Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

VIỆT NAM HIỀN HÒA 42 (Đền Ngọc Sơn)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Tháp rùa

                                    

 

Đền Ngọc Sơn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đền Ngọc Sơn là một ngôi đền thờ nằm trên đảo Ngọc của hồ Hoàn KiếmHà Nội, Việt Nam. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4.


Cổng đền Ngọc Sơn: trán cổng ghi ba chữ "Đắc nguyệt lâu" 得月樓 tức là lầu (hứng) được (ánh) trăng

Lịch sử


Tiền đường đền Ngọc Sơn
Đền hiện nay được xây dựng từ thế kỷ 19. Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn (chữ Nho: 玉山), sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương Đế Quân là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng có công phá quân Nguyên thế kỷ 13.
Khởi nguyên, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên-Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ.
Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thụy Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Bài kí "Đền Ngọc Sơn đế quân" được soạn năm 1843 vào lúc nhân dịp sửa đền Quan đế thành chùa Ngọc Sơn có viết : "...Hồ Tả Vọng tên cũ gọi hồ Hoàn Kiếm là một danh thắng đất Kinh kỳ xưa. Phía bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào, tương truyền là chỗ đài câu cá thời cuối Lê. Trước đây, ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đấy bèn mở rộng sửa sang thêm gọi là chùa Ngọc Sơn...".
Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đặt tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn. Theo bài ký "Sửa lại miếu Văn Xương", thì "...Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật..."
Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc.

Kiến trúc


Tháp Bút ở đầu cầu Thê Húc phía ngoài

Tháp Bút

Trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn) cũ, nhà nho Nguyễn Văn Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút.

Đài Nghiên

Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: "Nhất đài Phương Đình bút". Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành. Hai bên có hai câu đối:
Bát đảo, mặc ngân hồ thủy mãn
Kình thiên, bút thế thạch phong cao.
Nghĩa là:
Tràn quanh đảo ngấn mực đầy hồ
Chạm bầu trời, thế bút ngất núi

Cầu Thê Húc


Cầu Thê Húc
Cầu Thê Húc là cây cầu ở hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, thủ đô của Việt Nam.
Nối từ Bờ Hồ ra hòn đảo nhỏ nơi có đền Ngọc Sơn, cây cầu này màu đỏ son, làm bằng gỗ, có nhiều trụ liên tiếp. Cầu được Thần Siêu Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm" (棲旭).
Năm 1865 dưới triều Tự Đức, Nguyễn Văn Siêu cho xây cầu nối bờ với đền Ngọc Sơn và đặt tên nó là Thê Húc (nghĩa là "giọt ánh sáng đậu lại"). Cầu gồm 15 nhịp, có 32 chân cột gỗ tròn xếp thành 16 đôi, mặt cầu lát ván, thành sơn màu đỏ sẫm, chữ Thê Húc được thếp vàng. Cầu đã trải qua hai lần tái thiết kể từ khi hoàn tất. Lần thứ nhất là vào năm 1897 triều Thành Thái. Lần thứ nhì là vào năm 1952 sau khi một nhịp cầu gãy vào đêm Giao thừa năm Nhâm Thìn vì khách đi lễ đền Ngọc Sơn quá đông. Dưới sự giám sát của kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng cầu được xây lại thay vì bằng gỗ thì móng cầu được đúc lại bằng xi măng.
Cầu Thê Húc xưa kia được làm bằng gỗ rất thô sơ và sơn màu đỏ. Năm 1952 thị trưởng Hà Nội lúc đó là Thẩm Hoàng Tín đã cho phá bỏ cầu cũ, xây cầu mới sau vụ cầu sập, sử dụng thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Diệm. Cầu được thiết kế vẫn với dáng cầu vòng nhưng độ cong lớn hơn cầu cũ, vẫn giữ nguyên 16 hàng cọc; các dầm ngang và dọc đúc bằng bê tông. Mặt cầu và thành cầu vẫn là gỗ.
Cầu Thê Húc hướng về phía đông, hướng về phía mặt trời mọc để đón được toàn vẹn nguồn dưỡng khí ấy. Với ý nghĩa ấy, nên xưa nay cây cầu mang màu đỏ - màu của sự sống, của mọi nguồn hạnh phúc, của ước vọng truyền đời từ thời cổ đại đến nay - cây cầu Thê Húc - biểu tượng của thần mặt trời
Cả một quần thể di tích nằm trong không gian đầy huyền thoại của Hồ Gươm đều mang dấu ấn về tín ngưỡng thờ thần mặt trời. Từ Đài nghiên, Tháp bút cho đến cây cầu Thê Húc... từ việc chọn hướng đến cấu trúc, màu sắc, biểu tượng cho đến sự liên hoàn giữa các di tích đều ẩn chứa yếu tố linh thiêng này
Một góc nhìn khác - góc nhìn của thẩm mỹ dân gian thì cây cầu Thê Húc chỉ có thể có một cách chọn lựa duy nhất là sơn màu đỏ, không thể khác. Với điều này, xin được lược trích ý kiến của ông cháu nhà phê bình mỹ học Vũ Ngọc Anh: "... Đúng là cái cầu này đứng giữa thanh thiên bạch nhật thì lúc nào nó chẳng có ánh nắng rọi vào. Tứ thời bát tiết, trong những khung cảnh riêng nào đấy, hình bóng nó cũng mỗi lúc một khác..."

Đắc Nguyệt Lâu

Cổng đền có tên là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng). Cổng nằm chếch dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên.

Đền thờ


Tượng thờ trong đền Ngọc Sơn
Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1 m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút.

Trấn Ba Đình

Phía Nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng - ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Cột trong đình có đôi câu đối:
Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy
Văn tòng đại khối thọ như sơn
Chữ Hán:
劍 有 餘 靈 光 若 水
文 從 大 塊 壽 如 山
Nghĩa là:
Kiếm sót khí thiêng ngời tựa nước
Văn cùng trời đất thọ như non.
Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, Trần Hưng Đạo, còn thờ cả Phật A-di-đà. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.
Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới, song đền Ngọc Sơn là một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. Sự kết hợp giữa đền và hồ đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên.


ĐỌC THÊM

ĐỀN NGỌC SƠN VÀ CỤM DI TÍCH HỒ HOÀN KIẾM


Mỗi khi nhắc đến hồ Hoàn Kiếm, hẳn nhiều người còn nhớ đến những công trình kiến trúc đầy ấn tượng như tháp Bút, đài Nghiên, cầu Thê Húc dẫn vào lầu Đắc Nguyệt hay đình Trấn Ba, tháp Rùa… có liên hệ gần gũi với đền Ngọc Sơn trên đảo Ngọc giữa hồ. Nguyên đảo có tên là Tượng Nhĩ (tai voi), đến thời Lý được đổi thành Ngọc Tượng Sơn. Tên Ngọc Sơn là có từ thời Trần.

Trong thời vua Lê, trên đảo Ngọc Sơn chúa Trịnh Giang đã cho xây dựng cung Khánh Thụy để làm điểm vui chơi, sau này Trịnh Doanh cũng cho đắp thêm cạnh bờ hồ chỗ đối diện với cung Khánh Thụy một gò đất và đặt tên là Ngọc Bội Sơn. Cung Khánh Thụy về sau đã bị Lê Chiêu Thống đốt trụi. Đến cuối đời Lê, trên nền cũ của cung Khánh Thụy đã xây dựng chùa Ngọc Sơn thờ Phật. Qua thời Nguyễn, chùa được chuyển thành đền thờ Văn Xương Đế Quân, rồi lại phối thờ Lã Động Tiên, Quan Vân Trường. Sau này người Hà thành đã đưa vào thờ tướng quân Trần Hưng Đạo, nhà quân sự thiên tài đã ba lần chiến thắng quân Nguyên - Mông thế kỷ thứ 13.
a
Đền Ngọc Sơn trên đảo Ngọc Sơn -- Ảnh: nguồn yeudulịch.vn (20.1.2010)

Năm 1865, Án sát Nguyễn Văn Siêu đã đứng ra vận động tu sửa đền và diện mạo như hiện nay là có từ lần tu sửa này. Trên gò Ngọc Bội ông đã cho xây một tháp đá có đỉnh hình ngọn bút lông, thân tháp khắc ba chữ “Tả Thanh Thiên” (viết lên trời xanh) mà ngày nay quen gọi là tháp Bút.

Qua tháp sẽ đến một cửa cuốn gọi là đài Nghiên, bên trên có một nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ dọc được đội bởi ba con ếch. Trên nghiên có khắc một bài minh với 30 cột gồm 64 chữ luận về công dụng của nghiên mực xét về mặt minh triết. Tương truyền mỗi năm có một ngày vào lúc mặt trời mọc, bóng của đỉnh tháp Bút đổ xuống sẽ chấm đúng vào nghiên mực.

Sau cửa cuốn là hai bức tường ở hai bên lối vào tượng trưng cho bảng Rồng và bảng Hổ – những sĩ tử khi đi ngang qua đây được nhắc nhở gắng công đèn sách để sớm có ngày được “bảng vàng đề tên”.
a
Đắc Nguyệt lâu và cầu Thê Húc -- Ảnh: nguồn yeudulịch.vn (20.1.2010)

Nối bờ với đảo Ngọc là cầu Thê Húc (nơi ánh sáng mặt trời đậu lại), hai bên có ba chữ “Thê Húc Kiều”. Qua cầu là tới Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) có chức năng của một cổng đền, duyên dáng nhờ được trang điểm bởi một gốc đa cổ thụ sum suê lá cành.

Đền Ngọc Sơn gồm ba nếp nhà chính liền nhau. Tại nhà Bái đường có đặt bàn thờ Văn Xương Đế Quân là vị thần của Đạo Giáo được thờ bên Trung Hoa, nếp giữa thờ Lã Động Tân (vị thần của Đạo Giáo được người đời sau tôn là Lã Tổ) và Quan Vân Trường (vị tướng giỏi thời Tam quốc được người Trung Hoa tôn là Quan Đế), nếp nhà phía Bắc thờ tướng quân Trần Quốc Tuấn có công lớn trong việc dẹp tan quân Nguyên xâm lược được tôn là Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương. Trước nhà Bái đường về phía Nam còn có đền Trấn Ba (đình chắn sóng), như muốn hàm ý nơi đây là một thành lũy đạo đức có thể ngăn chặn được những biến tướng tiêu cực của nền văn hóa đang bị phân hóa của xã hội đương thời.
a
Tháp Bút -- Ảnh: nguồn yeudulịch.vn (20.1.2010)

Xa về phía Tây Nam hồ Hoàn Kiếm là gò Rùa, trên đó vào cuối thế kỷ19 đã xây một cái tháp quen được gọi là tháp Rùa, tuy không mấy giá trị về mặt lịch sử nhưng sự hiện diện trên một thế kỷ của tháp đã trở nên thân thuộc đối với người Hà Nội và không ít người xem đó như là biểu tượng của thủ đô. Đặc biệt tại hồ Hoàn Kiếm còn có giống rùa lạ có mai rộng 1 - 2m, thi thoảng vào mùa thu khi những cây lộc vừng rắc thảm hồng trên mặt hồ, vẫn xuất hiện phơi nắng trên bãi cỏ gò Rùa – nhiều người tin rằng có mối liên hệ giữa các cụ rùa này với huyền thoại rùa thần hồ Hoàn Kiếm một nghìn năm về trước (!).

Mai Kim Thành

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét