Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
ĐỌC SÁCH 5/4 (Tại sao Mác đúng?)
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
-Dù
gì thì chủ nghĩa Mác cũng ngộ nhận nhiều điều. Nó đã đưa ra những khái
niệm để giải thích những hiện tượng như bóc lột, nhà nước, đấu tranh
giai cấp, chuyên chính...chưa đích đáng, thậm chí sai lầm. Chính sự ngộ
nhận đó đã dẫn đến cách hiểu sai lầm chết người sau này của những người
kế tục trong khi thực hiện cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, xã hội mà chủ nghĩa Mác muốn xây dựng nếu không là không
tưởng, ảo tưởng, lý tưởng thì cũng...viễn tưởng. -Có
thể nói, nếu đạo Phật muốn hướng tới Niết Bàn (xã hội tươi đẹp!) bằng
cách chủ yếu là tu luyện cá nhân thì chủ nghĩa Mác muốn hướng tới CNXH
(xã hội tươi đẹp!) bằng cách chủ yếu là cải tạo xã hội. Cả hai cách đó
tưởng dễ dàng đạt được trên lý thuyết nhưng đều không thể thực hiện được
trong thực tế, vì đều chủ quan, duy ý chí, cực đoan và trái quy luật tự
nhiên như nhau. -Nếu Phật đúng thì ngày nay đã huy hoàng Niết Bàn! Nếu Mác đúng thì ngày nay đã rực rỡ CNXH! -Muốn đánh giá đúng - sai một học thuyết, việc đầu tiên là tuyệt đối không được dùng suy diễn chủ quan.
-Từ
ngày cách mạng vô sản nổ ra và "thành công vang dội", bao nhiêu chiến
sĩ cộng sản ưu tú lâm vào cái chết oan ức, bi kịch vì bị đồng chí mình thanh trừng, mấy
ai được sống trọn vẹn một cuộc đời trong an lành, hạnh phúc?
-Hết
nạn đày đọa thanh trừng thì đến nạn thoái hóa, biến chất! Ngày nay, còn
bao nhiêu người cộng sản vẫn hoạt động quên mình vì chủ nghĩa cộng sản,
vì nhân dân phục vụ? -Ngày
xưa hình tượng người đảng viên cộng sản trong tâm khảm chúng ta đẹp bao nhiêu thì ngày nay hình
tượng đó xấu xí, tầm thường, tha hóa bấy nhiêu. Tại sao?
-Ôi, khai quốc công thần! Ôi, đấu tranh giai cấp! Ôi, chuyên chính vô sản! Ôi, "định hướng XHCN"!
-Bảo vệ chủ nghĩa Mác làm gì khi nó đã lạc hậu rồi và bộc lộ sai lầm? Chỉ riêng luận điểm đấu tranh giai cấp manh tính bạo lực và sắt máu, tiêu trừ một tầng lớp suất sinh tự nhiên của xã hội (tầng lấp tư sản) để xây dựng một xã hội phi giai cấp đầy lòng nhân ái, n ghe đã phản khoa học, phản đạo đức và trái khoáy rồi. -Im lặng trước tà ác, chính là ủng hộ cho nó. Có một câu danh ngôn của
Napoleon:“Thế giới chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của kẻ
xấu mà là vì sự im lặng của những người tốt”! -Bắt chước Putin:"Ai mãi đi theo CNCS, người đó không có trí não, ai khước từ lòng tốt của nó, người đó không có trái tim!".
--------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET) Sách là ngọn đuốc soi rọi chân lý, là chiếc khăn thấm đẫm máu, nước mắt và lòng nhân ái của loài người! ------------------------------------------------------------------
Chủ nghĩa Mác có thể rất đúng đắn về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, khi
đi vào thực tiễn thì kết quả lại là khủng bố, độc tài và giết người hàng
loạt trên quy mô chưa từng có. Chủ nghĩa Mác có thể là một tư tưởng tốt
đẹp đối với những học giả phương Tây giàu có – những người coi tự do và
dân chủ là một lẽ đương nhiên. Nhưng đối với hàng triệu người bình
thường, nó lại có nghĩa là đói nghèo, khổ sở, hành hạ, lao động cưỡng
bức, một nền kinh tế đổ vỡ và một nhà nước áp bức nặng nề. Những người
bất chấp tất cả vẫn tiếp tục ủng hộ học thuyết này là những người ngu
dốt, đáng khinh hoặc tự lừa dối mình. Chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với
thiếu tự do, nó còn đồng nghĩa với thiếu hàng hóa vật chất, bởi vì đây
chắc chắn là hậu quả của việc xóa bỏ thị trường. BIỆN GIẢI:
Rất nhiều người phương Tây ủng hộ nhiệt tình cho những tổ chức vô danh.
Những người theo đạo Thiên Chúa chẳng hạn. Không có gì lạ khi những
người tử tế giàu lòng trắc ẩn ủng hộ toàn bộ sự khai hóa văn minh ngập
chìm trong máu. Những người tự do, những người bảo thủ cùng với rất
nhiều người khác nữa cũng vậy. Những nước tư bản hiện đại là kết quả của
một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách đáng ghê
tởm – hơn cả Trung Quốc thời kỳ của Mao hay Liên Xô thời kỳ của Stalin.
Chủ nghĩa tư bản cũng được tôi luyện trong máu và nước mắt; chỉ có điều
nó đã tồn tại đủ lâu để quên đi nỗi khủng khiếp ấy, thế nhưng chủ nghĩa
Stalin và chủ nghĩa Mao lại không được như vậy. Nếu Các Mác được tha thứ
cho sự lãng quên này, một phần là do ông đã sống ở thời những chế độ đó
vẫn chưa được hình thành.
Nhiều Hồng Vệ Binh, như ở đây trong cuộc diễu hàng nhân ngày Quốc Khánh 1966, vẫn còn là trẻ con. Ảnh: GEO Epoche.Tôn
sùng cá nhân: Với một lần diễu hành bơi lội ở gần Bắc Kinh, những người
Cộng sản chào mửng người Chủ tịch Vĩ đại của họ – và đồng thời qua đó
cố nhắc đến sức lực hoạt động của con người trên 70 tuổi này. Ảnh: GEO
Epoche
Mike Davis viết trong cuốn Sự tàn sát khủng khiếp cuối thời Victoria (Late Victorian Holocausts)
về hàng chục triệu người Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc, Brazil, Triều
Tiên, Nga và rất nhiều nước khác chết do nạn đói, hạn hán và dịch bệnh
mà hoàn toàn có thể tránh được cuối thế kỷ XIX. Phần nhiều những thảm
họa này là kết quả của tín điều thị trường tự do, ví dụ như giá ngũ cốc
tăng vọt làm cho lương thực vượt ra ngoài khả năng của những người bình
thường. Nhưng tất cả những điều cổ quái đó không phải cổ xưa như dưới
thời Nữ hoàng Victoria. Trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX, số người
trên thế giới sống dưới 2 đôla một ngày đã tăng lên đến gần một trăm
triệu[1].
Ngày nay, cứ ba trẻ em ở Anh thì có một trẻ em sống dưới mức đủ ăn,
trong khi những người quản lý ngân hàng lại ngúng nguẩy khi mức thưởng
hàng năm của họ giảm xuống còn một triệu bảng.
Nói đúng ra thì chủ nghĩa tư bản cũng mang lại cho chúng ta những hàng
hóa quý giá bên cạnh những thứ ghê tởm. Không kể tầng lớp trung lưu mà
Các Mác ca ngợi hết lời, chúng ta có lẽ sẽ thiếu đi một di sản về tự do,
dân chủ, quyền công dân, chủ nghĩa nam nữ bình quyền, nền cộng hòa,
tiến bộ khoa học và nhiều thứ khác nữa, cũng như thiếu một lịch sử về
đình trệ kinh tế, bóc lột sức lao động, chủ nghĩa phát xít, chiến tranh
đế quốc và tài tử điện ảnh Mel Gibson. Nhưng cái được gọi là chế độ xã
hội chủ nghĩa cũng có những thành tựu của nó. Trung Quốc và Liên Xô đã
đưa những công dân của mình ra khỏi lạc hậu kinh tế để đến với thế giới
công nghiệp hiện đại, nhưng lại bằng cái giá khủng khiếp về con người;
và cái giá lớn như vậy một phần là do thái độ thù địch của phương Tây tư
bản chủ nghĩa. Thái độ thù địch đó cũng đã buộc Liên Xô phải chạy đua
vũ trang, làm cho nền kinh tế ốm yếu của nước này lụn bại hơn, và cuối
cùng sụp đổ.
Hitler: sản phẩm của dân chủ hay của bạo lực và những người tốt im lặng?
Lịch sử là một khoa
học về sự bất hạnh của con người. Nhận xét này rất chính xác. Cho nên,
không ai có thể phủ nhận là sự tàn bạo đối với con người trong thế kỷ 20
đã vượt xa những thế kỷ trước. Chủ nghĩa cộng sản
đã chiếm một địa vị nổi bật trong khung cảnh lịch sử đầy những thảm họa
đó. Nhưng có một điều lạ là cho đến nay những tội ác của cộng sản vẫn
chưa được lượng định một cách công bằng từ cả quan điểm lịch sử lẫn quan
điểm đạo đức. So sánh với chế độ
Đức Quốc Xã đã giết hại khoảng 25 triệu người thì các chế độ cộng sản đã
tàn ác và nguy hiểm hơn nhiều vì đã giết hai đến 100 triệu người.
Xương cốt các nạn nhân chế độ diệt chủng Pol Pot (ảnh: katrinasblogproject)
Cảnh chính quyền “Việt Nam Cộng hòa” xử bắn sinh viên Lê Văn Khuyên ngày 29/1/1965 ngay trên đường phố Sài Gòn (ảnh: Tư liệu)
chính nghĩa không thuộc về chế độ việt nam cộng hòa Nhưng trong khi đó, cùng với các nước vệ tinh của mình, Liên Xô đã cố
gắng đạt được nhà ở, nhiên liệu, giao thông và văn hóa giá rẻ, việc làm
đầy đủ và những dịch vụ xã hội ấn tượng cho một nửa dân số châu Âu, cũng
như một mức độ công bằng và đầy đủ về vật chất mà không một quốc gia
nào trong số đó trước đây có thể sánh được. Nước Đông Đức cộng sản có
thể kiêu hãnh về một trong những hệ thống chăm sóc trẻ em tốt nhất thế
giới. Liên Xô giữ một vai trò quan trọng trong việc chống lại chủ nghĩa
phát xít tàn bạo, đồng thời làm lung lay các cường quốc thực dân. Nó
cũng tăng cường sự đoàn kết giữa các công dân của mình mà các quốc gia
phương Tây dường như chỉ có thể giành được khi họ giết chóc người bản xứ
ở những mảnh đất khác. Nói đúng ra thì tất cả những cái đó không thay
thế được tự do, dân chủ và rau tươi trong cửa hàng, nhưng không thể bỏ
qua những giá trị đó. Khi mà tự do và dân chủ cuối cùng là cứu cánh cho
khối Xô viết, thì họ đã làm điều này dưới hình thức một liệu pháp sốc
kinh tế, một dạng cướp ngày được gọi một cách mĩ miều là tư nhân hóa,
khiến hàng chục triệu người thất nghiệp, nghèo đói và bất bình đẳng tăng
nhanh một cách lạ lùng, dịch vụ chăm sóc trẻ em miễn phí biến mất, phụ
nữ bị mất quyền bình đẳng, mạng lưới phúc lợi xã hội sụp đổ, những thứ
mà trước đây đã phục vụ rất tốt cho những đất nước này.
Mặc dù vậy, thành tựu của chủ nghĩa cộng sản không thể bù đắp được
những mất mát. Có thể, một hình thức nhà nước độc tài nào đó là không
thể tránh khỏi trong tình trạng tồi tệ ở Liên Xô thời kỳ đầu; nhưng điều
này không nhất thiết phải có chủ nghĩa Stalin hay bất kỳ cái gì tương
tự. Nói tóm lại, chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa Stalin là những thể nghiệm
chắp vá đau xót, khiến chính ý tưởng về chủ nghĩa xã hội trở nên xấu xa
đối với tất cả những người hưởng lợi nhất từ chủ nghĩa xã hội trên khắp
thế gian. Nhưng còn chủ nghĩa tư bản thì sao? Như tôi đã viết, tình
trạng thất nghiệp ở phương Tây đã lên tới hàng triệu và đang tăng lên
một cách nhanh chóng. Những nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã không bị nổ
tan tành chỉ nhờ chiếm đoạt hàng ngàn tỷ đôla từ những người công dân
đang gặp khốn khó của nó. Giới ngân hàng và tài chính, những người đã
đưa hệ thống tài chính thế giới đến bên bờ vực thẳm không còn nghi ngờ
gì nữa, đang xếp hàng để phẫu thuật thẩm mỹ bởi họ sợ rằng sẽ bị những
người dân đang tức giận đi tìm và đánh cho bầm dập.
Đúng là có những lúc chủ nghĩa tư bản rất hiệu quả, với cái nghĩa là nó
đã đem lại thịnh vượng cho nhiều khu vực trên thế giới. Nhưng cũng
giống như Mao và Stalin, nó làm được điều đó bằng cái giá kinh hoàng của
nhân loại. Đó không chỉ là nạn diệt chủng, đói nghèo, chủ nghĩa đế
quốc, và buôn bán nô lệ. Chế độ này cũng đã cho thấy rằng nó không có
khả năng duy trì sự thịnh vượng mà không đi cùng với sự tước đoạt thậm
tệ. Đúng là điều này có thể không ảnh hưởng nhiều về lâu dài, nhưng giờ
đây con đường tư bản chủ nghĩa đang đe dọa phá hủy toàn bộ hành tinh
này. Một học giả phương Tây xuất chúng đã mô tả sự biến đổi khí hậu như
là “sự thất bại tồi tệ nhất trong lịch sử của thị trường”[2].
Chính Các Mác cũng không bao giờ hình dung chủ nghĩa xã hội có thể hoàn
thành trong tình trạng nghèo khổ cùng cực. Một công trình như vậy đòi
hỏi sự diệu kỳ giống như phát minh ra Internet vào thời Trung cổ. Trước
Stalin, không một người theo chủ nghĩa Mác nào có thể hình dung điều này
là khả thi, kể cả Lê-nin, Trotsky và những người lãnh đạo Bôn-sê-vich
khác. Bạn không thể phân chia lại của cải có lợi cho tất cả mọi người
nếu gần như chẳng có gì đáng giá để phân chia lại cả. Bạn cũng không thể
xóa bỏ các tầng lớp xã hội trong tình trạng khan hiếm, bởi vì những mâu
thuẫn nảy sinh khi phần thặng dư vật chất quá ít ỏi không thể đáp ứng
nhu cầu của tất cả mọi người chắc chắn sẽ làm nảy sinh thêm mâu thuẫn.
Như Các Mác đã bình luận trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, kết
quả của một cuộc cách mạng trong điều kiện như thế sẽ dễ dàng lặp lại
“một công việc bẩn thỉu cũ rích”. Tất cả những gì bạn nhận được là sự
khan hiếm được xã hội hóa. Nếu bạn cần tích lũy vốn từ vạch xuất phát,
thì tuy thô bạo, nhưng cách hiệu quả nhất để làm được là thông qua động
cơ vì lợi nhuận. Sự ham muốn tư lợi sẽ có khả năng tích lũy tiền của với
một tốc độ nhanh chóng, mặc dù nó đồng thời có xu hướng tích tụ nghèo
đói.
Đồ tể Pol Pot, trùm chế độ diệt chủng Khmer Đỏ. Ảnh này chụp năm 1979 vào thời điểm y chạy về biên giới với Thái Lan (nguồn: AP)
Chế độ quái thai của chủ nghĩa cộng sản
Biệt kích Hoa Kỳ đang "khoe" thủ cấp chặt được của binh sĩ Quân Giải phóng, ảnh chụp tháng 5 năm 1968.Sự tàn độc của IS đối với các tù binh của chúng. Ảnh: AFP. Không một người theo chủ nghĩa Mác nào từng nghĩ đến khả năng hoàn
thành chủ nghĩa xã hội chỉ trong một đất nước. Phong trào phải mang tính
quốc tế hoặc không bao giờ có. Đây là một khẳng định duy vật thiết thực
chứ không hề duy tâm. Nếu một quốc gia theo chủ nghĩa xã hội không
giành được sự ủng hộ của quốc tế trong một thế giới mà sản xuất được
chuyên môn hóa và có sự phân công giữa các quốc gia khác nhau, thì nó
không thể thu hút được nguồn tài nguyên trên toàn thế giới cần thiết để
khắc phục sự khan hiếm. Lượng của cải sản xuất ra của một nước đơn lẻ là
không đủ. Khái niệm lạ lùng về chủ nghĩa xã hội ở một nước được Stalin
sáng tạo ra vào những năm 1920 gần như là sự hợp lý hóa đầy nhạo báng
trước một thực tế rằng những quốc gia khác đã không thể giúp đỡ Liên Xô.
Chính Các Mác cũng không hề biện hộ cho điều đó. Tất nhiên, những cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa phải diễn ra ở đâu đó. Nhưng chúng không thể
hoàn thành trong biên giới một quốc gia. Việc đánh giá chủ nghĩa xã hội
bằng kết quả của nó trong một quốc gia tách biệt giống như kết luận về
cả loài người từ một nghiên cứu bệnh nhân tầm thần ở Kalamazoo.
Xây dựng một nền kinh tế từ những mức rất thấp là một nhiệm vụ vô cùng
vất vả và dễ nản lòng. Con người khó có thể tự nguyện cam chịu cực khổ.
Vì vậy, nếu công trình này không được tiến hành từ từ dưới sự điều hành
dân chủ và phù hợp với giá trị xã hội chủ nghĩa, thì một nhà nước độc
tài sẽ xuất hiện cưỡng bức những công dân của mình phải làm những việc
mà họ không tự nguyện thực hiện. Sự quân sự hóa lao động ở Nga
Bôn-sê-vich chính là như vậy. Nên một cách hết sức châm biếm, kết quả sẽ
làm suy yếu kiến trúc thượng tầng chính trị của chủ nghĩa xã hội (nền
dân chủ phổ biến, chế độ tự trị thực sự) trong nỗ lực xây dựng nền móng
kinh tế của nó. Điều đó giống như được mời đến một bữa tiệc chỉ để rồi
phát hiện ra rằng bạn không chỉ phải nướng bánh và ủ bia mà còn phải đào
móng xây nhà. Bạn sẽ chẳng còn thời gian cho vui thú nữa.
Một cách lý tưởng thì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có được những người
dân có kỹ năng, được giáo dục tốt, hiểu biết về chính trị, những thể
chế dân sự phát triển; những công nghệ hiện đại; những truyền thống tự
do văn minh và sự thích nghi với nền dân chủ. Không cái nào trong số này
có thể đạt được nếu bạn thậm chí không có khả năng sửa chữa đường giao
thông của mình, hoặc bạn không có chính sách bảo hiểm để chống lại bệnh
tật hay nạn đói ngoài duy nhất một con lợn nuôi nhốt trong chuồng. Những
quốc gia có lịch sử là thuộc địa càng có khả năng bị mất những lợi ích
mà tôi vừa liệt kê, vì những đế quốc thực dân không có thực tâm muốn
truyền bá các quyền tự do cơ bản của công dân hay các thể chế dân chủ
cho những nước thuộc địa của họ.
Như Các Mác đã tuyên bố, chủ nghĩa xã hội cũng đòi hỏi giảm ngày làm
việc – một phần để cung cấp thời gian rảnh rỗi cho mọi người đáp ứng nhu
cầu cá nhân, một phần nữa để tạo ra thời gian cho vấn đề tự quản chính
trị và kinh tế. Bạn không thể làm điều này nếu người dân không có giầy
đi, và việc phân chia giầy đi cho hàng triệu công dân chắc chắn đòi hỏi
phải có một chính phủ quan liêu tập trung. Nếu quốc gia của bạn đang bị
xâm lược bởi những cường quốc tư bản thù địch, như nước Nga trong cách
mạng Bôn-sê-vích, một chính phủ chuyên quyền có vẻ là không tránh khỏi.
Nước Anh trong Thế chiến thứ hai không phải là nước chuyên chế nhưng nó
chẳng hề là một nước tự do, mà là một nước chẳng ai mong chờ.
Vì vậy, để đi lên xã hội chủ nghĩa, bạn cần tương đối khá giả, cả theo
nghĩa đen và nghĩa bóng. Không một người theo chủ nghĩa Mác nào từ Các
Mác và Ph.Ănghen đến V.I.Lê-nin và Trotsky từng mơ về một thứ nào khác.
Hoặc nếu bản thân bạn không sung túc, thì phải có một người hàng xóm
đồng cảm sẵn sàng chia sẻ nguồn tài nguyên vật chất để giúp đỡ bạn.
Trong trường hợp những người Bôn-sê-vích, điều này có nghĩa là những
người hàng xóm (cụ thể là Đức) cũng có những cuộc cách mạng riêng. Nếu
tầng lớp lao động của những nước này có thể lật đổ được những ông chủ tư
bản của họ và giành lấy những năng lực sản xuất, thì họ có thể dùng
những nguồn tài nguyên đó để cứu nhà nước công nhân đầu tiên khỏi bị
chìm nghỉm. Đây không phải là một kiến nghị bất khả thi. Châu Âu lúc đó
đang hừng hực hy vọng về một cuộc cách mạng, khi những hội đồng đại biểu
cho công nhân và quân nhân (hay còn gọi là Xô viết) bất ngờ xuất hiện ở
nhiều thành phố như Becslin, Vác-xa-va, Viên, Munich và Riga. Khi những
cuộc nổi dậy này bị đàn áp, Lê-nin và Trotsky biết rằng cuộc cách mạng
của họ đã rơi vào tình cảnh khó khăn khủng khiếp.
Không phải là việc xây dựng chủ nghĩa xã hội không thể bắt đầu trong
những điều kiện khốn khó. Đúng hơn là khi không có những nguồn tài
nguyên vật chất, nó sẽ biến thành một bức tranh biếm họa kỳ cục về chủ
nghĩa xã hội được biết đến là chủ nghĩa Stalin. Cuộc cách mạng
Bôn-sê-vích sớm nhận ra nó đã bị bao vây bởi quân đội của những đế chế
phương Tây, đồng thời bị đe dọa bởi lực lượng phản cách mạng, đói nghèo
thành thị và một cuộc nội chiến đẫm máu. Nó bị bỏ lại giữa một đại dương
mênh mông những người nông dân thù địch, những người miễn cưỡng giao
nộp số thặng dư khó khăn mới kiếm dược của mình cho những thị trấn đói
kém dưới sự đe dọa của họng súng. Với một cơ sở tư bản chủ nghĩa eo hẹp,
trình độ sản xuất vật chất thấp kém thảm hại, những dấu vết hiếm hoi
của thể chế dân sự, tầng lớp lao động bị tàn sát và kiệt quệ, nông dân
nổi dậy và bộ máy quan liêu hống hách sánh ngang với thời Nga hoàng,
cuộc cách mạng gần như gặp rắc rối lớn ngay từ thuở ban đầu. Cuối cùng
thì những người Bôn-sê-vích cũng dẫn dắt được những người dân đói khổ,
chán nản, mệt mỏi vì chiến tranh của mình đến với hiện đại trước họng
súng đe dọa. Nhiều người công nhân quốc phòng có đầu óc chính trị nhất
đã hy sinh trong cuộc nội chiến do phương Tây hậu thuẫn, để lại cho Đảng
Bôn-sê-vích một nền tảng xã hội thoái hóa. Đảng đó đã nhanh chóng chiếm
đoạt Xô-viết của công nhân, cấm đoán hệ thống luật pháp và báo chí độc
lập. Nó đàn áp những người bất đồng quan điểm chính trị và các đảng đối
lập, bầu cử bị thao túng và lao động được quân sự hóa. Chương trình
chống chủ nghĩa xã hội tàn nhẫn này đã dẫn đến nội chiến, làm lan rộng
nạn đói và ngoại xâm. Nền kinh tế của Nga bị phá sản, cơ cấu xã hội của
nước này bị tan rã. Trong sự trớ trêu đến bi thảm đánh dấu toàn bộ thế
kỷ XX, chủ nghĩa xã hội đã chứng minh khả năng thực hiện thấp nhất ở nơi
cần nó nhất.
Con tem Liên Xô năm 1963 vinh danh cố Nguyên soái Mikhail Tukhachevsky và học thuyết quân sự của ông. Ảnh: Andrei Sdobnikov.
Tukhachevsky được
giới sử gia coi là một tư lệnh và chiến lược gia quân sự lỗi lạc, người
đã đặt nền móng cho các thắng lợi vĩ đại của Hồng quân Liên Xô.
Với tài năng và đóng góp to lớn của mình, ông thăng tiến nhanh chóng trong hàng ngũ lãnh đạo quân sự của Liên Xô.
Thế nhưng sự đời
khó biết được chữ ngờ. Từ đỉnh cao vinh quang, ông bất ngờ bị cách mọi
chức vụ, bị giam dưới hầm tối với tội danh làm gián điệp và phản bội Tổ
quốc.
Cháu gái của Stalin tung ảnh gây sốc (Ảnh)
Nhà sử học Issac Deutscher đã mô tả tình hình với tài hùng biện xuất
sắc của mình. Tình hình nước Nga vào lúc đó “là nỗ lực xây dựng chủ
nghĩa xã hội duy nhất cho đến nay được thực hiện trong những điều kiện
tồi tệ nhất, không cần đến những lợi ích của sự tăng cường phân công lao
động quốc tế, không cần đến cả những truyền thống văn hóa cổ xưa và
phức tạp có tầm ảnh hưởng lớn, trong một môi trường nghèo nàn đáng kinh
ngạc về vật chất và văn hóa, nguyên thủy và tàn nhẫn đến nỗi làm hỏng cả
tinh thần đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội”[3].
Nó khiến một nhà phê bình chủ nghĩa Mác trơ trẽn nhất phải thừa nhận
rằng chẳng có cái nào trong số trên là thích đáng vì bất luận thế nào
thì chủ nghĩa Mác cũng chỉ là một tín điều độc đoán. Nếu mai này nó được
thực hiện ở nước Anh, thì chẳng mấy chốc sẽ có nhan nhản những trại lao
động ngay tại thị trấn lịch sử Dorking ở phía nam London.
Như chúng ta thấy, chính Các Mác là nhà phê bình những giáo điều cứng
nhắc, khủng bố quân sự, đàn áp chính trị và quyền lực nhà nước độc tài.
Ông cho rằng, những đại biểu chính trị cần có trách nhiệm với các cử tri
của mình. Ông cũng phê phán quan điểm chính trị nhà nước tập trung của
Đảng Dân chủ Xã hội Đức đương thời với ông. Ông yêu cầu tự do ngôn luận
và tự do dân sự, ông ghê sợ sự hình thành giai cấp vô sản thành thị theo
kiểu cưỡng bức (theo ông trường hợp này là Anh chứ không phải Nga), và
cho rằng quyền sở hữu chung ở nông thôn nên là một quá trình tự nguyện
hơn là ép buộc. Là một người nhận ra chủ nghĩa xã hội không thể phát
triển trong những điều kiện nghèo khó xơ xác, chắc là ông có thể hiểu
chính xác vì sao cách mạng Nga lại đi đến thất bại.
Trong thực tế, thật là nghịch lý khi mà chủ nghĩa Stalin lại cung cấp
bằng chứng cho tính hợp lý của chủ nghĩa Mác chứ không phải bôi nhọ tác
phẩm của Các Mác. Nếu bạn muốn có một lời giải thích thuyết phục về quá
trình chủ nghĩa Stalin xuất hiện như thế nào, bạn phải tìm hiểu chủ
nghĩa Mác. Chỉ lên án đạo đức của kẻ hung bạo là chưa đủ. Chúng ta cần
biết nó nảy sinh ở những điều kiện cụ thể nào, hoạt động ra sao và sẽ
thất bại như thế nào. Những luồng tư tưởng chính thống của chủ nghĩa Mác
sẽ cho biết những kiến thức này. Những người Mác-xít như vậy, mà nhiều
người trong số đó ủng hộ Leon Trotsky hay nhánh tự do của chủ nghĩa xã
hội, khác với những người theo chủ nghĩa tự do phương Tây ở một khía
cạnh quan trọng: sự phê phán của họ đối với cái được gọi là xã hội cộng
sản vững chắc hơn rất nhiều. Họ không tự hài lòng với những mong ước
khẩn thiết của mình về nền dân chủ hay dân quyền nhiều hơn. Thay vào đó,
họ kêu gọi đánh đổ toàn bộ chính quyền tàn bạo, đòi hỏi chính xác như
những người xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, họ đã đưa ra những đòi hỏi như
vậy gần như từ khi Stalin lên cầm quyền. Cùng lúc đó, họ cảnh báo rằng
nếu chế độ cộng sản cần phải sụp đổ thì chủ nghĩa tư bản sẽ chầu chực để
nhảy vào vồ lấy nó ngay giữa đống đổ nát đó. Leo Trotsky đã tiên đoán
chính xác kết cục của Liên Xô và điều đó được chứng minh là đúng hai
mươi năm trước.
Tưởng tượng rằng bộ máy tư bản chủ nghĩa hơi ngông cuồng tìm cách biến
những bộ lạc cận đại thành một nhóm doanh nhân không ngừng học hỏi, nắm
vững công nghệ, thành thạo về quan hệ công chúng và kinh tế thị trường
tự do, tất cả chỉ trong một thời gian ngắn. Liệu một thử nghiệm chắc
chắn không thành công đó có phải là một lời buộc tội chính đáng đối với
chủ nghĩa tư bản? Chắc chắn là không. Suy nghĩ như vậy cũng vô lý giống
như tuyên bố rằng nên giải tán phong trào nữ hướng đạo sinh vì họ không
thể giải quyết được một số vấn đề gian lận trong vật lí lượng tử. Những
người theo chủ nghĩa Mác không tin rằng truyền thống tự do hùng mạnh từ
Thomas Jefferson đến John Stuart Mill sẽ bị thủ tiêu bởi sự tồn tại
những nhà tù bí mật của CIA dùng để tra tấn những người Hồi giáo, mặc dù
những nhà tù như vậy là một phần trong những chính sách chính trị của
xã hội tự do ngày nay. Thế nhưng, những nhà phê bình chủ nghĩa Mác không
sẵn sàng thừa nhận rằng xét xử công khai và khủng bố dân thường không
phải là sự bác bỏ chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên, vẫn có lý do nữa khiến một số người nghĩa chủ nghĩa Mác
không hiệu quả. Cứ cho rằng bạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện thịnh vượng, làm sao bạn có thể điều hành một hệ thống kinh tế hiện
đại phức tạp nếu không có thị trường? Câu trả lời của rất nhiều người
Mác-xít là không cần phải lo. Thị trường theo quan điểm của họ, là một
phần không thể thiếu trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cái được gọi là
chủ nghĩa xã hội thị trường dự đoán trước được tương lai mà ở đó các
phương thức sản xuất được tập thể sở hữu, nhưng hợp tác xã tự quản sẽ
cạnh tranh với nhau trên thị trường[4].
Theo cách này, một số điểm ưu việt của thị trường sẽ được giữ lại và
những nhược điểm sẽ bị loại bỏ. Ở cấp độ từng doanh nghiệp, hợp tác sẽ
đảm bảo sự gia tăng hiệu quả, vì có bằng chứng cho thấy rằng hiệu quả
của hình thức kinh doanh này hầu như luôn bằng với kinh doanh tư bản chủ
nghĩa và thậm chí còn hơn. Còn ở cấp độ nền kinh tế nói chung, cạnh
tranh bảo đảm rằng những vấn đề thông tin, phân phối và động lực đi cùng
với mô hình kế hoạch tập trung truyền thống của chủ nghĩa Stalin sẽ
không nảy sinh.
Một số người Mác-xít khẳng định chính Các Mác là một nhà xã hội chủ
nghĩa thị trường, ít nhất với nghĩa là ông tin rằng thị trường sẽ còn
rơi rớt lại trong thời kỳ quá độ sau cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ông
cũng cho rằng thị trường vừa có tính giải phóng cũng vừa có tính bóc
lột, giúp con người thoát khỏi sự phụ thuộc vào vua chúa và chủ đất. Thị
trường làm sáng tỏ những bí ẩn của các quan hệ xã hội, bóc trần thực tế
ảm đạm của những mối quan hệ đó. Các Mác đã thích thú quan điểm này
nhiều đến nỗi mà triết gia Hannah Arendt từng mô tả chương mở đầu của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là “sự tán dương hay nhất từng thấy về chủ nghĩa tư bản”[5].
Những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội thị trường cũng chỉ ra rằng, thị
trường không hề là của riêng chủ nghĩa tư bản. Trotsky cũng ủng hộ thị
trường (một vài môn đệ của ông có thể bất ngờ khi nghe nói vậy), dù chỉ
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong sự kết hợp với kế
hoạch hóa kinh tế. Ông cho rằng, thị trường là cần thiết để kiểm tra
tính thỏa đáng và tính thích hợp của kế hoạch hóa, bởi “hạch toán kinh
tế là không thể thực hiện nếu thiếu quan hệ thị trường”[6]. Cùng với nhóm đối lập cánh tả Xô-viết, ông là một nhà phê bình mạnh mẽ cái được gọi là nền kinh tế chỉ huy.
Chủ nghĩa xã hội thị trường thủ tiêu sở hữu cá nhân, giai cấp xã hội và
sự bóc lột. Nó cũng đặt quyền lực kinh tế vào tay những người sản xuất
thực sự. Như vậy chủ nghĩa xã hội thị trường là sự tiến bộ đáng mừng so
với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, đối với một số người theo
chủ nghĩa Mác, nó vẫn còn tồn tại quá nhiều đặc điểm không thể chấp nhận
được của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Dưới chế độ chủ nghĩa xã hội thị
trường sẽ vẫn có sản xuất hàng hóa, bất bình đẳng, thất nghiệp và sự
chao đảo của thị trường vượt quá tầm kiểm soát của con người. Làm thế
nào để công nhân không bị dễ dàng biến thành nhà tư bản tập thể, luôn
tối đa hóa lợi nhuận của họ, giảm bớt chất lượng, phớt lờ nhu cầu xã hội
và cố gắng bảo vệ chủ nghĩa tiêu dùng để không ngừng tích lũy làm giàu?
Làm sao người ta có thể tránh được chủ nghĩa ngắn hạn đã ăn sâu bén rễ
của thị trường, luôn có thói quen phớt lờ tòan cảnh bức tranh xã hội và
những tác động phản xã hội dài hạn bởi những quyết định manh mún của
chính thị trường? Giáo dục và sự kiểm soát của nhà nước sẽ giảm bớt
những mối nguy này, nhưng thay vào đó, một số người theo Chủ nghĩa Mác
lại trông chờ vào một nền kinh tế không theo kế hoạch tập trung mà cũng
không bị thị trường chi phối[7].
Theo mô hình này, tài nguyên sẽ được phân chia theo sự dàn xếp giữa nhà
sản xuất, người tiêu dùng, các nhà môi trường học và các bên liên quan
khác, trong mạng lưới quan hệ gồm các cơ quan làm việc, khu dân cư sinh
sống và hội đồng người tiêu dùng. Những vấn đề rộng lớn của nền kinh tế
bao gồm những quyết định về phân phối tài nguyên nói chung, tỷ lệ đầu tư
và phát triển, năng lượng, vận tải và những chính sách sinh thái học sẽ
được giải quyết bởi những hội đồng đại biểu ở cấp địa phương, khu vực
hay quốc gia. Những quyết định chung này, chẳng hạn như phân bổ nguồn
lực, khi đó sẽ được chuyển giao xuống cấp vùng và địa phương, là nơi mà
những kế hoạch chi tiết hơn sẽ tiếp tục được thực hiện. Ở mỗi giai đoạn,
tranh cãi công khai về những kế hoạch kinh tế và chính sách thay thế là
rất quan trọng. Theo cách này, chúng ta sản xuất cái gì và như thế nào
cần được xác định rõ bởi nhu cầu xã hội hơn là lợi nhuận cá nhân. Dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta bị tước quyền quyết định xem có nên
xây thêm bệnh viện hay sản xuất thêm ngũ cốc cho bữa sáng. Còn dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa, quyền tự do này thường xuyên được sử dụng.
Một danh sách từ cuộc đại thanh trừng được ký bởi Molotov, Stalin, Voroshilov, Kaganovich, và Zhdanov
Quyền hành của những hội đồng này có thể được thông qua bởi bầu cử dân
chủ từ dưới lên hơn là từ trên xuống. Những cơ quan được bầu cử một cách
dân chủ này đại diện cho mỗi nhánh của thương mại hoặc sản xuất sẽ đàm
phán với một hội đồng kinh tế quốc gia để đạt được thỏa thuận về những
quyết định đầu tư. Giá cả không phải được được quyết định từ cấp trung
ương mà bằng những đơn vị sản xuất dựa trên cơ sở của nguồn đầu vào từ
người tiêu dùng, người sử dụng, nhóm lợi ích... Một số người ủng hộ cái
được gọi là nền kinh tế đồng tham gia này chấp nhận một hình thức kinh
tế xã hội chủ nghĩa kết hợp: những hàng hóa thiết yếu đối với cộng đồng
(như lương thực, y tế, thuốc men, giáo dục, vận tải, nằng lượng, nhu yếu
phẩm, thể chế tài chính, truyền thông và những thứ tương tự...) cần nằm
trong sự kiểm soát dân chủ công khai, vì những người vận hành những
hàng hóa này thường có hành vi phản xã hội nếu họ đánh hơi thấy cơ hội
kiếm lợi từ việc này. Tuy nhiên, những mặt hàng ít thiết yếu hơn về mặt
xã hội (những mặt hàng tiêu dùng, những sản phẩm xa xỉ) có thể để lại
cho sự vận động của thị trường. Một số người theo chủ nghĩa xã hội thị
trường cho rằng toàn bộ hệ thống này quá phức tạp khó có thể thực hiện
được. Như Oscar Wilde đã từng đề cập, chủ nghĩa xã hội rắc rối ở chỗ nó
chiếm mất quá nhiều buổi tối. Tuy nhiên, người ta ít ra cũng cần kể đến
vai trò của công nghệ thông tin hiện đại trong việc tra dầu bánh xe cho
một hệ thống như thế. Ngay cả cựu Phó chủ tịch Procter & Gamble cũng
thừa nhận rằng nó khiến sự tự quản trong lao động trở thành khả thi[8]. Bên cạnh đó, Pat Devine nhắc chúng ta nhớ lại đã phải mất bao lâu để có được tổ chức và quản lý tư bản chủ nghĩa[9]. Không một lý do rõ ràng nào để nói xã hội chủ nghĩa sẽ mất nhiều thời gian hơn.
Một vài người ủng hộ mô hình đồng tham gia cho rằng mọi người cần được
trả công như nhau với cùng một lượng công việc, bất kể sự khác biệt về
tài năng, đào tạo và nghề nghiệp. Như Michael Albert nói: “Người bác sĩ
làm việc trong một môi trường thuận lợi với những điều kiện thoải mái
thì kiếm được nhiều hơn người công nhân làm việc trong môi trường ồn ào,
thiếu an toàn, nhàm chán và vất vả, bất chấp mỗi người đã làm việc vất
vả như thế nào trong bao lâu”[10].
Trong thực tế, có nhiều người ủng hộ việc trả lương những người làm
công việc nhàm chán, nặng nhọc, dơ bẩn và nguy hiểm nhiều hơn những bác
sĩ hoặc học giả... Rất nhiều công việc bẩn thỉu và nguy hiểm này có lẽ
được thực hiện bởi những cựu thành viên của gia đình hoàng tộc. Chúng ta
cần thay đổi lại các ưu tiên của chúng ta.
Vì tôi vừa mới đề cập đến truyền thông như một sự chín muồi đối với
quyền sở hữu công, chúng ta nên xem đây là trường hợp điển hình. Hơn nửa
thế kỷ trước, trong một cuốn sách xuất sắc có nhan đề là Truyền thông[11],
Raymond Williams đã vạch ra một kế hoạch xã hội chủ nghĩa cho giới nghệ
thuật và truyền thông, một mặt phản đối sự kiểm soát về nội dung của
chính phủ, mặt khác bác bỏ động cơ giành lợi nhuận độc quyền. Thay vào
đó, những người cộng tác tích cực trong lĩnh vực này tự kiểm soát được
cách thức biểu cảm và giao tiếp của mình. “Những nhà máy” thực sự của
nghệ thuật và truyền thông – đài phát sóng, phòng hòa nhạc, mạng lưới
thư viện, rạp hát, tòa soạn báo... sẽ thành sở hữu chung (dưới nhiều
dạng thức), và ban quản lý sẽ trao lại quyền cho những đại biểu dân chủ.
Họ bao gồm tất cả mọi người và những đại diện của giới truyền thông
hoặc các nghệ sĩ.
Do vậy, những ủy ban hoàn toàn độc lập với chính phủ này sẽ có trách
nhiệm trao nguồn tài nguyên công cộng và “cho thuê” những cơ sở vật chất
thuộc quyền sở hữu của xã hội cho cá nhân các nhà hoạt động hay cho
những công ty tự quản độc lập và dân chủ của diễn viên, nhà báo, nhạc
sĩ... Những người này có thể tự do làm việc mà không phải chịu sự kiểm
soát của nhà nước hay sức ép méo mó của thị trường. Chúng ta có thể
không còn phải chứng kiến cảnh hàng đống kẻ hám danh hám lợi, thông qua
những kênh thông tin riêng của họ, ra lệnh cho công chúng phải tin tưởng
vào những ý kiến vụ lợi của bản thân họ và chính phủ mà họ ủng hộ, và
còn nhiều thứ khác nữa. Chúng ta biết rõ rằng, chủ nghĩa xã hội đã thiết
lập lại chính mình khi chúng ta có khả năng nhìn lại vào sự hoài nghi
tuyệt đối vào ý kiến cho rằng một nhóm tên côn đồ thương mại được quyền
tự do thay đổi sai lạc tư tưởng của dân chúng bằng những quan điểm chính
trị của người Nêanđéctan (Neanderthal) chỉ phục vụ không phải cái gì
khác ngoài số tiền trong ngân hàng của họ.
Rất nhiều phương tiện truyền thông dưới chế độ tư bản chủ nghĩa lảng
tránh những tác phẩm có tính đổi mới nhiều khó khăn hoặc gây tranh cãi
bởi vì chúng không mang lại lợi nhuận. Thay vào đó, họ chuyên về những
chủ đề nhạt nhẽo, giật gân và định kiến mạnh mẽ. Ngược lại, truyền thông
xã hội chủ nghĩa sẽ không cấm điều gì ngoại trừ Schoenberg, Racine và
vô số kịch bản tác phẩm Tư bản của Các Mác. Sẽ có rất nhiều
những rạp hát, đài truyền hình, tờ báo phổ thông. “Phổ thông” ở đây hoàn
toàn không có nghĩa là “tầm thường”. Ai cũng biết Nelson Mandela nhưng
ông đâu có tầm thường. Rất nhiều người bình thường đọc những tập san
chuyên môn đầy rẫy những biệt ngữ không thể hiểu nổi đối với người bên
ngoài ngành. Chỉ vì những tập san này thường nói về việc câu ca, nông cụ
hay sự sinh sản của chó hơn là về thẩm mỹ học hoặc khoa nội tiết. Sự
phổ thông sẽ trở thành hào nhoáng tầm thường khi giới truyền thông cảm
thấy cần phải nhanh chóng chiếm lấy thị trường. Nhu cầu này chủ yếu là
do động cơ thương mại thúc đẩy.
Không còn nghi ngờ gì nữa, những người ủng hộ xã hội chủ nghĩa sẽ tiếp
tục tranh cãi về chi tiết của một nền kinh tế hậu tư bản chủ nghĩa. Hiện
tại chưa ai đưa ra được một mô hình hoàn hảo. Người ta có thể đối chiếu
sự thiếu hoàn chỉnh này với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, là cái đang
hoạt động với một trật tự không chê vào đâu được và chưa bao giờ phải
chịu trách nhiệm về đói kém, lãng phí hay đình trệ dù là ở mức độ nhẹ
nhất. Nền kinh tế này thừa nhận trách nhiệm với một số mức độ thất
nghiệp quá cao, nhưng những quốc gia tư bản chủ nghĩa hàng đầu thế giới
đã tìm ra được một giải pháp tài tình cho khiếm khuyết này. Ở nước Mỹ
ngày nay, hơn một triệu người chắc đang đi tìm việc làm nếu họ không
phải ngồi tù.
[4] Chẳng hạn xem, Alec Nove: The Economics of Feasible Socialism, London, 1983, David Schweickart, Against Capitalism, Cambridge, 1993, và Bertell Ollman (ed.), Market Socialism: The Debate Among Socialists
(New York and London, 1998). Để thấy sự bảo vệ mang tính triết học hơn
về chủ nghĩa xã hội thị trường, tham khảo thêm David Miller: Market, State and Community: The Theoretical Foundations of Market Socialism, Oxford, 1989.
[5] Melvin Hill (Chủ biên): Hannah Arendt: The Recovery of the Public World, New York, 1979, pp.334-335.
[6] Được Robin Blackburn trích dẫn trong Fin de Sìele: Socialism after the Crash, New Left Review, no.85 (January/February 1991), p.29.
[7] Xem Pat Devin: Democracy and Economic Planning, Cambridge, 1988; David Mc Nally: Against the Market, London, 1993, và Michael Albert: Parecon: Life After Capitalism, London, 2003. Tham khảo thêm tổng kết về vấn đề này trong Alex Callinicos: An Anti-Capitalist Manifesto, Cambridge, 2003, Ch.3.
[8] Tham khảo thêm Ernest Mandel: The Myth of Market Socialism, New Left Review, no.169 (May/June 1988), p.109.
[9] Devine: Democracy and Economic Planning, pp.253, 265-266.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét