tàu dưới sự chỉ huy thống nhất của một tàu chỉ huy (Flagship) liên đội. Đội hình tác chiến của liên đội trong hải chiến và của hạm đội là tuyến cơ động chiến đấu, cho phép các tầu có thể cơ động trong tuyến cơ động của liên đội.
    Phương án tác chiến này cho phép sử dụng hiệu quả hỏa lực của pháo hạm được bố trí nhiều hành bên sườn tàu. Đâm tàu vào nhau sử dụng ngày càng ít hơn, phương pháp đổ bộ lên tàu đối phương vẫn được áp dụng khi sử dụng tàu buồm, tác chiến theo phương pháp tuyến cơ động chiến đấu được sử dụng trong suốt thế kỷ 17 và 18.
    Một đóng góp quan trọng trong việc phát triển nghệ thuật quân sự Hải quân là nghệ thuật tác chiến của Hải quân Nga vào ¼ đầu thế kỷ 18 trong cuộc chiến tranh Bắc Âu, (Great Northern War năm 1700—1721) chống lại lực lượng Hải quân hùng mạnh của Thụy Điển.
    Thay vì cùng với lực lượng của các nước phương Tây đổ bộ lên bờ, đánh phá đường vận tải của đối phương và một cuộc chiến tổng lực của các hạm đội. Vua Peter I đã áp dụng chiến thuật kiên quyết và chắc chắn, kết hợp tác chiến chặt chẽ giữa hải quân và lục quân đánh chiếm căn cứ hải quân của đối phương, lợi dụng hướng gió cơ động nhanh, tấn công hạm đội đối phương từ phía bên sườn, chia cắt đội hình tàu địch, bao vây và đổ bộ chiếm tàu.
    Chiến thuật của vua Peter I đã được ghi vào "Điều lệnh tác chiến Hải quân năm 1720".
    Giữa thế kỷ 18, pháo hạm đã có sự phát triển vượt bậc (tầm bắn xa hơn, khả năng xuyên và nổ phá mạnh hơn của đạn pháo, khả năng bắn chính xác hơn) do đó, đã xuất hiện những mâu thuẫn đối kháng trong tác chiến bằng phương thức tuyến cơ động chiến đấu cổ điển.
    Đô đốc G.A.Spiridov, đô đốc F.F.Usacov (Nga) là 2 đô đốc đầu tiền trong thực tế hải chiến đã từ bỏ phương án tác chiến tuyến cơ động chiến đấu và đặt những bước đầu tiên cho phương án tác chiến hạm đội mới, vận động tác chiến chiều sâu.
    Nghệ thuật hải chiến mới có đặc điểm khác hẳn so với phương án tác chiến trước đây là tính năng động cao trong tác chiến, quyết tâm đạt mục tiêu đã đặt trước, có sự phối hợp tốt giữa các lực lượng trong liên đội và đã có những thành công trong các trận hải chiến ở Kênh Chios năm 1770, Tendra 1790, và Mũi Hảo vọng năm 1971.
    Những thử nghiệm đầu tiên của lý thuyết nghệ thuật quân sự Hải quân vận động tác chiến được phản ánh khá sâu sắc trong tác phẩm của người Anh J. Clerk "Kinh nghiệm hải chiến”, chương 1-4 xuất bản năm 1790 – 1797, được dịch ra tiếng Nga với tiêu đề " Hạm đội vận động chiến” năm 1803.
    Trong tác phẩm ông đã tổng kết những nguyên nhân dẫn đến những thất bại của Hạm đội Anh trong nhưng trận đánh giữa thế kỷ 18, đề xuất những kiến nghị thay đổi chiến thuật tuyến cơ động chiến đấu bằng những chiến thuật vận động chiến trong Hải chiến.
    Nhưng trong nghệ thuật tác chiến Hải quân của những cường quốc biển ( Anh, Pháp, Italy, Hà lan) chiến thuật tuyến vận động chiến đấu vẫn được áp dụng chủ đạo đến cuối thế kỷ 18.
    Chiến thắng của đô đốc người Anh G. Nelson ở Aboukir năm 1798, Trafalgar năm 1805, đô đốc người Nga ở trận "Battle of Athos” với sự áp dụng chiến thuật vận động tác chiến linh hoạt đã khẳng định tính ưu việt của chiến thuật vận động tiến công.
    Chiến thuật này được xem xét cùng với quá trình vận động tiến cồng của liên đội hạm tàu để sử dụng triệt để hỏa lực pháo hạm và phá hủy khả năng điều khiển hải lực của hạm đội đối phương, đã phát huy tối đa khả năng độc lập tác chiến của chiến hạm.
    Chiến thuật vận động đã bổ xung thêm nội dung tác chiến độc lập của hải thuyền và xuất hiện những đòi hỏi rất cao đối với thuyền trưởng trong nghệ thuật điều khiển tàu và sử dụng hỏa lực pháo binh trong hải chiến.
    ĐC chép từ http://reds.vn
    (Còn nữa)

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét