Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
KÝ ỨC CHÓI LỌI 78
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Những chiến thuật kinh điển của quân đội Việt Nam- Du kích
Những chiến thuật kinh điển của QĐND Việt Nam (P1)
Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phát triển và hoàn thiện chiến thuật phục
kích đến tầm mức nghệ thuật khiến đối phương luôn bị ám ảnh.
Những chiến thuật kinh điển của QĐND Việt Nam (P1)
Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phát
triển và hoàn thiện chiến thuật phục kích đến tầm mức nghệ thuật khiến
đối phương luôn bị ám ảnh.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp
và Mỹ, Quân đội Nhân dân Việt Nam luôn ở thế yếu hơn về lực lượng, lạc
hậu thô sơ hơn về phương tiện nhưng đội quân này lại rất giỏi sáng tạo
ra các chiến thuật khiến địch thủ không biết đâu mà lường.
Kỳ 1: Trận đánh phục kích xuất sắc La Ngà
Phục kích là một chiến thuật rất
phổ biến trong chiến tranh. Tuy nhiên khi được Quân đội Nhân dân Việt
Nam áp dụng, chiến thuật này đã được phát triển, hoàn thiện đến tầm mức
nghệ thuật khiến đối phương luôn luôn bị ám ảnh.
Ta muốn đánh, địch không thể thoát
Tháng 2/1948, qua tin tình báo, ta
nắm được vào đầu tháng 3 nhiều sĩ quan Pháp sẽ lên Đà Lạt để họp bàn kế
hoạch tổ chức càn quét ở Nam Bộ. Bộ tư lệnh Nam Bộ quyết định sẽ chặn
đánh đoàn xe chở sĩ quan địch từ Sài Gòn lên Đà Lạt họp. Nhiệm vụ được
giao cho chi đội 10 (đơn vị chi đội trong kháng chiến chống Pháp tương
đương cấp trung đoàn) của ông Huỳnh Văn Nghệ.
Nắm chắc được lộ trình của đoàn xe
địch sẽ chạy từ Sài Gòn lên Đà Lạt theo đường 20, phía ta đã chọn vị trí
phục kích là đoạn từ cầu La Ngà đến Định Quán với chiều dài 7km. Trong
khu vực này, đường chạy quanh co men theo các cánh rừng, địa hình xung
quanh trung bình cao hơn mặt đường từ 1-2m, có chỗ cao hơn tới 6m. Đây
là một địa hình rất thuận lợi để dùng chiến thuật ém quân phục kích.
Chỉ huy Chi đội 10 Vệ Quốc Đoàn Nam Bộ Huỳnh Văn Nghệ.
Muốn trận đánh thắng lợi, ta cần
phải hạn chế được hoạt động của máy bay địch. Trong điều kiện chưa được
trang bị súng phòng không, chi đội 10 đã khéo lợi dụng yếu tố thời tiết.
Ở vùng này, về chiều thường hay có sương mù nếu trận đánh diễn ra từ
15h trở đi thì màn sương mù sẽ là tấm giáp che chở cho quân ta trước các
đợt ném bom của máy bay địch.
Bên cạnh đó, khi quân ta nổ súng ở
phía Tây đường 20 thì ở phía Đông, một số chiến sĩ sẽ đốt nhiều đám lửa
dưới tán cây rừng để máy bay địch tưởng đó là nơi đang giao tranh sẽ ném
bom vào đó.
Đoạn đường từ Sài Gòn lên đến trận
địa phục kích trên dưới 100km. Phải tìm cách kéo dài thời gian đi đường
của địch để khi chúng lọt vào trận địa thì trời đã có sương mù. Một đại
đội được giao nhiệm vụ cùng với du kích địa phương quấy rối làm chậm
bước tiến của đoàn xe. Tuy nhiên không được đánh mạnh quá khiến địch lo
ngại mà dừng cuộc hành quân đã định sẵn.
Một vấn đề quan trọng nữa là làm
thế nào chôn được địa lôi (mìn) một cách bí mật. Vì trận địa nằm giữa
hai đồn La Ngà và Định Quán của địch, đoạn đường này quân địch thường
xuyên tuần tiễu. Nếu làm không khéo, địch phát hiện ra sẽ tăng cường đề
phòng hoặc thay đổi kế hoạch hành quân thì mọi sự chuẩn bị của quân ta
sẽ thành công cốc.
Tính toán nhiều lần, cuối cùng các
chiến sĩ chi đội 10 cũng tìm ra một phương án. Lợi dụng đặc điểm của
đoạn đường này hay có những đàn voi rừng đi qua, quân ta đặt địa lôi
trên đường rồi ngụy trang bằng những bãi phân voi.
Các vấn đề vướng mắc đã được giải
quyết xong, kế hoạch đánh phục kích đoàn xe chở sĩ quan Pháp từ Sài Gòn
lên Đà Lạt họp được thông qua. Trận địa phục kích kéo dài 7km từ cầu La
Ngà đến Định Quán được chia làm 3 khu vực A, B, C.
Tiểu đoàn Xuân Lộc bố trí ở khu vực
A (từ km111 đến km113) chặn đầu diệt xe thiết giáp và lực lượng hộ
tống. Liên quân 17 (gồm các đơn vị đang huấn luyện ở chi đội 10) bố trí ở
khu vực B (từ km108 đến km111) diệt đoàn xe vận tải. Tiểu đoàn Tân Uyên
ở khu vực C (từ km105 đến km108) có nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng đi
phía sau đồng thời sẵn sàng chặn đánh địch từ phía sau lên ứng cứu. Ngày
1/3, mọi việc chuẩn bị trên thực địa đã sẵn sàng chờ giặc.
Tướng địch phải thán phục
Ngày 1/3, hàng chục chiếc xe chở
đoàn sĩ quan Pháp nối nhau tiến lên Đà Lạt. Đoạn đường từ Sài Gòn ra
Biên Hòa êm ả đã ru ngủ các sĩ quan Pháp. Nhưng đoàn xe vừa đi đến Hố
Nai thì bắt đầu gặp sự cố, chiếc xe thiết giáp đi đầu phát hiện một cây
to bị đổ chắn ngang đường. Viên sĩ quan Pháp cùng với một số lính xuống
dọn cây ra để đi thì bất ngờ một quả mìn đã cài sẵn trong đó phát nổ gây
thương vong cho một số lính Pháp.
Từ Hố Nai lên đến ngã ba Dầu Giây,
đoàn xe liên tiếp phải dừng lại khi thì vướng cành cây chắn đường, khi
thì trên mặt đường phát hiện có một hố mới đào. Mỗi khi như thế, cả đoàn
xe phải dừng lại, đám lính hộ tống phải mang máy móc đến dò xem có mìn
không, khi không thấy gì khả nghi mới lại đi tiếp.
Không chỉ có vậy, mỗi khi dừng lại
quân Pháp lại nghe tiếng súng bắn tỉa của du kích khiến chúng rất căng
thẳng thần kinh nên lại càng thận trọng hơn. Với những phương án quấy
rối như vậy ta đã làm chậm bước tiến của quân địch. Khi đến cầu La Ngà
thì sương mù đã bắt đầu xuất hiện. Lúc này, bộ đội ta mới bắt đầu “cất
lưới” bắt quân thù.
Lúc 15h, chiếc xe đầu tiên trong
đoàn xe địch bắt đầu tiến vào trận địa C. Vừa đi chúng vừa bắn vu vơ
sang bên đường để tự trấn an. Các chiến sĩ ta vẫn nằm im trên trận địa
phục kích, kiên nhẫn chờ đợi. Theo kế hoạch, bộ đội ta phải đợi cho địa
lôi ở trận địa A nổ thì trận địa C mới nổ súng khóa đuôi và trận địa B
mới xung phong đánh địch.
Xác xe quân Pháp bị phá hỏng trong trận La Ngà.
Đến 15h10, địa lôi ở trận địa A nổ
diệt chiếc xe thiết giáp đi đầu làm đội hình đoàn xe bị ùn lại. Địch
hoảng loạn nhảy ra khỏi xe lập tức bị chiến sĩ ở trận địa A xung phong
tấn công mãnh liệt. Nghe thấy tiếng nổ ở trận địa A, trận địa B lập tức
xung phong và trận địa C cũng nổ mìn diệt các xe chở quân hộ tống đi sau
để khóa đuôi.
Ở trận địa C, một số xe của địch ở
phía sau thấy xe đi trước bị đánh liền dừng lại tổ chức đội hình lên ứng
cứu. Một mặt, tiểu đoàn Tân Uyên dùng hỏa lực ngăn chặn, mặt khác tổ
chức nhiều mũi tấn công vào bên sườn toán quân này, bẻ gãy những đợt tấn
công của chúng để đảm bảo cho các đơn vị đang tiêu diệt đoàn xe ở phía
trong.
Sau gần 1 giờ đồng hồ, trận đánh
kết thúc, quân ta đã phá hủy 59 xe quân sự của địch, diệt 150 binh lính
hộ tống, bắt 270 tù binh. Trong số 150 tên bị chết có nhiều sĩ quan chỉ
huy như Đại tá De sérigné – Tư lệnh bán Lữ đoàn Lê Dương 13, Đại tá
Paruit - Phó tham mưu trưởng thứ nhất Quân đội Pháp ở Nam Đông Dương;
thiếu tá chỉ huy phân khu quân sự Hóc Môn; Đại úy Jean Couvreur - trưởng
phòng xe máy…
Trong số 270 tù hàng binh và hành
khách đi cùng đoàn xe, có nhiều người và binh lính bị thương và người
già, sức yếu, trẻ em sau khi được săn sóc, giải thích rõ chủ trương
chính sách của Mặt trận Việt Minh ta phóng thích tại chỗ. Số còn lại
được đưa về căn cứ tập kết ở Suối Cát, gồm nhiều thành phần: trí thức,
nữ tu, người buôn bán, hầu hết đều ở Sài Gòn. Tất cả được chia xẻ khẩu
phần ăn đạm bạc của bộ đội. Trời mờ sáng, tất cả hành khách được hướng
dẫn ra quốc lộ 20 để về Sài Gòn.
Trận phục kích La Ngà làm cả nước
Pháp bàng hoàng, giới quân sự Pháp bị một cái tát vỗ mặt vì trước đó
huênh hoang tuyên bố đã cơ bản tiêu diệt Việt Minh. Đối với quần chúng,
nhiều người trực tiếp chứng kiến bộ đội Việt Minh chiến đấu và cách đối
xử khoan hồng nhân đạo với tù hàng binh, khi trở về đã thay đổi cách
nhìn nhận về Việt Minh và cuộc kháng chiến nói chung.
Về mặt quân sự, năm 1971, tướng Xa
Lăng xuất bản cuốn hồi ký của mình, khi nhắc tới trận La Ngà đã phải cất
lời khen: “Đây là một trận đánh tuyệt diệu cả về tổ chức, chỉ huy và
nắm thời cơ nổ súng, là trận đánh bất hạnh đối với quân viễn chinh
Pháp”.
Theo Vũ Đức Kiến Thức
Khâm phục nghệ thuật nghi binh tài tình chỉ có ở Việt Nam
Những chiến thuật kinh điển của QĐND Việt Nam (P2)
Đánh điểm diệt viện là một chiến thuật truyền thống của quân đội ta bắt
nguồn từ trận đánh Đông Khê trong chiến dịch Biên giới 1950.
Những chiến thuật kinh điển của QĐND Việt Nam (P2)
Đánh điểm diệt viện là một chiến
thuật truyền thống của quân đội ta bắt nguồn từ trận đánh Đông Khê trong
chiến dịch Biên giới 1950.
Đòn điểm huyệt
Năm 1950, cuộc kháng chiến chống
Pháp đã bước sang năm thứ 5, trên chiến trường quân Pháp vẫn ở thế bị
động. Và để lấy lại thế chủ động, Pháp thực hiện tăng cường hệ thống
phòng ngự đường số 4, khoá biên giới Việt-Trung.
Những âm mưu này là nhằm: cô lập
căn cứ địa Việt Minh với bên ngoài, thiết lập hành lang Đông-Tây, cô lập
Việt Bắc với đồng bằng Bắc bộ, chuẩn bị lực lượng để tấn công Việt Bắc
lần 2 để tiêu diệt đầu não Việt Minh.
Để phá thế bị bao vây cô lập, quân
đội ta quyết tâm phá tan hệ thống phòng thủ trên đường số 4 từ Lạng Sơn
đến Cao Bằng của giặc Pháp. Theo hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
ban đầu cơ quan tham mưu của ta dự định mục tiêu tấn công là thị xã Cao
Bằng.
Di tích lịch sử Đông Khê ngày nay.
Nhưng khi đi trinh sát thực địa, bộ
đội ta thấy rằng lực lượng địch đóng ở Cao Bằng có tới 2 tiểu đoàn với
hỏa lực rất mạnh cộng với địa hình hiểm trở thuận lợi cho phía phòng
thủ, bất lợi cho người tấn công. Bộ đội ta cho đến lúc đó vẫn chưa đánh
công kiên vào một mục tiêu nào lớn như thế.
Tuy nhiên, cách Cao Bằng về phía
đông nam 30 km, cụm cứ điểm Đông Khê chỉ có 2 đại đội trấn giữ. Cũng
phải nói thêm, quân Pháp phòng thủ dọc đường số 4 với lực lượng binh lực
và hỏa lực rất mạnh nhưng có nhược điểm là các cứ điểm phòng thủ cách
nhau xa hàng chục km. Cứ điểm ăn sâu nhất vào hậu phương của ta chính là
căn cứ ở thị xã Cao Bằng.
Bên dưới Cao Bằng, dọc theo đường
số 4 là cứ điểm Đông Khê. Cách Đông Khê 20 km là cứ điểm Thất Khê do 1
đại đội chốt giữ. Với địa thế và cách bố trí như thế, nếu mất Đông Khê,
quân Pháp phải lập tức rút khỏi Cao Bằng để tránh bị bao vây tiêu diệt
hoặc tăng cường quân viện đến chiếm lại Đông Khê. Trong cả hai trường
hợp, ta đều có điều kiện đánh vận động chiến tiêu diệt quân địch đã ra
khỏi công sự.
Sau khi phân tích kỹ tình hình, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp quyết định thay đổi mục tiêu từ Cao Bằng sang Đông
Khê. Lực lượng chính tham chiến của ta gồm 5 trung đoàn với 3 trung
đoàn của Đại đoàn 308 và 2 trung đoàn độc lập 174 và 209.
Sáng 16/9, hai trung đoàn 174 và
209 nhận lệnh nổ súng tiến công cứ điểm Đông Khê. Trung đoàn 174 là đơn
vị chủ công đánh hướng Bắc và Đông Bắc. Trung đoàn 209 giáp công từ
hướng Đông Nam. Đến 9h, trung đoàn 174 chiếm được một số vị trí tiền
tiêu nhưng ở phía Đông – Nam, trung đoàn 209 hành quân lạc đường nên
không kịp bố trí trận địa tiến công. Quân Pháp dựa vào công sự vững chắc
phòng thủ và cho máy bay ném bom vào đội hình tiến công của quân ta.
Suốt đêm 16, hai trung đoàn quân ta
mở nhiều đợt tấn công nhưng chỉ chiếm được thêm một vài vị trí. Sang
ngày 17, trung đoàn 174 đề nghị cho đổi hướng tiến công sang hướng đông
vì hướng Bắc địch đang tập trung hỏa lực đối phó.
Sau khi pháo binh chế áp các mục
tiêu một mũi tiến công của 174 chiếm đầu cầu phía đông pháo đài, mũi
ở phía bắc chiếm nhà thương, thọc sâu đến lô cốt số 7 thì bắt liên
lạc được với 1 tiểu đoàn của 209 cùng phối hợp đánh vào sau lưng pháo
đài. Bộ binh các hướng phối hợp nhịp nhàng cùng tiến công vào đồn
lớn.
Đến 4h30 ngày 18/9/1950, bộ đội ta
đánh vào sở chỉ huy Đông Khê bắt sống viên đại úy đồn trưởng và các sĩ
quan tham mưu. 10h, trận đánh kết thúc thắng lợi, địch chết và bị bắt
300 tên, một số tên chạy thoát về Thất Khê.
“Thảm họa Cao Bằng”
Quả đúng như dự liệu của quân ta,
sau khi mất Đông Khê, địch ở Cao Bằng chơ vơ. Tướng Carpentier – Tổng
chỉ huy quân viễn chinh Pháp ra lệnh rút hết quân khỏi Cao Bằng. Trên
mặt trận Biên giới, quân Pháp điều 1 binh đoàn gồm 3 tiểu đoàn do trung
tá Le Page chỉ huy được không vận từ Lạng Sơn đến Thất Khê rồi hành quân
lên tái chiếm Đông Khê để mở lại đường số 4 đồng thời thu hút quân ta.
Mặt khác, toàn bộ quân đồn trú ở
Cao Bằng dưới sự chỉ huy của Trung tá Charton từ Cao Bằng tiến về Đông
Khê để gặp binh đoàn của Le Page, sau đó hai lực lượng này sẽ bảo vệ cho
nhau để rút về Lạng Sơn.
Trung tá Charton cùng ban chỉ huy binh đoàn bị bắt sống tại Cốc Xá.
Cẩn thận hơn, Carpentier cho mở một
cuộc hành quân đánh lên Thái Nguyên hòng thu hút lực lượng chủ lực ta
để quân ở Cao Bằng rút an toàn. Nhưng tất cả đã quá muộn, cuộc hành binh
đánh lên Thái Nguyên từ sớm đã được quân ta dự liệu nên đã bố trí sẵn
lực lượng chặn đánh. Trên đường số 4, hai binh đoàn của Charton và Le
Page không bao giờ có thể gặp được nhau vì đại đoàn 308 của ta đã lập
các trận địa phục kích chờ đợi từ đầu chiến dịch.
Ngày 1/10, binh đoàn của Le Page
tiến gần Đông Khê thì lập tức bị các đơn vị của 308 và trung đoàn 209
chặn đánh quyết liệt. Liên tiếp đến ngày 4/10, binh đoàn này đã bị thiệt
hại nghiêm trọng và bị dồn vào thung lũng Cốc Xá cách Đông Khê 6km về
phía tây nam.
Ngày 2/10, binh đoàn Charton cũng
bắt đầu rút về Đông Khê để hội quân với Le Page. Tuy nhiên, nó đã bị
trung đoàn 209 chặn đánh liên tục. Đến ngày 6/10, binh đoàn Charton và
Le Page gặp nhau ở Cốc Xá. Lập tức, đại đoàn 308 vây chặt thung lũng này
và bắt đầu mở cuộc tấn công vào. Quân Pháp nằm chịu trận dưới sức mạnh
của hỏa lực từ các điểm cao của quân ta từ xung quanh bắn vào.
Đến ngày 8/10, quân ta đã loại khỏi
vòng chiến đấu 8 tiểu đoàn quân Pháp, trong đó có gần 6.000 quân của cả
2 binh đoàn, chỉ có 1.388 người chạy thoát được về Thất Khê và Lạng
Sơn. Hai trung tá chỉ huy đều bị bắt làm tù binh. Kế hoạch rút lui của
Pháp thất bại hoàn toàn. 1 tuần sau đó là thời gian quân Pháp rút quân
khỏi toàn bộ hệ thống phòng thủ trên đường số 4 trong tình cảnh bị quân
ta truy kích sát nút. Sau chiến tranh, các tướng lĩnh Pháp nói về sự
kiện này đều dùng cụm từ “thảm họa Cao Bằng”.
Biết cũng khó tránh
Chiến dịch Biên giới với "chìa
khóa" - trận đánh Đông Khê là minh họa tiêu biểu cho chiến thuật đánh
điểm diệt viện. Chiến thuật này còn được quân ta sử dụng lại nhiều lần
nữa, mỗi lần lại có nét sáng tạo riêng mặc dù vẫn dựa trên tư tưởng chủ
đạo là đánh điểm diệt viện. Một loạt các chiến dịch trong kháng chiến
chống Mỹ như chiến dịch Ba Gia, chiến dịch Plei – me, chiến dịch Sa
Thày… đều áp dụng thành công chiến thuật này và giành thắng lợi.
Chiến thuật này được quân đội ta áp
dụng nhuần nhuyễn đến mức thành sở trường, nghệ thuật. Chính tướng
Westmoreland – Tư lệnh quân Mỹ tại Nam Việt Nam cũng phải thừa nhận điều
này trong “Tường trình của một quân nhân”.
“Phục kích là chỗ mạnh của Việt
cộng và là chỗ yếu của quân đội Nam Việt Nam. Bằng phục kích, trong
nhiều dịp Việt cộng đã tiêu diệt nhiều đại đội của quân đội Nam Việt
Nam… Một chiến thuật thông thường của Việt cộng là đánh vào một tiền đồn
của quân đội Nam Việt Nam rồi nằm chờ lực lượng dự bị của quân Nam Việt
Nam hành quân đường bộ đến cứu tiền đồn đó”, Westmoreland viết.
Bác Hồ trên đài quan sát trận đánh đồn Đông Khê 16/9/1950.
Nghệ thuật đánh giặc chỉ có ở Việt Nam: Bám thắt lừng địch mà đánh
Những chiến thuật kinh điển của QĐND Việt Nam (kỳ 3)
(Kiến Thức) - Chiến thuật nắm thắt lưng địch mà đánh của quân đội ta đã làm quân Mỹ "khiếp sợ" trong trận Ia-Drăng.
Kỳ 3: Quân Mỹ “nếm mùi” chiến thuật nắm thắt lưng địch
Sau 5 tháng đổ quân trực tiếp vào Việt Nam, các tướng lĩnh quân Mỹ mong
chờ một trận đánh lớn với “Việt Cộng”. Họ đã có được điều ước nhưng kết
quả thì trái ngược các dự tính.
Trận đầu đánh Mỹ
Sau những trận thua liên tiếp của quân đội VNCH, chiến lược chiến tranh
đặc biệt bị phá sản hoàn toàn. Để cứu vãn thế thua và làm chỗ dựa cho
quân Nam Việt Nam, chính phủ Mỹ quyết định đưa quân Mỹ vào trực tiếp
chiến đấu. Tháng 6/1965, Tổng thống Mỹ phê duyệt chiến lược “Tìm Diệt”
nhằm truy tìm và tiêu diệt quân chủ lực đối phương.
Tại Tây Nguyên, do vị trí chiến lược quan trọng, quân Mỹ và chư hầu đến
giữa năm 1965 đã tăng lên đến 130.000 quân. Tháng 10/1965, Bộ tư lệnh
mặt trận Tây Nguyên (còn gọi là mặt trận B3) điều Trung đoàn 33 vây đồn
Pleime để dụ quân Ngụy ra cứu viện.
Sau 10 ngày vây đồn, 1 chiến đoàn quân Ngụy đi giải tỏa cho đồn Pleime
đã sa vào ổ phục kích do Trung đoàn 320 đã giăng sẵn. Chiến đoàn này bị
đánh thiệt hại nặng mà đồn Pleime vẫn bị vây hãm. Chiến đoàn là đơn vị
ứng chiến cơ động lớn nhất của Ngụy quân đã được tung ra mà vẫn không có
tác dụng, buộc quân Mỹ phải ra mặt.
Đồn Pleime bị bao vây, quân Ngụy đang gọi máy bay ném bom quanh đồn để đẩy quân ta ra xa.
Đầu tháng 11/1965, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ đổ một tiểu đoàn
xuống nam sông Ia-Drăng, một tiểu đoàn khác xuống điểm cao 732, cách La
Mơ 5km. Một lữ dù hành quân cơ giới đến Đức Cơ triển khai quân trên
đường 19B.
Bộ tư lệnh mặt trận B3 nhận định: “Lữ kỵ binh bay số 3 Mỹ thực hiện
chiến thuật “nhảy cóc” vào hậu phương ta hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực
của ta. Chúng ta đang nhử địch ra để diệt mà Mỹ tự nhảy ra như vậy là
đúng ý định của ta, ta có cơ hội để chuyển sang diệt Mỹ”.
Điều đặc biệt là từ sĩ quan đến chiến sĩ ở B3 đều tin tưởng: “Mình sớm
trực tiếp đụng đầu với quân Mỹ so với các chiến trường khác, sau một vài
trận mình sẽ rút được kinh nghiệm, tin rằng sẽ thắng Mỹ như đã thắng
Ngụy”.
Ngày 14/11/1965, Tiểu đoàn 1 (Lữ đoàn 3 kỵ binh bay) đổ bộ xuống đông
bắc Chư Pông 3km, cách Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 66) của ta 200m. Mặc dù
vắng sĩ quan chỉ huy do đang đi nhận nhiệm vụ, lính tiểu đoàn 9 đã tự
giác tổ chức chiến đấu đánh địch ngay từ phút đầu.
Đến trưa ngày 14, tiểu đoàn Mỹ bị phản công mạnh phải cụm lại chống cự, 1
trung đội bị vây chặt ngay tại bãi đáp trực thăng và viên chỉ huy trung
đội bị giết tại trận. 17h cùng ngày, quân Mỹ cho máy bay ném bom vào
đội hình quân ta, các đại đội của Tiểu đoàn 9 tự động rút khỏi trận địa
sau khi đã gây thiệt hại nặng cho đối phương.
Trong 2 ngày tiếp theo, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 66) liên tiếp tiến công
vào khu vực đóng quân của lính dù Mỹ. Tuy nhiên, quân Mỹ đã củng cố
phòng ngự lại có hỏa lực mạnh chi viện nên hiệu quả chiến đấu của các
đợt tấn công của ta không cao. Mặc dù vậy, Tiểu đoàn 1 của Mỹ, sau 2
ngày bị 2 tiểu đoàn ta liên tiếp tấn công, đã rệu rã, thương vong nhiều.
Rạng sáng 17/11, Tiểu đoàn 7 mở một đợt tấn công nữa gây cho tiểu đoàn
Mỹ thiệt hại lớn. Sợ bị tiêu diệt, quân Mỹ cho tàn quân tiểu đoàn này co
cụm về gần trận địa pháo ở La Mơ để phòng thủ đồng thời đổ Tiểu đoàn 2
(Lữ đoàn lính dù số 3) xuống thay thế.
Trực thăng đổ quân Mỹ xuống Ia-Drăng.
Tiểu đoàn dù này đã phát hiện được vị trí của Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn
66) ở bờ sông Ia-Drăng. Về phía Tiểu đoàn 8, từ trước đó đã nhận được
lệnh hành quân quay về để chặn đánh quân Mỹ đang tiến đến từ phía sau
lưng. Trưa 17/11, đơn vị đang nghỉ bên bờ sông để ăn cơm trưa thì trinh
sát báo quân Mỹ đang tới gần.
Hồi ký của tướng Nguyễn Hữu An - chỉ huy trưởng chiến dịch đã mô tả về
trận tao ngộ chiến này: “Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi bình tĩnh đôn đốc
tiểu đoàn nhanh chóng triển khai đội hình chiếm trận địa có lợi trước
mặt và hai bên, hình thành thế bao vây ép địch vào giữa hai gọng kìm của
tiểu đoàn. Sau khi dùng hỏa lực súng cối chế áp ngắm vào đội hình địch,
quân ta dũng cảm đồng loạt xung phong chia cắt đội hình và đánh giáp lá
cà với địch. Cả đôi bên lúc này đội hình xen kẽ nhau đến độ chỉ cho
phép dùng tiểu liên bắn găm, dùng lưỡi lê, lựu đạn mà chiến đấu”.
Cùng lúc đó, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 33) cũng nhận được lệnh hành quân
lên Chư Pông. Trên đường đi, tiểu đoàn nghe tiếng súng nổ đã nhanh chóng
vận động lên phía trước đánh địch. Vậy là Tiểu đoàn dù số 2 của Mỹ đã
nằm gọn vào vòng vây của Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 66) và Tiểu đoàn 1
(Trung đoàn 33). Với lối đánh giáp lá cà dũng mãnh của ta, quân Mỹ rối
loạn đội hình đã nhanh chóng bị tiêu diệt.
Bài toán đã có lời giải
Trận Ia-Drăng là trận đánh lớn đầu tiên giữa quân tinh nhuệ Mỹ và bộ đội
chủ lực của quân ta. Xét tương quan, quân Mỹ ưu thế tuyệt đối về sức cơ
động (vì chuyển quân bằng trực thăng) và hỏa lực (có 1 tiểu đoàn pháo
cùng lực lượng không quân yểm trợ với 300 lần xuất kích/ngày). Trong khi
đó, hỏa lực mạnh nhất của quân ta chỉ có cối 82 mm.
Sau trận đánh, phía Mỹ thừa nhận bị loại khỏi biên chế 476 người, trong
đó 230 người chết. Ta công bố địch thương vong khoảng 1.200 người và ta
mất 208 chiến sĩ, bị thương 146. Nhưng phía Mỹ lại công bố đã quân ta
thương vong 1.000 người.
Con số này rõ ràng là thổi phồng vì toàn quân số tham chiến của ta chỉ
có 4 tiểu đoàn (mỗi tiểu đoàn không quá 500 người) mà sau trận đánh
không có tiểu đoàn nào bị diệt sạch như phía Mỹ.
Không chỉ là một thắng lợi quân sự, trận Ia-Drăng còn tạo nên nhiều rung
động đến tận các giới chức Mỹ. Tướng Westmoreland, sau trận đánh 1 tuần
đã xin thêm 41.500 quân để nâng tổng quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam lên
375.000 người. Các giới chức từ quân sự đến dân sự ở Nam Việt Nam cũng
như ở Mỹ bị chấn động mạnh.
Lính Mỹ bị thương trong giao tranh với quân ta ại thung lũng Ia-Drăng.
Trong cuốn “Sự lừa dối hào nhoáng”, Neil Sheehan đánh giá: “Rõ ràng trận
đụng độ đầu tiên với lực lượng chủ lực Bắc Việt đã làm những người đứng
đầu Quân đội Mỹ tại Việt Nam thay đổi cách nhìn lạc quan về triển vọng
chiến thắng dễ dàng vỗn vẫn được duy trì hồi tháng 7”.
Đối với quân ta, trận thử thách đầu tiên đã giúp ta củng cố thêm niềm
tin rằng ta sẽ thắng Mỹ. Để hạn chế hỏa lực mạnh mẽ của địch, chiến sĩ
ta đã bám sát, đánh cận chiến với bộ binh địch.
Tác dụng của cách đánh này được phóng viên Gallo Way, người đi theo Tiểu
đoàn 2 của Mỹ mô tả lại: “Thiếu tá Hen-ry và trắc thủ pháo binh đã cố
gắng dùng điện đài của họ để gọi pháo binh và không quân chi viện. Điều
này đã làm giảm bớt sự chết chóc, nhưng với đội hình kéo dài hơn 100
yard giữa bãi cỏ cao rậm thì các quả đạn pháo và bom na-pan sát thương
quân Bắc Việt Nam đồng thời cũng sát thương cả người Mỹ”.
Lối đánh cận chiến này được tóm tắt trong phương châm “nắm thắt lưng
địch mà đánh”, được quân ta triệt để áp dụng trong những lần đối đầu
quân Mỹ sau đó khiến hiệu quả của hỏa lực của Mỹ giảm đi rất nhiều.
Trận đánh táo bạo của biệt động Sài Gòn đập tan căn cứ radar Phú Lâm
Những chiến thuật kinh điển của QĐND Việt Nam (kỳ 4)
(Kiến Thức) - Chiến dịch Sa Thầy là trận đánh
thể hiện tài điều địch, dụ địch tài tình của tướng lĩnh Quân đội Nhân
dân Việt Nam.
Kỳ 4: Tài điều địch của tướng lĩnh Việt
Nhử “cóc” vào rọ
Từ khi tiến hành chiến tranh ở miền
Nam Việt Nam, quân đội Mỹ đã rất ưa thích sử dụng chiến thuật “Trực
thăng vận”. Mỗi khi phát hiện nơi tập trung lực lượng quân sự của ta,
lính Mỹ cùng với cả vũ khí hạng nặng liền được trực thăng chở thẳng từ
căn cứ tới ngay khu vực đó. Quân Mỹ thường đổ quân xuống sau lưng đội
hình quân ta để đánh bọc hậu. Chiến thuật này được Mỹ gọi là trực thăng
vận còn phía ta quen gọi là kiểu “nhảy cóc”.
Nhờ sức cơ động rất cao của trực
thăng, các cuộc hành binh của lính Mỹ trở nên an toàn tuyệt đối. Mối lo
sợ bị phục kích dọc đường bị loại bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, chiến thuật
trực thăng vận cũng có nhiều điểm yếu, với tiếng động rất lớn của hàng
chục chiếc trực thăng bay cùng lúc sẽ giúp đối phương dễ dàng phát hiện
từ sớm.
Thêm vào đó, trên các địa hình rừng
núi đối phương hoàn toàn có thể tính trước được các khu vực có thể đáp
trực thăng ở xung quanh nơi họ đóng quân. Từ đó, người ta có thể dễ dàng
lập kế hoạch để giáng trả cho lực lượng đổ bộ từ phút đầu tiếp đất.
Bước vào mùa khô 1966, trên chiến
trường Tây Nguyên, Bộ tư lệnh mặt trận B3 quyết định xây dựng kế hoạch
nhử Mỹ ra khỏi căn cứ để tiêu diệt. Lợi dụng chính “sở thích” nhảy cóc
bằng trực thăng của quân Mỹ để dẫn dụ chúng vào cái bẫy ta giăng sẵn.
Khu vực tác chiến chủ yếu xác định khoảng 500km2 nằm trên địa bàn huyện
Sa Thầy và một phần Tây Bắc huyện Chu Păh. Địa hình có phần tương đối rõ
rệt gồm: từ sông Sa Thầy đến sông Pô Koo núi cao liên tiếp thành dãy, ở
khu vực phía Tây cứ điểm Plây-Giê-Răng có một số núi thấp, gần sát sông
Sa Thầy có bãi trống; từ sông Sa Thầy đến sát biên giới Việt Nam –
Campuchia là rừng thưa, cây thưa có nhiều bãi trống, rất có thể địch sẽ
lợi dụng đổ quân bằng trực thăng.
Lính Mỹ rất ưa thích chiến thuật "trực thăng vận".
Thượng tướng Nguyễn Hữu An - Phó tư
lệnh mặt trận B3 đã viết trong hồi ký của mình về quá trình chuẩn bị:
“Bước vào mùa chiến đấu đông xuân 1966-1967, lực lượng vũ trang Tây
Nguyên ở tư thế đàng hoàng chững chạc. Thời gian chuẩn bị hàng tháng
trời, tôi, Hữu Đức cùng một số cán bộ trung đoàn đi trinh sát thực địa
từ Plây-giê-răng kéo dài tới biên giới Việt Nam - Campuchia khoảng gần
60km.
Chúng tôi tìm địa điểm "chốt" bố trí
sẵn lực lượng, và bàn cách đánh ở thực địa, làm sao khi dẫn địch ra chốt
A, chốt A phải dụ địch vào chốt B, chốt B phải dụ địch vào chốt C… cứ
như thế tạo ra một chuỗi những trận đánh nối tiếp dẫn địch theo ý của ta
vào quyết chiến điểm.
Quyết chiến điểm ở sát biên giới chúng
tôi chọn là một cái nương khá rộng tương đối bằng phẳng, nếu địch muốn
chặn không cho ta vượt qua biên giới, buộc chúng ta phải đổ quân xuống
đây với lực lượng không thể ít hơn một tiểu đoàn. Ở đây ta tập trung lực
lượng lớn nhất, với toàn bộ Trung đoàn 88 quyết tâm diệt gọn tiểu đoàn
địch và cũng là trận đánh kết thúc chiến dịch”.
Dắt mũi quân thù
Ngày 19/10, mở màn chiến dịch, một
phân đội thuộc Trung đoàn 320 đã bao vây “chọc tức” bọn đồn trú ở
Plây-giê-răng. Lập tức một đại đội thuộc Sư đoàn bộ binh số 4 quân Mỹ đổ
quân xuống sau lưng quân ta cách khoảng 3km.
Đại đội địch vừa đổ xuống, ngay trong
đêm đã bị một đại đội của ta nằm sau chúng khoảng 2km vận động tập kích.
Ngày hôm sau chúng lại đổ thêm quân để bọc hậu đơn vị “Việt cộng” chúng
mới phát hiện... Cứ như thế Trung đoàn 320 và một bộ phận của Trung
đoàn 66 đã đánh hàng chục trận và kéo địch vào địa bàn quyết chiến mà ta
đã chọn.
Với ý định không cho “Việt Cộng” chạy
thoát sang Campuchia, quân Mỹ dùng trực thăng đổ 1 tiểu đoàn xuống sát
biên giới. Trước khi đổ bộ, quân Mỹ cho máy bay B-52 rải bom phát quang
một khu vực rộng khoảng 5km. Địa điểm đổ quân của Mỹ nằm gọn trong khu
vực ta đã chọn cho chúng, được ta gọi mật danh là C1.
10h ngày 25/10 địch bắt đầu đổ quân
xuống C1, pháo của ta lấy phần tử bắn từ trước chờ địch đổ quân khoảng
mười phút thì khai hỏa. Cùng lúc 4 khẩu súng cối 120mm lên tiếng và một
trận mưa đạn cối trùm lên toàn bộ đội hình địch.
Lợi dụng "sở thích nhảy cóc", quân ta đã dụ địch vào vị trí chuẩn bị trước đó và giáng cho chúng đòn bão lửa.
Trên đài quan sát, tướng An mô tả:
“Trận bão đạn pháo nổ như sấm sét trùm kín bãi đất bằng phẳng nơi bọn Mỹ
vừa đặt chân xuống. Sự bất ngờ khủng khiếp hơn tất cả mọi khủng khiếp
mà chúng có thể tưởng tượng được. Trên đài quan sát ta nhìn rõ, sau từng
đám khói tan, bọn lính Mỹ chết đè lên nhau, những tên còn sống chạy
hoảng loạn không có nơi trú ẩn”.
Sau cơn mưa đạn cối, Trung đoàn 88 đã
phục sẵn xung quanh, tổ chức thành 3 mũi tiến công vào lực lượng còn sót
lại của địch. Sau phút choáng váng, lính Mỹ gọi phi pháo yểm trợ tích
cực. Hai bên kịch chiến suốt đêm 25/10. Lính Trung đoàn 88 xông lên đánh
giáp lá cà bằng lưỡi lê và lựu đạn làm quân địch càng thêm rối loạn.
Trong khi đó, vì quân hai bên đã lẫn vào nhau nên phi pháo của địch tỏ
ra vô tác dụng. Trong cơn tuyệt vọng, chỉ huy Mỹ cam tâm gọi máy bay ném
bom trùm lên cả đội hình của chính quân mình.
Ở vòng ngoài, Trung đoàn 66 cũng tích
cực đánh quân cứu viện, không cho bọn thám báo và các đại đội lẻ của
địch đến gần khu vực C1. Bị thiệt hại nặng nề, sợ sẽ bị xóa sổ cả tiểu
đoàn quân Mỹ rút chạy khỏi C1.
7h sáng 26/10, 20 chiếc trực thăng
liều chết đáp xuống bãi C1 để bốc đám tàn quân về căn cứ. Cùng với đó,
những đại đội, tiểu đoàn bị xé lẻ thuộc Sư đoàn bộ binh số 4 bị rải ra
suốt chiều dài từ đồn Plây-giê-răng tới Cl gần 60 km cũng lần lượt phải
rút chạy bằng trực thăng.
Tổng kết chiến dịch, từ 19/10 đến
6/12/1966, ta đánh 34 trận lớn nhỏ, tiêu diệt tổng số 2.050 Mỹ, 360
ngụy, diệt gọn một tiểu đoàn Mỹ, 8 đại đội Mỹ và một số trung đội, bắn
rơi 21 máy bay, phá hủy 21 pháo, 5 cối 106 ly, 16 xe.
Rõ ràng quân Mỹ có vũ khí, phương tiện
rất hiện đại nhưng cuối cùng vẫn bị thua là vì ngay từ nước xuất quân
đã nằm gọn trong sự tính toán của đối phương. Kết quả này làm nổi bật
lên tài thao lược của tướng lĩnh quân ta, đặc biệt là tài dụ địch, điều
địch.
Con người hay vũ khí?
Quân đội nhân dân Việt Nam đã ra đời
được gần 50 năm. Trong suốt quá trình chiến đấu và trưởng thành đã đánh
với 3 trong số 5 cường quốc. Đặc biệt trong số đó là 30 năm đấu tranh
liên tiếp chống lại Pháp và Mỹ. Trong cả 30 năm ấy, chưa bao giờ quân ta
ngang bằng đối thủ về so sánh vũ khí.
Tuy nhiên, ta càng đánh càng mạnh, lần
lượt đánh bại các cố gắng quân sự đến mức cao nhất của kẻ địch. Các thủ
đoạn, chiến thuật của đối phương dù tinh vi, phức tạp đến thế nào, có
sự hỗ trợ của vũ khí, máy móc hiện đại đến đâu, cuối cùng đều bị phá sản
trước sự thông minh, mưu trí của tướng lĩnh và chiến sĩ ta.
Ngày nay, điểm lại một số trận đánh để
làm minh họa cho một vài chiến thuật được quân đội ta sử dụng phổ biến
trong chiến tranh trước đây, chúng ta một lần nữa tự hào về truyền thống
đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Đồng thời cũng thấy rằng, vũ khí hiện
đại là quan trọng nhưng con người điều khiển cuộc chiến tranh và sử dụng
những vũ khí ấy còn quan trọng hơn rất nhiều.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét