Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014

VĂN MINH HÓA 10/f3 (Giải thoát nô lệ)

(ĐC sưu tầm trên NET)

 
Nội dung hỏi: Việc buôn bán nô lệ đã diễn ra như thế nào trong lịch sử?
 
Trả lời:
Các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha mỗi khi đến một nơi nào đều thường gọi : “ Ở đây các tín đồ đạo Kitô không?” và họ luôn luôn nói rằng “ Chúng tôi đi tìm những  tín đồ đạo Kitô!”. Vậy vì sao họ phải tìm những tín đồ đó?
Nghe nói, vào cuối thế kỷ thứ 13, đế quốc Ôttôman ( nay là Thổ Nhĩ Kỳ) theo đạo Islam đã chiếm được Palextin – “ thánh địa” của đạo Kitô. Sau đó, những tín đồ đạo Kitô ở đây không chịu nổi sự hành hạ chà đạp của những tín đồ dị giáo, nên một trưởng lão tên là Giôn đã dẫn họ rời khỏi thánh địa đi ra nước ngoài để lập một quốc gia của những tín đồ Kitô giáo. Cho nên trong các nước theo đạo Kitô ở Châu Âu truyền tụng câu chuyện về “ đất nước của trưởng lão Giôn”
Đất nước trong truyền thuyết ấy có tên gọi đầy đủ là “ Nước Kitô giáo của trưởng lão Giôn”. Đất nước đó ở đâu vậy? Những truyền thuyết đầu tiên đều nói nước ấy ở cạnh Trung Quốc. Nhưng sau chuyến đi của Máccô Pôlô sang phương Đông, ông ta không tìm thấy bóng dáng “ đất nước của trưởng lão Giôn” ở cạnh Trung Quốc, thậm chí cả ở vùng Ấn Độ. Sau đó lại có truyền thuyết nói rằng nước ấy ở Châu Phi, thế là hoàng tử của Quốc vương Bồ Đào Nha – Thái tử Henri quyết định tổ chức hai đội thuyền đi theo hai hướng bờ biển phía Tây và bờ biển phía Đông Châu Phi để tìm kiếm. Kết quả là Điaz đi khắp bờ biển phía tây Châu Phi, còn Gama đi bờ biển phía Đông và phát hiện ra con đường thông thương sang phương đông. Họ đã tìm khắp Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương nhưng vẫn không tìm ra “ vương quốc Kitô của trưởng lão Giôn”.
Ban đầu thì họ nói là muốn tìm một số tín đồ Kitô giáo ở nước ngoài đưa về nước. Nhưng thực tế họ mang về lại là những người mà hô gọi là “ nêgơrô”.
Những ai là “ nêgơrô”? những người đa đen ở Châu Phi đều bị người Châu Âu gọi là “ nêgơrô”. Phải chăng vì họ là những tín đồ Kitô giáo được đem về như những “ người khách”? Không phải như vậy , họ bị mang đi với thân phận nô lệ. Từ đó, hàng nghìn hàng vạn người da đen Châu Phi được coi là “ hàng hoá sống” để mua bán, họ phải rời bỏ quê hương, trùng dương cách trở làm thân trâu ngựa và chịu đựng biết bao nỗi khổ hạnh chốn trần gian.
Đợt đầu tiên đưa người da đen về Bồ Đào Nha làm nô lệ vào năm 1442, tất cả có 10 người. Họ đều là những người ở bờ biển phía tây Châu Phi bị “ săn bắt” về. Đợt thứ hai vào năm 1469 tổng số 200 người. Điều đặc biệt của lần này là bọn họ đều do một công ty bán cho Bồ Đào Nha như một thứ “ hàng hoá”. Nghe đâu những người da đen đó đều bị “ thu gom” lại.
Họ đã “ săn bắt” và “ thu gom” như thế bào? Đại để có những cách  sau đây : trước hết là dùng trò dụ dỗ vặt. Họ bày ra đất một số đồ trang sức bằng thủy tinh mà người Châu Phi chưa thấy bao giờ, coi là quà tặng để “ tặng” cho một vài người. Khi có người đến lấy những “ tặng phẩm” ấy thì lập tức họ bị trói lại. Thế là họ  đã “ săn” đương một nô lệ. Nhưng cách làm này chỉ áp dụng được đối với người đi riêng lẻ, nếu người da đen đến nhiều thì không thể làm như vậy được. Họ lại nghĩ ra cách “ vây bắt”, huy động một tốp lính có vũ trang, bao vây mấy người da đen rồi trói họ lại bắt đem đi. Sau những tên cướp thực dân này to gan hơn nữa, chúng bao vây cả một làng và “ thu gom” tất cả bất kể trẻ, gia, trai, gái đem đi.
Nhưng cách “ săn bắt” đó sẽ làm cho người da đen vũ trang chống lại họ, mặc dầu những người da đen chỉ có cung tên và chùy đồng, đao kiếm bằng sắt họ cũng chưa có.
Người da đen đông, bọn thực dân tuy có súng ống nhưng ít người nên có lúc săn bắt không thành công lại còn bị thiệt mạng. Bọn thực dân lại nghĩ ra kế “ thu mua” họ, bọn chúng biết người da đen ở Châu Phi có nhiều chủng tộc, mỗi chủng tộc lại chia ra nhiều bộ lạc và thường có những mâu thuẩn  giữa chủng tộc này với chủng tộc nọ, giữa bộ lạc này với bộ lạc nọ. Chúng tìm cách gây xích mích chi rẽ giữa các bộ tộc để họ đánh lẫn nhau, chúng đứng giữa có thể “ thu mua” tù binh chiến tranh của các bộ lạc. Thủ đoạn dùng người Châu Phi “ săn bắt” người Châu Phi của chúng quả là thâm độc. Kết quả là rất nhiều thôn làng bị huỷ diệt, rất nhiều gia đình ly tán, con xa cha, vợ xa chồng, còn bọn thực dân thì phát tài lớn. “ Mua” một nô lệ da đen ở Châu Phi chỉ tốn 70 đến 100 frăng, mang về bên kia đại dương bán có thể thu được từ 1000 đến 2000 frăng, tỉ suất lợi nhuận từ 1000% đến 3000%.

Sau khi phát hiện ra Châu Mỹ, nô lệ da đen có thêm “ thị trường” mới.

Ở châu Mỹ do thực dân Tây Ban Nha và bồ Đào Nha tàn sát với quy mô lớn nên người Inđian ở đây hầu như đã bị giết sạch. Một Châu Mỹ mênh mông mà không tìm đâu ra sức lao động. Cho nên việc đem người da đen Châu Phi sang bán ở Châu Mỹ làm nô lệ trở thành một ngành kinh doanh mới. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ riêng các thuộc địa của Anh trong quần đảo Tây ấn, từ năm 1680 đến năm 1786 dã “ nhập” tới 2 triệu 13 vạn người Châu Phi. Một hòn đảo Giamaica nhỏ bé mà từ năm 1700 đến 1786 đã “ nhập” 61 vạn ngươi da đen làm nô lệ.

Nghề buôn bán nô lệ ngày càng phát đạt, trước tiên là người Bồ Đào Nha rồi đến người Tây Ban Nha, tới người Pháp, người Hà Lan và sau cùng là người Anh. Trong vòng ba thế kỷ từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 biết bao nhiêu người da đen ở Châu Phi đã bị bán làm nô lệ như vậy.

Từ bị “ San bắt” đến việc bán làm nô lệ là một quá trình bi thảm nhất của người da đen. Một người Anh tên là Giôhanxtơn đã có một đoạn ghi chép chân thực sau đây:

“ Một bầy nô lệ trên bờ biển. Người nào cũng đeo một cái gông sắt nặng ở cổ hoặc bị trói chung vào 1 cây sào, tay bị xiềng, chân bị xích. Xiềng tay và xích chân đã làm cho bọn họ toạc da rách thịt, vết thương càng ngày càng lở loét, thối rữa. Những người nô lệ đó không được ăn no, không được uống nước, bị thúc ép di cho nhanh dưới những làn roi, nên thường bị say nắng mà thiệt mạng. Nếu họ nằm xuống, nghỉ, hoặc bước đi uể oải ngã vật xuống là bị bắn chết ngay hoặc bị dao nhọn đâm chết hoặc bị cắt cuốn họng một cách vô nhân đạo. Những em bé mẹ không cõng nổi hoặc đi theo không kịp đoàn người thì bị gậy dập đến vỡ óc. Nhiều nô lệ đã tự sát một cách đau khổ”.

Xem đó, bọn thực dân da trắng vẫn tự xưng là “ văn minh” đã đối xử “ văn minh” với người da đen như vậy đó!

Sau khi đến bến tàu những người nô lệ phải đợi “ chủ mua”, bọn chúng bắt họ đứng thành hàng, còn các “ chủ mua” coi họ như “ hàng hoá”, lần lượt kiểm tra cơ thể và sức khoẻ của họ, nào vành  mắt vạch răng, sờ tay nắn chân. Người khoẻ gia cao, người yếu giá thấp, đàn ông giá cao, đàn bà giá thấp; người trẻ giá cao, con nít giá thấp. Mặc cả xong xuôi sẽ lên một danh sách; chủ mua trả tiền cho kẻ bán, kẻ bán ký vào một biên lai nhận tiền, sau đó chủ mua dùng con dấu sắt nung đỏ in lên từng người nô lệ, thủ tục mua bán đến đây coi như xong.

Tiếp đó, tất cả những người nô lệ bị dồn lên thuyền. Mấy chục con người, thậm chí cả trăm con người nhét vào một khoang đáy thuyền nhỏ bé, thiếu ánh sáng, ngột ngạt, chân tay vận bị xiềng xích, không thể cựa động được và bệnh tật ốm đau là điều không tránh khỏi. Người ốm không được chữa chạy, bệnh nhẹ thành bệnh nặng, một số nô lệ ốm đau đã bị bọn chủ ném xuống biển. Ngày ấy còn dùng thuyền buồm để vượt đại dương, mỗi chuyến đi thường kéo dài vài ba tháng. Theo “ kinh nghiệm” của bọn chủ, mỗi chuyến đi thường là một nửa số nô lệ bị chết. Nhưng lợi nhuận buôn bán nô lệ lên tới 1000% đến 3000%, một nửa “ hàng hoá” mất đi vẫn phát tài chán, cho nên nô lệ sống hay chết, bọn chủ chẳng cần.

Đến bờ bên kia đại dương lại phải chờ “ chủ mua”  một lần nữa. Khi bọn thực dân ở Châu Mỹ mở mang đồn điền, chúng cần rất nhiều sức lao động và chúng ra bến tàu để “ mua hàng”. Cảnh mua bán ở đây cũng giống như ở bờ biện Châu Phi, cũng kiểm tra sức khoẻ, cũng cò kè giá cả và lần thứ hai người nô lệ bị đóng dấu sắt đỏ nung lên người.

Về đến đồn điền cũng chưa phải là đã kết thúc thảm cảnh của người nô lệ, mà chỉ là mở đầu thảm cảnh mới. Họ phải làm lụng dưới mặt trời gay gắt, vẫn phải xích chân, bên cạnh họ là những tên cai luôn trừng mắt nhìn họ với chiếc roi da trong tay sẵn sàng quật tới.

Tất nhiên những người nô lệ sẽ phản kháng. Thủ đoạn chính là bọn thực dân dùng dẹp yên sự phản kháng là truyền đạo. Hầu hết các con thuyền di mua bán nô lệ và ở các đồn điền có nô lệ đều có một cha cố Kitô. Họ rao giảng cho nô lệ rằng, hãy chịu khổ dưới trần gian để sau khi chết được lên thiên đàng hưởng phúc. Họ dùng tôn giáo để làm tê liệt ý chí của những người nô lệ.

Từ “ đi tìm những tín đồ Kitô giáo” đến truyền bá cho người da đen về cõi phúc trên Thiên đường, họ cuối cùng đã biến những người nô lệ thành những con chiên ngoan đạo, đó chính là lịch sử của việc buôn bán nô lệ!
(ĐC chép từ dostquangtri.gov.vn)
 

Abraham Lincoln

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
 
Abraham Lincoln
Abraham Lincoln November 1863.jpg
Abraham Lincoln năm 1863 (54 tuổi)
Chức vụ
Nhiệm kỳ 4 tháng 3, 1861 – 15 tháng 4, 1865
Tiền nhiệm James Buchanan
Kế nhiệm Andrew Johnson
Phó Tổng thống Hannibal Hamlin
Andrew Johnson
Nhiệm kỳ 4 tháng 3, 1847 – 3 tháng 3, 1849
Tiền nhiệm John Henry
Kế nhiệm Thomas Harris
Thông tin chung
Đảng Cộng hòa (1854–1865)
Liên hiệp Quốc gia (1864–1865)
Sinh 12 tháng 2, 1809
Hodgenville, Kentucky, Hoa Kỳ
Mất 15 tháng 4, 1865 (56 tuổi)
Washington, D.C., Hoa Kỳ.
Học vấn tự học
Nghề nghiệp Luật sư, Chính trị gia
Tôn giáo Xem Abraham Lincoln và tôn giáo
Vợ Mary Todd
Con cái Robert
Edward
William
Tad
Abraham Lincoln 1862 signature.svg
Abraham Lincoln /ˈbrəhæm ˈlɪŋkən/ (12 tháng 2, 1809 – 15 tháng 4, 1865), còn được biết đến với tên Abe Lincoln, tên hiệu Honest Abe, Rail Splitter, Người giải phóng vĩ đại, là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ tháng 3 năm 1861 cho đến khi bị ám sát vào tháng 4 năm 1865. Ông được xem là một nhân vật lịch sử tiêu biểu hàng đầu của Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ, với tài nghệ chính trị tầm cỡ George Washington và người đồng hương khi đó là Sa hoàng Aleksandr II của Nga.
Lincoln thành công trong nỗ lực lãnh đạo đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng hiến pháp, quân sự, và đạo đức – cuộc Nội chiến Mỹ – duy trì chính quyền Liên bang, đồng thời chấm dứt chế độ nô lệ, và hiện đại hóa nền kinh tế, tài chính của đất nước. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở vùng biên thùy phía Tây, kiến thức Lincoln thu đạt được hầu hết là nhờ tự học. Ông trở thành luật sư nông thôn, nghị viên Viện Lập pháp tiểu bang Illinois, nghị sĩ một nhiệm kỳ ở Viện Dân biểu Hoa Kỳ, rồi trải qua hai lần thất bại trong nỗ lực giành một ghế tại Thượng viện.
Bày tỏ lập trường chống đối chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ qua những bài diễn văn và các cuộc tranh luận trong chiến dịch tranh cử, Lincoln nhận được sự đề cử của Đảng Cộng hòa ra tranh cử Tổng thống năm 1860. Sau khi các tiểu bang chủ trương nô lệ ở miền Nam tuyên bố rút khỏi Liên bang Hoa Kỳ, chiến tranh bùng nổ ngày 12 tháng 4, 1861, Lincoln tập trung nỗ lực vào hai phương diện quân sự và chính trị nhằm tái thống nhất đất nước. Ông mạnh dạn hành xử quyền lực trong thời chiến chưa từng có, trong đó có việc bắt giữ và cầm tù không qua xét xử hàng chục ngàn người bị nghi là những kẻ ly khai. Ông ngăn cản Anh Quốc công nhận Liên minh bằng những hành xử khôn ngoan trong sự kiện Trent liên quan đến quan hệ ngoại giao giữa Anh và Hoa Kỳ xảy ra cuối năm 1861. Năm 1861, Lincoln công bố Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ và vận động thông qua Tu chính án thứ Mười ba nhằm bãi bỏ chế độ nô lệ.
Lincoln luôn theo sát diễn biến cuộc chiến, nhất là trong việc tuyển chọn các tướng lĩnh, trong đó có tướng Ulysses S. Grant. Các sử gia đã kết luận rằng Lincoln rất khéo léo giải quyết các chia rẽ trong Đảng Cộng Hòa, ông mời lãnh đạo các nhóm khác nhau trong đảng tham gia nội các và buộc họ phải hợp tác với nhau. Dưới quyền lãnh đạo của ông, Liên bang mở một cuộc phong tỏa hải quân cắt đứt mọi giao thương đến miền Nam, nắm quyền kiểm soát biên giới ngay từ lúc cuộc chiến mới bùng nổ, sử dụng chiến thuyền kiểm soát lưu thông trên hệ thống sông ngòi miền Nam, và nhiều lần cố chiếm thủ đô Liên minh tại Richmond. Mỗi khi có một tướng lĩnh thất trận, ông liền bổ nhiệm một tướng lĩnh khác thay thế cho đến lúc Tướng Grant đạt đến chiến thắng sau cùng năm 1865. Là một chính trị gia sắc sảo từng can thiệp sâu vào các vấn đề quyền lực tại mỗi tiểu bang, ông tạo lập mối quan hệ tốt với nhóm đảng viên Dân chủ ủng hộ cuộc nội chiến, và tái đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1864.
Là lãnh tụ nhóm ôn hòa trong đảng Cộng hòa, Lincoln bị “công kích từ mọi phía”: Đảng viên Cộng hòa cấp tiến đòi hỏi những biện pháp cứng rắn hơn đối với miền Nam, nhóm Dân chủ ủng hộ chiến tranh thì muốn thỏa hiệp, đảng viên Dân chủ chống chiến tranh khinh miệt ông, trong khi những người ly khai cực đoan tìm cách ám sát ông. Trên mặt trận chính trị, Lincoln tự tin đánh trả bằng cách khiến các đối thủ của ông đối đầu với nhau, cùng lúc ông sử dụng tài hùng biện để thuyết phục dân chúng. Diễn văn Gettysburg năm 1863 là bài diễn từ được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử Mỹ Quốc. Đó là bản tuyên ngôn tiêu biểu của tinh thần Mỹ hiến mình cho các nguyên lý cao cả của tinh thần dân tộc, quyền bình đẳng, tự do, và dân chủ. Sau khi chiến tranh kết thúc, Lincoln chủ trương một quan điểm ôn hòa nhằm tái thiết và nhanh chóng tái thống nhất đất nước thông qua chính sách hòa giải và bao dung trong một bối cảnh phân hóa đầy cay đắng với hệ quả kéo dài. Tuy nhiên, chỉ sáu ngày sau khi Tướng Robert E. Lee của Liên minh miền Nam tuyên bố đầu hàng, Lincoln bị ám sát bởi một diễn viên và là người ủng hộ Liên minh, John Wilkes Booth, tại Hí viện Ford khi ông đang xem vở kịch ‘’Our American Cousin’’. Đây là lần đầu tiên một tổng thống Hoa Kỳ bị ám sát. Dẫu có nhiều ý kiến mâu thuẫn về ông, Lincoln liên tục được xếp vào danh sách ba vị tổng thống vĩ đại nhất của nước Mỹ, và được xem là một chính khách mẫu mực đại diện cho mọi phẩm chất tốt đẹp của nền Dân chủ Cộng hòa tại Hoa Kỳ, với tinh thần bình đẳng và quên mình vì nước.

Gia cảnh và tuổi thơ

Thiếu thời

A statue of young Lincoln sitting on a stump, holding a book open on his lap
Tượng Lincoln tại Công viên Senn, Chicago
Abraham Lincoln chào đời ngày 12 tháng 2, 1809 (cùng ngày sinh với Charles Darwin), là con thứ hai của Thomas Lincoln và Nancy Lincoln (nhũ danh Hanks), trong một căn nhà gỗ một phòng ở Nông trại Sinking Spring thuộc Hạt Hardin, Kentucky rộng 348 acre (1.4 km²) ở phía đông nam Quận Hardin, Kentucky, khi ấy còn bị coi là biên giới (nay là một phần của Quận LaRue, ở Nolin Creek, cách Hodgenville 3 dặm (5 km). Cậu được đặt theo tên của ông nội, người đã dời gia đình từ Virginia đến Hạt Jefferson, Kentucky, tại đó ông bị thiệt mạng trong một trận phục kích của người da đỏ năm 1786 trước sự chứng kiến của các con, trong đó có thân phụ của Lincoln, Thomas. Sau đó, Thomas một mình tìm đường đến khu biên thùy. Mẹ của Lincoln, Nancy, là con gái của Lucy Hanks, sinh tại một địa điểm nay là Hạt Mineral, West Virginia, khi ấy thuộc bang Virginia. Lucy đem Nancy đến Kentucky. Nancy Hanks kết hôn với Thomas, lúc ấy Thomas đã là một công dân khả kính trong cộng đồng. Gia đình gia nhập một nhà thờ Baptist chủ trương tuân thủ nghiêm nhặt các chuẩn mực đạo đức, chống đối việc uống rượu, khiêu vũ, và chế độ nô lệ.
Cha mẹ Lincoln là những nông dân thất học và mù chữ. Khi Lincoln đã trở nên nổi tiếng, những nhà báo và những người viết truyện đã thổi phồng sự nghèo khổ và tối tăm của ông khi ra đời. Tuy nhiên, Thomas Lincoln là một công dân khá có ảnh hưởng ở vùng nông thôn Kentucky. Ông đã mua lại Trang trại Sinking Spring vào tháng 12 năm 1808 với giá $200 tiền mặt và một khoản nợ. Trang trại này hiện được bảo tồn như một phần của Địa điểm di tích lịch sử quốc gia nơi sinh Abraham Lincoln. Thomas được chọn vào bồi thẩm đoàn, và được mời thẩm định giá trị các điền trang. Vào thời điểm con trai của ông Abraham chào đời, Thomas sở hữu hai nông trang rộng 600 mẫu Anh (240 ha), vài khu đất trong thị trấn, bầy gia súc và ngựa. Ông ở trong số những người giàu có nhất trong hạt. Tuy nhiên, đến năm Thomas bị mất hết đất đai trong một vụ án vì sai sót trong việc thiết lập chủ quyền điền thổ.
Ba năm sau khi mua trang trại, một người chủ đất trước đó đưa hồ sơ ra trước Toà án Hardin Circuit buộc gia đình Lincoln phải chuyển đi. Thomas theo đuổi vụ kiện cho tới khi ông bị xử thua năm 1815. Những chi phí kiện tụng khiến gia cảnh càng khó khăn thêm. Năm 1811, họ thuê được 30 acres (0.1 km²) trong trang trại Knob Creek rộng 230 acre (0.9 km²) cách đó vài dặm, nơi họ sẽ chuyển tới sống sau này. Nằm trong lưu vực Sông Rolling Fork, đó là một trong những nơi có đất canh tác tốt nhất vùng. Khi ấy, cha Lincoln là một thành viên được kính trọng trong cộng đồng và là một nông dân cũng như thợ mộc tài giỏi. Hồi ức sớm nhất của Lincoln bắt đầu có ở trang trại này. Năm 1815, một nguyên đơn khác tìm cách buộc gia đình Lincoln phải rời trang trại Knob Creek. Nản chí trước sự kiện tụng cũng như không được các toà án ở Kentucky bảo vệ, Thomas quyết định đi tới Indiana, nơi đã được chính phủ liên bang khảo sát, nên quyền sở hữu đất đai cũng được bảo đảm hơn. Có lẽ những giai đoạn tuổi thơ ấy đã thúc đẩy Abraham theo học trắc địa và trở thành một luật sư.
Gia đình băng qua sông Ohio để dời đến một lãnh thổ không có nô lệ và bắt đầu cuộc sống mới ở Hạt Perry, Indiana. Tại đây, năm 1818 khi Lincoln lên chín, mẹ cậu qua đời. Sarah, chị của Lincoln, chăm sóc cậu cho đến khi ông bố tái hôn năm 1898; về sau Sarah chết ở lứa tuổi 20 trong lúc sinh nở.
Hãy quyết tâm sống chân thật trong mọi sự; nếu bạn thấy mình không thể trở thành một luật sư trung thực, thì hãy cố sống trung thực mà không cần phải làm luật sư.
Abraham Lincoln
Vợ mới của Thomas Lincoln, Sarah Bush Johnston, nguyên là một góa phụ, mẹ của ba con. Lincoln rất gần gũi với mẹ kế, gọi bà là “Mẹ”. Khi còn bé, Lincoln không thích nếp sống lao động cực nhọc ở vùng biên thùy, thường bị người nhà và láng giềng xem là lười biếng. Nhưng khi đến tuổi thiếu niên, cậu tình nguyện đảm trách tất cả việc nhà, trở thành một người sử dụng rìu thành thục khi xây dựng hàng rào. Cậu cũng được biết tiếng nhờ sức mạnh cơ bắp và tính gan lì sau một trận đấu vật quyết liệt với thủ lĩnh một nhóm côn đồ gọi là "the Clary's Grove boys". Cậu cũng tuân giữ tập tục giao hết cho cha toàn bộ lợi tức cậu kiếm được cho đến tuổi 21. Giáo dục tiểu học cậu bé Lincoln tiếp nhận chỉ tương đương một năm học do các giáo viên lưu động giảng dạy, hầu hết là do cậu tự học và tích cực đọc sách. Trên thực tế Linoln là người tự học, đọc mọi cuốn sách có thể mượn được. Cậu thông thạo Kinh Thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, lịch sử Anh, lịch sử Mỹ, và học được phong cách trình bày giản dị trước thính giả. Lincoln không thích câu cá và săn bắn vì không muốn giết hại bất cứ một con vật nào kể cả để làm thực phẩm dù cậu rất cao và khoẻ, cậu dành nhiều thời gian đọc sách tới nỗi những người hàng xóm cho rằng cậu cố tình làm vậy để tránh phải làm việc chân tay nặng nhọc.
Năm 1830, để tránh căn bệnh nhiễm độc sữa mới vừa bùng nổ dọc theo sông Ohio, gia đình Lincoln di chuyển về hướng tây và định cư trên khu đất công ở Hạt Macon, Illinois, một tiểu bang không có nô lệ. Năm 1831, Thomas đem gia đình đến Hạt Coles, Illinois. Lúc ấy, là một thanh niên đầy khát vọng ở tuổi 22, Lincoln quyết định rời bỏ gia đình để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn. Cậu đi xuồng xuôi dòng Sangamon đến làng New Salem thuộc Hạt Sangamon. Mùa xuân năm 1831, sau khi thuê mướn Lincoln, Denton Offutt, một thương nhân ở New Salem, cùng một nhóm bạn, vận chuyển hàng hóa bằng xà lan từ New Salem theo sông Sangamon và Mississippi đến New Orleans. Tại đây, lần đầu tiên chứng kiến tận mắt tệ nạn nô lệ, Lincoln đi bộ trở về nhà.
Trong một tự truyện, Lincoln miêu tả mình trong giai đoạn này - ở lứa tuổi 20, rời bỏ vùng rừng núi hẻo lánh để tìm đường tiến vào thế giới – như là “một gã trai kỳ dị, không bạn bè, không học thức, không một xu dính túi”.

Hôn nhân và con cái

A seated Lincoln holding a book as his young son looks at it
Tổng thống Lincoln cùng cậu con út, Tad, năm 1864
Black and white photo of Mary Todd Lincoln's shoulders and head
Mary Todd Lincoln lúc 28 tuổi
Năm 1840, Lincoln đính hôn với Mary Todd, con gái của một gia đình giàu có sở hữu nô lệ ở Lexington, Kentucky. Họ gặp nhau lần đầu ở Springfield, Illinois vào tháng 12 năm 1839, rồi đính hôn vào tháng 12 năm sau. Hôn lễ được sắp đặt vào ngày 1 tháng 1, 1841, nhưng bị Lincoln đề nghị hủy bỏ. Sau này họ lại gặp nhau và kết hôn ngày 4 tháng 11, 1842, hôn lễ tổ chức tại ngôi biệt thự của người chị của Mary ở Springfield. Ngay cả khi đang chuẩn bị cho hôn lễ, Lincoln vẫn cảm thấy lưỡng lự. Khi được hỏi cuộc hôn nhân này sẽ dẫn ông đến đâu, Lincoln trả lời, “Địa ngục, tôi nghĩ thế.” Năm 1844, hai người mua một ngôi nhà ở Springfield gần văn phòng luật của Lincoln. Mary Todd Lincoln là người vợ đảm đang, chu tất việc nội trợ như đã từng làm khi còn sống với cha mẹ ở Kentucky. Cô cũng giỏi vén khéo với đồng lương ít ỏi chồng cô kiếm được khi hành nghề luật. Robert Todd Lincoln chào đời năm 1843, kế đó là Edward (Eddie) trong năm 1846. Lincoln “đặc biệt yêu thích lũ trẻ”, và thường tỏ ra dễ dãi với chúng. Robert là người con duy nhất còn sống cho đến tuổi trưởng thành. Edward mất ngày 1 tháng 1, 1850 ở Springfield do lao phổi. “Wille” Lincoln sinh ngày 21 tháng 12, 1850 và mất ngày 20 tháng 2, 1862. Đứa con thứ tư của Lincoln, “Tad” Lincoln, sinh ngày 4 tháng 4, 1853, và chết vì mắc bệnh tim ở tuổi 18 (16 tháng 7, 1871).
Cái chết của những cậu con trai đã tác động mạnh trên cha mẹ chúng. Cuối đời, Mary mắc chứng u uất do mất chồng và các con, có lúc Robert Todd Lincoln phải gởi mẹ vào viện tâm thần trong năm 1875. Abraham Lincoln thường khi vẫn “u sầu, phiền muộn”, ngày nay được coi là triệu chứng của bệnh trầm cảm.
Robert có ba con và ba cháu. Không một ai trong số cháu của ông có con, vì thế dòng dõi Lincoln chấm dứt khi Robert Beckwith (cháu trai của Lincoln) chết ngày 24 tháng 12, 1985.

Khởi nghiệp

Năm 1832, ở tuổi 23, Lincoln cùng một đối tác mua chịu một cửa hàng tạp hóa ở New Salem, Illinois. Mặc dù kinh tế trong vùng đang phát triển, doanh nghiệp của họ phải vất vả để tồn tại, cuối cùng Lincoln phải sang nhượng cổ phần của ông. Tháng 3 năm ấy, Lincoln bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng cách tranh cử vào Nghị viện Illinois. Ông giành được thiện cảm của dân địa phương, thu hút nhiều đám đông ở New Salem bằng biệt tài kể chuyện đầy hóm hỉnh, mặc dù ông thiếu học thức, thân hữu có thế lực, và tiền bạc, là những yếu tố có thể khiến ông thất cử. Khi tranh cử, ông chủ trương cải thiện lưu thông đường thủy trên sông Sangamon.
Thin man looking to the right wearing a bow tie.
Bức phác họa chân dung ứng cử viên Abraham Lincoln
Trước cuộc bầu cử, Lincoln phục vụ trong lực lượng dân quân Illinois với cấp bậc đại úy suốt trong Chiến tranh Black Hawk (một cuộc chiến ngắn ngủi chống lại người da đỏ). Sau chiến tranh, ông trở lại vận động cho cuộc bầu cử ngày 6 tháng 8 vào Nghị viện Illinois. Với chiều cao 6 foot 4 inch (193 cm), Lincoln cao và “đủ mạnh để đe dọa bất kỳ đối thủ nào.” Ngay từ lần diễn thuyết đầu tiên, khi nhìn thấy một người ủng hộ ông trong đám đông bị tấn công, Lincoln liền đến “túm cổ và đáy quần gã kia” rồi ném hắn ra xa. Lincoln về hạng tám trong số mười ba ứng cử viên (chỉ bốn người đứng đầu được đắc cử).
Lincoln quay sang làm trưởng bưu điện New Salem, rồi đo đạc địa chính; suốt thời gian ấy ông vẫn say mê đọc sách. Cuối cùng ông quyết định trở thành luật sư, bắt đầu tự học bằng cách nghiền ngẫm quyển Commentaries on the Laws of England của Blackstone, và những sách luật khác. Về phương pháp học, Lincoln tự nhận xét về mình: “Tôi chẳng học ai hết.” Lincoln thành công khi ra tranh cử lần thứ hai năm 1834. Ông vào viện lập pháp tiểu bang. Sau khi được nhận vào Đoàn Luật sư Hoa Kỳ năm 1836, ông dời đến Springfield, Illinois bắt đầu hành nghề luật dưới sự dẫn dắt của John T. Stuart, một người anh em họ của Mary Todd. Dần dà, Lincoln trở thành một luật sư tài năng và thành đạt. Từ năm 1841 đến 1844, ông cộng tác với Stephen T. Logan, rồi với William Herndon, ông đánh giá Herndon là “một thanh niên chuyên cần”.
Năm 1841, Lincoln hành nghề luật cùng William Herndon, một người bạn trong Đảng Whig. Năm 1856, hai người tham gia Đảng Cộng hoà. Sau khi Lincoln chết, Herndon bắt đầu sưu tập các câu chuyện về Lincoln từ những người từng biết ông ở Illinois, và xuất bản chúng trong cuốn Lincoln của Herndon.

Trong kỳ họp 1835-1836, ông bỏ phiếu ủng hộ chủ trương mở rộng quyền bầu cử cho nam giới da trắng, dù có sở hữu đất đai hay không. Ông nổi tiếng với lập trường "free soil" chống chế độ nô lệ lẫn chủ trương bãi bỏ nô lệ. Lần đầu tiên trình bày về chủ đề này trong năm 1837, ông nói, “Định chế nô lệ được thiết lập trên sự bất công và chính sách sai lầm, nhưng tuyên bố bãi nô chỉ làm gia tăng thay vì giảm thiểu tội ác này.” Ông theo sát Henry Clay trong nỗ lực ủng hộ việc trợ giúp những nô lệ được tự do đến định cư tại Liberia ở châu Phi. Ông phục vụ bốn nhiệm kỳ liên tiếp ở Viện Dân biểu tiểu bang Illinois, đại diện cho Hạt Sangamon.

Vị Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ có bằng sáng chế

Trên thực tế nhiều người xem vị tổng thống thứ 3 của nước Mỹ, Thomas Jeffersonnhà phát minh vĩ đại nhất từng sống ở Nhà Trắng. Nhưng vị Tổng thống này chưa bao giờ lấy bằng sáng chế cho những ý tưởng của mình. Trong lịch sử nước Mỹ, chỉ duy nhất một Tổng thống từng được cấp bằng sáng chế cho dù bình thường ông ít quan tâm đến công nghệ, đó là Tổng thống Abraham Lincoln.
Vào cuối những năm 1890, Lincoln là đại biểu Quốc hội của bang Illinois. Ông thường đi lại giữa Washington và Illinois trên con tàu chạy bằng hơi nước Great Lakes. Một lần tàu bị mắt kẹt ở bãi cát ngay giữa sông. Tât cả hành khách và hàng hoá phải chuyển đi để con tàu nổi dần lên. Đó là một quá trình dài và buồn tẻ.
Điều này mang đến cho Lincoln một ý tưởng, khi trở về văn phòng luật sư của mình ở Illinois, ông bắt đầu sáng chế ra một thiết bị có thể làm con tàu nổi lên mà không cần phải làm cho nó nhẹ đi bằng việc bóc dở hàng hoá xuống. Ông tranh thủ gọt đẽo mô hình giữa các phiên toà. Kết quả, ông nhận được bằng sáng chế số 6469: "Cách làm nổi những con tàu lớn".
Phát minh của Lincoln được chứng minh là không thực tế và không được đưa vào sản xuất. Nhưng nó đã cho thấy vị luật sư có tài xoay xở này sở hữu một trí tuệ đầy sáng tạo và dám thực hiện những ý tưởng mới. Đó là ý chí mà nước Mỹ rất cần trong những năm tháng bất ổn sau này.

Nghị trường Liên bang

Lincoln, năm 1846
Từ đầu thập niên 1930, Lincoln là thành viên kiên trung của đảng Whig, tự nhận mình là “một đảng viên Whig bảo thủ, một môn đệ của Henry Clay”. Đảng Whig ủng hộ hiện đại hóa nền kinh tế trong các lĩnh vực ngân hàng, dùng thuế bảo hộ để cung ứng ngân sách cho phát triển nội địa như đường sắt, và tán thành chủ trương đô thị hóa.
Năm 1846, Lincoln đắc cử vào Viện Dân biểu Hoa Kỳ, phục vụ một nhiệm kỳ hai năm. Ông là đảng viên Whig duy nhất trong đoàn đại biểu đến từ Illinois, ông sốt sắng bày tỏ lòng trung thành với đảng của mình trong các cuộc biểu quyết và phát biểu ủng hộ chủ trương của đảng. Cộng tác với Joshua R. Giddings, một dân biểu chủ trương bãi nô, Lincoln soạn thảo một dự luật nhằm bãi bỏ chế độ nô lệ tại Hạt Columbia, nhưng ông phải từ bỏ ý định vì không có đủ hậu thuẫn từ trong đảng Whig. Về chính sách ngoại giao và quân sự, Lincoln lớn tiếng chống cuộc chiến Mễ-Mỹ, chỉ trích Tổng thống James K. Polk là chỉ lo tìm kiếm “thanh danh về quân sự - một ảo vọng nhuốm máu”.
Bằng cách soạn thảo và đệ trình Nghị quyết Spot, Linconln quyết liệt bác bỏ quan điểm của Polk. Cuộc chiến khởi phát do người Mexico sát hại binh sĩ Mỹ ở vùng lãnh thổ đang tranh chấp giữa Mexico và Hoa Kỳ; Polk nhấn mạnh rằng binh sĩ Mexico đã “xâm lăng lãnh thổ chúng ta” và làm đổ máu đồng bào chúng ta ngay trên “đất của chúng ta”. Lincoln yêu cầu Polk trình bày trước Quốc hội địa điểm chính xác nơi máu đã đổ và chứng minh địa điểm đó thuộc về nước Mỹ. Quốc hội không chịu thảo luận về nghị quyết, báo chí trong nước phớt lờ nó, và Lincoln bị mất hậu thuẫn chính trị ngay tại khu vực bầu cử của ông. Một tờ báo ở Illinois gán cho ông biệt danh “spotty Lincoln”. Về sau, Lincoln tỏ ra hối tiếc về một số phát biểu của ông, nhất là khi ông tấn công quyền tuyên chiến của tổng thống.
Nhận thấy rằng Clay không thể thắng cử, Lincoln, năm 1846 đã cam kết chỉ phục vụ một nhiệm kỳ tại Viện Dân biểu, ủng hộ Tướng Zachary Taylor đại diện đảng Whig trong cuộc đua năm 1848 tranh chức tổng thống. Khi Taylor đắc cử, Lincoln hi vọng được bổ nhiệm lãnh đạo Tổng Cục Địa chính (General Land Office), nhưng chức vụ béo bở này lại về tay một đối thủ của ông, Justin Butterfield, người được chính phủ đánh giá là một luật sư lão luyện, nhưng theo Lincoln, Butterfield chỉ là một “tảng hóa thạch cổ lỗ”. Chính phủ cho ông giải khuyến khích là chức thống đốc Lãnh thổ Oregon. Vùng đất xa xôi này là căn cứ địa của đảng Dân chủ, chấp nhận nó đồng nghĩa với việc chấm dứt sự nghiệp chính trị và luật pháp của ông ở Illinois, Lincoln từ chối và quay trở lại nghề luật.

Luật sư vùng Thảo nguyên

Đừng ham đáo tụng đình. Cố mà hòa giải với hàng xóm. Hãy cho họ thấy thường khi người thắng cuộc thật ra chỉ là kẻ thua đau – mất thời gian mà còn hao tốn tiền của.
Abraham Lincoln.
Lincoln trở lại hành nghề luật ở Springfield, xử lý “mọi loại công việc dành cho luật sư vùng thảo nguyên”. Hai lần mỗi năm trong suốt mười sáu năm, mỗi lần kéo dài hai tuần, ông phải có mặt tại quận lỵ nơi tòa án quận có phiên xét xử. Lincoln giải quyết nhiều vụ tranh chấp trong lĩnh vực giao thông ở miền Tây đang mở rộng, nhất là việc điều vận xà lan sông qua gầm cầu đường hỏa xa mới được xây dựng. Lúc đầu, Lincoln chỉ nhận những vụ ông thích, về sau ông làm việc cho bất cứ ai chịu thuê mướn ông.
Ông dần được biết tiếng, và bắt đầu xuất hiện trước Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, tranh luận trong một vụ án liên quan đến một chiếc thuyền bị chìm do va chạm cầu. Năm 1849, ông được cấp bằng sáng chế về phương tiện đường thủy ứng dụng cho việc lưu thông thuyền trên dòng nước cạn. Dù ý tưởng này chưa từng được thương mại hóa, Lincoln là vị tổng thống duy nhất từng được cấp bằng sáng chế.
Lincoln xuất hiện trước Tòa án Tối cao bang Illinois trong 175 vụ án, 51 vụ ông là luật sư biện hộ duy nhất cho thân chủ, trong đó có 31 phán quyết của tòa có lợi cho ông.
Vụ án hình sự nổi bật nhất của Lincoln xảy ra năm 1858 khi ông biện hộ cho William “Duff” Armstrong, bị xét xử vì tội danh sát hại James Preston Metzker. Vụ án nổi tiếng do Lincoln sử dụng một sự kiện hiển nhiên để thách thức sự khả tín của một nhân chứng. Sau khi một nhân chứng khai trước tòa rằng đã chứng kiến vụ án diễn ra dưới ánh trăng, Lincoln rút quyển Niên lịch cho nhà nông, chỉ ra rằng vào thời điểm ấy Mặt Trăng còn thấp nên giảm thiểu đáng kể tầm nhìn. Dựa trên chứng cứ ấy, Armstrong được tha bổng. Hiếm khi Lincoln phản đối trước tòa; nhưng trong một vụ án năm 1859, khi biện hộ cho Peachy Harrison, một người anh em họ, bị cáo buộc đâm chết người, Lincoln giận dữ phản đối quyết định của thẩm phán bác bỏ một chứng cứ có lợi cho thân chủ của ông. Thay vì buộc tội Lincoln xúc phạm quan tòa, thẩm phán là một đảng viên Dân chủ đã đảo ngược phán quyết của ông, cho phép sử dụng chứng cứ và tha bổng Harrison.

Đảng Cộng hòa 1854 – 1860

"Một nhà tự chia rẽ"

Trong thập niên 1850, chế độ nô lệ được xem là hợp pháp tại các tiểu bang miền Nam trong khi ở tiểu bang miền Bắc như Illniois nó bị đặt ngoài vòng pháp luật. Lincoln chống chế độ nô lệ và việc mở rộng chế độ nô lệ đến những vùng lãnh thổ mới ở miền Tây. Vì muốn chống đối Đạo luật Kansas-Nebraska (1854) ông đã trở lại chính trường; đạo luật này được thông qua để hủy bỏ Thỏa hiệp Missouri hạn chế chế độ nô lệ. Thượng Nghị sĩ lão thành Stephen A. Douglas của Illinois đã liên kết quyền phổ thông tự quyết vào Đạo luật. Điều khoản của Douglas mà Lincoln bác bỏ là cho những người định cư quyền tự quyết cho địa phương của họ công nhận chế độ nô lệ trong những vùng lãnh thổ mới của Hoa Kỳ.
Foner (2010) phân biệt quan điểm của nhóm chủ trương bãi nô cùng nhóm Cộng hòa cấp tiến ở vùng Đông Bắc là những người xem chế độ nô lệ là tội lỗi, với các đảng viên Cộng hòa bảo thủ chống chế độ nô lệ vì họ nghĩ rằng nó làm tổn thương người da trắng và kìm hãm sự tiến bộ của đất nước. Foner tin rằng Lincoln theo đường lối trung dung, ông phản đối chế độ nô lệ vì nó vi phạm các nguyên lý của chế độ cộng hòa xác lập bởi những nhà lập quốc, nhất là với quyền bình đằng dành cho mọi người và quyền tự quyết lập nền trên các nguyên tắc dân chủ đã được công bố trong bản Tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 16 tháng 10, 1854, trong “Diễn văn Peoria”, Lincoln tuyên bố lập trường chống nô lệ dọn đường cho nỗ lực tranh cử tổng thống. Phát biểu với giọng Kentucky, ông nói Đạo luật Kansas “có vẻ vô cảm, song tôi buộc phải nghĩ rằng ẩn chứa trong nó là một sự nhiệt tình thực sự dành cho nỗ lực phổ biến chế độ nô lệ. Tôi không thể làm gì khác hơn là căm ghét nó. Tôi ghét nó bởi vì sự bất công đáng ghê tởm của chế độ nô lệ. Tôi ghét nó bởi vì nó tước đoạt ảnh hưởng công chính của hình mẫu nền cộng hòa của chúng ta đang tác động trên thế giới...”
Tôi không phải là nô lệ, nên tôi không thể là chủ nô. Đó là quan điểm của tôi về dân chủ. Bất cứ cái gì khác với điều này, đều không phải là dân chủ.
Abraham Lincoln
Cuối năm 1854, Lincoln ra tranh cử trong tư cách đảng viên đảng Whig đại diện Illinois tại Thượng viện Hoa Kỳ. Lúc ấy, viện lập pháp tiểu bang được dành quyền bầu chọn thượng nghị sĩ liên bang. Sau khi dẫn đầu trong sáu vòng bầu cử đầu tiên tại nghị viện Illinois, hậu thuẫn dành cho Lincoln suy yếu dần, ông phải kêu gọi những người ủng hộ ông bầu phiếu cho Lyman Trumbull, người đã đánh bại đối thủ Joel Aldrich Matteson. Đạo luật Kansas gây ra sự phân hóa vô phương cứu chữa trong nội bộ đảng Whig. Lôi kéo thành phần còn lại của đảng Whig cùng những người vỡ mộng từ các đảng Free Soil, Tự do, Dân chủ, ông hoạt động tích cực trong nỗ lực hình thành một chính đảng mới, Đảng Cộng hòa. Tại đại hội đảng năm 1856, Lincoln là nhân vật thứ hai trong cuộc đua giành sự đề cử của đảng cho chức vụ phó tổng thống.
Trong khoảng 1857-58, do bất đồng với Tổng thống James Buchanan, Douglas dẫn đầu một cuộc tranh đấu giành quyền kiểm soát Đảng Dân chủ. Một số đảng viên Cộng hòa cũng ủng hộ Douglas trong nỗ lực tái tranh cử vào Thượng viện năm 1858 bởi vì ông chống bản Hiến chương Lecompton xem Kansas là tiểu bang chấp nhận chế độ nô lệ. Tháng 3 năm 1857, khi ban hành phán quyết trong vụ án Dred Scott chống Sandford, Chánh án Roger B. Taney lập luận rằng bởi vì người da đen không phải là công dân, họ không được hưởng bất kỳ quyền gì qui định trong Hiến pháp. Lincoln lên tiếng cáo giác đó là âm mưu của phe Dân chủ, “Các tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập không ‘nói mọi người bình đẳng trong màu da, thể hình, trí tuệ, sự phát triển đạo đức, khả năng xã hội’, song họ ‘thực sự xem mọi người sinh ra đều bình đẳng trong những quyền không thể chuyển nhượng, trong đó có quyền sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc.’”
Sau khi được đại hội bang Đảng Cộng hòa đề cử tranh ghế tại Thượng viện năm 1858, Lincoln đọc bài diễn văn Một nhà tự chia rẽ, gợi ý từ Phúc âm Mác trong Kinh Thánh:
..."Một nhà tự chia rẽ thì nhà ấy không thể đứng vững được". Tôi tin rằng chính quyền này không thể trường tồn trong tình trạng một nửa nước nô lệ, một nửa nước tự do. Tôi không mong chờ Chính phủ liên bang bị giải thể - tôi không mong đợi ngôi nhà bị sụp đổ - nhưng tôi thực sự trông mong đất nước này sẽ không còn bị chia rẽ. Đất nước chúng ta sẽ trở thành một thực thể như thế này hoặc là hoàn toàn khác. Hoặc là những người chống chế độ nô lệ sẽ kìm hãm được tệ nạn này, và khiến công chúng tin rằng cuối cùng nó sẽ không còn tồn tại; hoặc là những người ủng hộ chế độ nô lệ sẽ phát triển và biến nó thành hợp pháp tại mọi tiểu bang, mới cũng như cũ – miền Bắc cũng như miền Nam….
Bài diễn văn đã tạo dựng được một hình ảnh sinh động liên tưởng đến hiểm họa phân hóa đất nước gây ra bởi những bất đồng về chế độ nô lệ, và là lời hiệu triệu tập hợp đảng viên Cộng hòa khắp miền Bắc.

Tranh luận giữa Lincoln và Douglas

Head shot of older, clean shaven Lincoln
Lincoln năm 1860, ảnh A. Hesler.
Năm 1858 chứng kiến bảy cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas khi diễn ra cuộc vận động tranh cử vào Thượng viện, đây là những cuộc tranh luận chính trị nổi tiếng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Lincoln cảnh báo rằng chế độ nô lệ đang đe dọa những giá trị của chủ thuyết cộng hòa, và cáo buộc Douglas là bẻ cong các giá trị của những nhà lập quốc về nguyên lý mọi người sinh ra đều bình đẳng, trong khi Douglas nhấn mạnh đến quyền tự quyết của cư dân địa phương xem họ có chấp nhận chế độ nô lệ hay không.
Các ứng cử viên Cộng hòa giành nhiều phiếu phổ thông hơn, nhưng những người Dân chủ chiếm được nhiều ghế hơn trong viện lập pháp tiểu bang. Viện Lập pháp đã tái bầu Douglas vào Thượng viện Hoa Kỳ. Dù bị thất bại cay đắng, khả năng hùng biện của Lincoln mang đến cho ông danh tiếng trên chính trường quốc gia.

Diễn văn Cooper Union

Ngày 27 tháng 2, 1860, giới lãnh đạo đảng ở New York mời Lincoln đọc diễn văn tại Liên minh Cooper, trước một cử tọa gồm những nhân vật có thế lực trong đảng Cộng hòa. Lincoln lập luận rằng những nhà lập quốc không mấy quan tâm đến quyền tự quyết phổ thông, nhưng thường xuyên tìm cách kìm chế chế độ nô lệ. Ông nhấn mạnh rằng nền tảng đạo đức của người Cộng hòa đòi hỏi họ phải chống lại chế độ nô lệ, và mọi sự “cám dỗ chấp nhận lập trường trung dung giữa lẽ phải và điều sai trái.”
Việc phô bày khả năng lãnh đạo đầy trí tuệ đã đưa Lincoln vào nhóm những chính trị gia hàng đầu của đảng và dọn đường cho ông trong nỗ lực giành sự đề cử của đảng tranh chức tổng thống. Nhà báo Noah Brooks tường thuật, “Chưa từng có ai tạo được ấn tượng mạnh mẽ như thế như lẩn đầu tiên ông hiệu triệu một cử tọa ở New York.”  Donald miêu tả bài diễn văn là “một động thái chính trị siêu đẳng cho một ứng cử viên chưa tuyên bố tranh cử, xuất hiện ở chính tiểu bang của đối thủ (William H. Seward), ngay tại một sự kiện do những người trung thành với đối thủ thứ hai (Salmon P. Chase) bảo trợ, mà không cần phải nhắc đến tên của họ trong suốt bài diễn văn.

Chiến dịch Tranh cử Tổng thống năm 1860

Đại hội tiểu bang Đảng Cộng hòa tổ chức tại Decatur trong hai ngày 9 và 10 tháng 5, 1860. Lincoln nhận được ủng hộ để ra tranh cử tổng thổng. Ngày 18 tháng 5, tại Đại hội Toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1860, tổ chức ở Chicago, ở vòng bầu phiếu thứ ba, Lincoln giành được sự đề cử, một người từng là đảng viên Dân chủ đến từ Maine, Hannibal Hamlin, được chọn đứng cùng liên danh với ông để tạo thế cân bằng. Thành quả này có được là nhờ danh tiếng của ông như là một chính trị gia có lập trường ôn hòa về vấn đề nô lệ cũng như sự ủng hộ mạnh mẽ của ông dành cho các chương trình của Đảng Whig cải thiện các vấn đề trong nước và bảo hộ hàng nội địa.
Trong suốt thập niên 1850, Lincoln không tin sẽ xảy ra cuộc nội chiến, những người ủng hộ ông cũng bác bỏ việc ông đắc cử sẽ dẫn đến khả năng chia cắt đất nước. Trong lúc ấy, Douglas được chọn làm ứng cử viên cho Đảng Dân chủ. Những đoàn đại biểu từ 11 tiểu bang ủng hộ chế độ nô lệ bỏ phòng họp vì bất đồng với quan điểm của Douglas về quyền tự quyết phổ thông, sau cùng họ chọn John C. Breckinridge làm ứng cử viên.
Lincoln là ứng cử viên duy nhất không đọc diễn văn tranh cử, nhưng ông theo dõi sát sao cuộc vận động và tin cậy vào bầu nhiệt huyết của đảng viên Cộng hòa. Họ di chuyển nhiều và tạo lập những nhóm đa số khắp miền Bắc, in ấn và phổ biến một khối lượng lớn áp-phích, tờ rơi, và viết nhiều bài xã luận trên các nhật báo. Có hàng ngàn thuyết trình viên Cộng hòa quảng bá cương lĩnh đảng và những trải nghiệm sống của Lincoln, nhấn mạnh đến tuổi thơ nghèo khó của ông. Mục tiêu của họ là trình bày sức mạnh vượt trội của quyền lao động tự do, nhờ đó mà một cậu bé quê mùa lớn lên từ nông trại nhờ nỗ lực bản thân mà trở thành một chính trị hàng đầu của xứ sở. Phương pháp quảng bá hiệu quả của Đảng Cộng hòa đã làm suy yếu các đối thủ; một cây bút của tờ Chicago Tribune viết một tiểu luận miêu tả chi tiết cuộc đời Lincoln, bán được khoảng từ 100 đến 200 ngàn ấn bản.

Tổng thống

Bầu cử năm 1860

Map of the U.S. showing Lincoln winning the North-east and West, Breckinridge winning the South, Douglas winning Missouri, and Bell winning Virginia, West Virginia, and Kentucky.
Năm 1860, phiếu bầu của cử tri đoàn phía bắc và phía tây (đỏ) đã giúp Lincoln thắng cử.
A large crowd in front of a large building with many pillars.
Năm 1861, lễ nhậm chức trước Tòa nhà Quốc hội (đang xây dựng)
Ngày 6 tháng 11, 1860, Lincoln đắc cử để trở thành tổng thống thứ mười sáu của Hoa Kỳ. Ông vượt qua Stephen A. Douglas của Đảng Dân chủ, John C. Breckinridge của Đảng Dân chủ miền Nam, và John Bell của Đảng Liên minh Hiến pháp mới được thành lập năm 1860. Lincoln là đảng viên Cộng hòa đầu tiên đảm nhận chức vụ tổng thống. Chiến thắng của ông hoàn toàn dựa trên sự ủng hộ ở miền Bắc và miền Tây. Không có phiếu bầu cho Lincoln tại mười trong số mười lăm tiểu bang miền Nam sở hữu nô lệ; ông chỉ về đầu ở 2 trong số 996 hạt trên tất cả các tiểu bang miền Nam. Lincoln nhận được 1 866 452 phiếu bầu, trong khi Douglas có 1 376 957 phiếu, Breckinridge 849 781 phiếu, và Bell được 588 789 phiếu.

Ly khai

Khi kết quả bầu cử đã rõ ràng, những người chủ trương ly khai nói rõ ý định của họ là sẽ tách khỏi Liên bang trước khi Lincoln nhậm chức vào tháng 3 tới. Ngày 20 tháng 12, 1860, tiểu bang South Carolina dẫn đầu bằng cách chấp nhận luật ly khai; ngày 1 tháng 2, 1861, Florida, Mississippi, Alabama, Georgia, Louisiana, và Texas tiếp bước. Sáu trong số các tiểu bang này thông qua một bản hiến pháp, và tuyên bố họ là một quốc gia có chủ quyền, Liên minh miền Nam. Các tiểu bang Delaware, Maryland, Virginia, North Carolina, Tennessee, Kentucky, Missouri, và Arkansas có lắng nghe nhưng không chịu ly khai. Tổng thống đương nhiệm Buchanan và Tổng thống tân cử Lincoln từ chối công nhận Liên minh, tuyên bố hành động ly khai là bất hợp pháp. Ngày 9 tháng 2, 1861, Liên minh miền Nam chọn Jefferson Davis làm Tổng thống lâm thời.
Khởi đầu là những nỗ lực hòa giải. Thỏa hiệp Crittenden mở rộng thêm những điều khoản của Thỏa hiệp Missouri năm 1820, phân chia thành các vùng tự do và vùng có nô lệ, điều này trái ngược với cương lĩnh của Đảng Cộng hòa. Bác bỏ ý tưởng ấy, Lincoln phát biểu, “Tôi thà chết còn hơn chấp nhận... bất cứ sự nhượng bộ hoặc sự thỏa hiệp nào để có thể sở hữu chính quyền này, là chính quyền chúng ta có được bởi quyền hiến định.” Tuy nhiên, Lincoln ủng hộ Tu chính Corwin được Quốc hội thông qua nhằm bảo vệ quyền sở hữu nô lệ tại những tiểu bang đã có sẵn chế độ nô lệ. Chỉ vài tuần lễ trước khi xảy ra chiến tranh, Lincoln đi xa đến mức viết một bức thư gởi tất cả thống đốc kêu gọi họ ủng hộ việc thông qua Tu chính Corwin, ông xem đó như là nỗ lực tránh nguy cơ ly khai.
Trên đường đến lễ nhậm chức bằng tàu hỏa, Lincoln diễn thuyết trước những đám đông và các viện lập pháp khi ông băng ngang qua lãnh thổ phương Bắc. Ở Baltimore, nhờ Allen Pinkerton, trưởng toán cận vệ, dùng thân mình che Tổng thống tân cử mà ông thoát chết. Ngày 23 tháng 2, 1861, Lincoln phải ngụy trang khi đến Washington, D.C., trong sự bảo vệ của một toán binh sĩ. Nhắm vào dân chúng miền Nam, trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ nhất, Lincoln tuyên bố rằng ông không có ý định hủy bỏ chế độ nô lệ ở các tiểu bang miền Nam:
Người dân ở các tiểu bang miền Nam nghĩ rằng khi Chính phủ Đảng Cộng hòa lên cầm quyền, tài sản, sự bình yên, và sự an toàn cá nhân của họ sẽ bị đe dọa. Không hề có bất kỳ lý do nào khiến họ nghĩ như thế. Thật vậy, vô số điều chứng minh ngược lại vẫn còn đó và quý vị có thể kiểm tra chúng. Các chứng cứ này có thể được tìm thấy trong hầu hết các diễn từ của người đang nói chuyện với quý vị hôm nay. Xin trích dẫn một trong những bài diễn văn ấy, “Tôi không có mục đích nào, trực tiếp hay gián tiếp, để can thiệp vào chế độ nô lệ ở những tiểu bang vốn đã có sẵn. Tôi tin rằng tôi không có quyền hợp pháp để hành động như thế, mà tôi cũng không có ý định ấy.”
Kết thúc bài diễn văn, Tổng thống kêu gọi dân chúng miền Nam: “Chúng ta không phải là kẻ thù, nhưng là bằng hữu. Không thể nào chúng ta trở thành kẻ thù của nhau... Sợi dây đàn mầu nhiệm của ký ức, trải dài từ những bãi chiến trường và mộ phần của những người yêu nước đến trái tim của mỗi người đang sống, đến chỗ ấm cúng nhất của mỗi mái ấm gia đình, khắp mọi nơi trên vùng đất bao la này, sẽ làm vang tiếng hát của ban hợp xướng Liên bang, khi dây đàn ấy được chạm đến một lần nữa, chắc chắn sẽ như thế, bởi phần tốt lành hơn trong bản chất của chúng ta.”

Chiến tranh

portrait
Thiếu tá Anderson, Chỉ huy trưởng Đồn Sumter
Chỉ huy trưởng Đồn Sumter ở tiểu bang South Carolina, Thiếu tá Robert Anderson, yêu cầu tiếp liệu từ Washington, và khi Lincoln chỉ thị đáp ứng yêu cầu ấy, phe ly khai xem đó là hành động gây chiến. Ngày 12 tháng 4, 1861, lực lượng Liên minh tấn công doanh trại Sumter, buộc họ phải đầu hàng. Chiến tranh bùng nổ. Sử gia Allen Nevins cho rằng tổng thống vừa nhậm chức đã tính toán nhầm khi tin rằng ông có thể duy trì Liên bang. William Tecumseh Sherman, viếng thăm Linconln trong tuần lễ diễn ra lễ nhậm chức, đã “thất vọng trong đau buồn” vì thấy Lincoln không thể nhận ra sự thật là “đất nước đang ngủ mê ngay trên ngọn núi lửa”, và miền Nam đang chuẩn bị cho chiến tranh. Donald đúc kết, “Chính nỗ lực của Lincoln nhiều lần cố tránh va chạm trong thời gian giữa lễ nhậm chức và trận Đồn Sumter chỉ ra rằng ông trung thành với lời hứa sẽ không phải là người khởi phát cuộc huynh đệ tương tàn. Mặt khác, ông cũng thề hứa không chịu để các đồn binh bị thất thủ. Giải pháp duy nhất cho phe Liên minh là họ phải khai hỏa trước; và họ đã hành động."
Ngày 15 tháng 4, Lincoln kêu gọi các tiểu bang gởi 75 000 binh sĩ tái chiếm các đồn binh, bảo vệ Washington, và “duy trì Liên bang”, theo ông, vẫn đang còn nguyên vẹn bất kể hành động của những bang ly khai. Lời kêu gọi này buộc các tiểu bang phải quyết định dứt khoát. Virginia tuyên bố ly khai, liền được ban thưởng để trở thành thủ đô của Liên minh. Trong vòng hai tháng, North Carolina, Tennessee, và Arkansas cũng biểu quyết ly khai. Cảm tình ly khai phát triển ở MissouriMaryland, nhưng chưa đủ mạnh để chiếm ưu thế, trong khi Kentucky cố tỏ ra trung lập.
Binh sĩ di chuyển về hướng nam đến Washington để bảo vệ thủ đô, đáp lời kêu gọi của Lincoln. Ngày 19 tháng 4, những đám đông chủ trương ly khai ở Baltimore chiếm đường sắt dẫn về thủ đô. George William Brown, Thị trưởng Baltimore, và một số chính trị gia khả nghi khác ở Maryland bị cầm tù mà không cần trát lệnh, Lincoln đình chỉ quyền công dân được xét xử trước tòa. John Merryman, thủ lĩnh nhóm ly khai ở Maryland, thỉnh cầu Chánh án Tối cao Pháp viện Roger B. Taney ra phán quyết cho rằng vụ bắt giữ vụ bắt giữ Merryman mà không xét xử là vi phạm pháp luật. Taney ra phán quyết, theo đó Merryman phải được trả tự do, nhưng Lincoln phớt lờ phán quyết. Từ đó, và trong suốt cuộc chiến, Lincoln bị chỉ trích dữ dội, thường khi bị lăng mạ, bởi những đảng viên Dân chủ chống chiến tranh.

Hành xử quyền lực trong thời chiến

Lincoln thăm mặt trận Antietam,
3 tháng 10, 1862
Sau khi Đồn Sumter bị thất thủ, Lincoln nhận ra tầm quan trọng của việc trực tiếp nắm quyền chỉ huy nhằm kiểm soát cuộc chiến và thiết lập chiến lược toàn diện để trấn áp phe nổi loạn. Đối đầu với cuộc khủng hoảng chính trị và quân sự chưa từng có, Lincoln, với tư cách là Tổng Tư lệnh Quân lực, sử dụng quyền lực chưa từng có. Ông mở rộng những quyền đặc biệt trong chiến tranh, áp đặt lệnh phong tỏa trên tất cả thương cảng của Liên minh, ra lệnh cầm tù không qua xét xử hàng ngàn người bị nghi là ủng hộ Liên minh. Quốc hội và công luận miền bắc ủng hộ ông. Hơn nữa, Lincoln phải đấu tranh để củng cố sự ủng hộ mạnh mẽ từ những tiểu bang có nô lệ ở vùng biên, và phải kiềm chế cuộc chiến không trở thành một cuộc tranh chấp quốc tế.
Nỗ lực dành cho cuộc chiến chiếm hết thời gian và tâm trí của Lincoln cũng như khiến ông trở nên tâm điểm của sự dèm pha và miệt thị. Nhóm phản chiến trong Đảng Dân chủ chỉ trích Lincoln không chịu thỏa hiệp trong vấn đề nô lệ, trong khi nhóm cấp tiến trong Đảng Cộng hòa phê phán ông hành động quá chậm trong nỗ lực bãi nô. Ngày 6 tháng 8, 1861, Lincoln ký ban hành Luật Tịch biên, cho phép tịch biên tài sản và giải phóng nô lệ của những người ủng hộ Liên minh trong cuộc chiến. Trong thực tế, dù ít khi được áp dụng, luật này đánh dấu sự ủng hộ chính trị dành cho nỗ lực bãi bỏ chế độ nô lệ.
Lincoln mượn từ Thư viện Quốc hội quyển Elements of Military Art and Science của Henry Halleck để đọc và nghiên cứu về quân sự. Lincoln nhẫn nại xem xét từng báo cáo gởi bằng điện tín từ Bộ Chiến tranh ở Washington D. C., tham vấn các thống đốc tiểu bang, một số tướng lãnh được tuyển chọn dựa trên thành tích của họ. Tháng 1 năm 1862, sau nhiều lời than phiền về sự thiếu hiệu quả cũng như những hành vi vụ lợi ở Bộ Chiến tranh, Licoln bổ nhiệm Edwin Stanton thay thế Cameron trong cương vị bộ trưởng. Stanton là một trong số nhiều đảng viên Dân chủ bỏ sang đảng Cộng hòa dưới quyền lãnh đạo của Lincoln. Mỗi tuần hai lần, Lincoln họp với nội các. Ông học hỏi từ Tướng Henry Halleck về sự cần thiết kiểm soát các điểm chiến lược, như sông Mississippi; ông cũng biết rõ tầm quan trọng của thị trấn Vicksburg, và hiểu rằng cần phải triệt tiêu sức mạnh quân sự của đối phương chứ không chỉ đơn giản là chiếm được lãnh thổ.

Tướng McClellan

Năm 1861, Lincoln bổ nhiệm Thiếu tướng George B. McClellan làm tổng tham mưu trưởng quân lực Liên bang thay thế tướng Winfield Scott về hưu. Tốt nghiệp Trường Võ bị West Point, từng lãnh đạo công ty đường sắt, và đảng viên Dân chủ từ Pensylvania, McClellan phải mất đến vài tháng để lập kế hoạch cho chiến dịch Penisula nhằm chiếm Richmond để tiến về thủ đô của Liên minh. Sự chậm trễ này đã gây bối rối cho Lincoln và Quốc hội.
Photograph of Lincoln and McClellan sitting at a table in a field tent
Lincoln và McClellan sau trận Antietam
Tháng 3 năm 1862, Lincoln bãi chức McClellan và bổ nhiệm Henry Wager Halleck thay thế. Trên biển, chiến hạm CSS Virginia gây thiệt hại ba chiến hạm của Liên bang ở Norfolk, Virginia trước khi bị chiến hạm USS Monitor đánh bại. Trong lúc tuyệt vọng, Lincoln phải mời McClellan trở lại lãnh đạo lực lượng vũ trang khu vực Washington. Hai ngày sau, lực lượng của Tướng Lee băng qua sông Potomac tiến vào Maryland tham gia trận Antietam trong tháng 9 năm 1862. Đây là một trong những trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử nước Mỹ dù chiến thắng thuộc về Liên bang, và cũng là cơ hội để Lincoln công bố bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ nhằm tránh những đồn đoán cho rằng Lincoln phải công bố bản tuyên ngôn vì đang ở trong tình thế tuyệt vọng. McClellan chống lại lệnh của tổng thống yêu cầu truy đuổi Tướng Lee, trong khi đồng đội của ông, Tướng Don Carlos Buell không chịu động binh đánh quân nổi dậy ở phía đông Tennessee. Lincoln bổ nhiệm William Rosecrant thay thế Buell; sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, ông chọn Ambrose Burnside thay thế McClellan. Hai nhà lãnh đạo quân sự mới đều có quan điểm chính trị ôn hòa và đều ủng hộ vị tổng tư lệnh quân lực.
Tháng 12, do vội vàng mở cuộc tấn công băng qua sông Rappahannock, Burnside bị Lee đánh bại trong trận Fredericksburg khiến hàng ngàn binh sĩ bất mãn và đào ngũ trong năm 1863.
Trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1862, đảng Cộng hòa mất nhiều ghế ở Viện Dân biểu do cử tri bất bình với chính phủ vì không thể kết thúc sớm cuộc chiến, và vì nạn lạm phát, tăng thuế, những đồn đại về tham ô, và nỗi e sợ thị trường lao động sẽ sụp đổ nếu giải phóng nô lệ. Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ được công bố vào tháng 9 đã giúp đảng Cộng hòa giành phiếu bầu ở các khu vực nông thôn vùng New England và phía bắc vùng Trung Tây, nhưng mất phiếu ở các đô thị và phía nam vùng Tây Bắc. Đảng Dân chủ được tiếp thêm sức mạnh và hoạt động tốt ở Pennsylvania, Ohio, Indiana, và New York. Tuy nhiên, đảng Cộng hòa vẫn duy trì thế đa số ở Quốc hội và các tiểu bang quan trọng ngoại trừ New York. Theo tờ Cincinnati, cử tri “thất vọng vì thấy cuộc chiến tiếp tục kéo dài, cũng như sự cạn kiệt tài nguyên quốc gia mà không có sự tiến bộ nào.”

Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ

A dark-haired, bearded, middle-aged man holding documents is seated among seven other men.
Lincoln trình bày trước nội các bản thảo đầu tiên của bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ. Tranh của Francis Bicknell Carpenter năm 1864
Lincoln hiểu rằng quyền lực của Chính phủ liên bang để giải phóng nô lệ đang bị hạn chế bởi Hiến pháp, mà hiến pháp, từ trước năm 1865, đã dành quyền này cho các tiểu bang. Lúc bắt đầu cuộc chiến, Lincoln cố thuyết phục các tiểu bang chấp nhận giải phóng nô lệ có bồi thường (nhưng chỉ được Washington, D. C. áp dụng) Ông bác bỏ các đề nghị giới hạn việc giải phóng nô lệ theo khu vực địa lý.
Ngày 19 tháng 6, 1862, với sự ủng hộ của Lincoln, Quốc hội thông qua luật cấm chế độ nô lệ trên toàn lãnh thổ liên bang. Tháng 7, dự luật thứ hai được thông qua, thiết lập trình tự tài phán để tiến hành giải phóng nô lệ của những chủ nô bị kết án ủng hộ phe phiến loạn. Dù không tin Quốc hội có quyền giải phóng nô lệ trong lãnh thổ các tiểu bang, Lincoln phê chuẩn dự luật để bày tỏ sự ủng hộ dành cho ngành lập pháp.
Ông cảm nhận rằng tổng thống trong cương vị tổng tư lệnh quân lực có thể sử dụng quyền hiến định hành động trong tình trạng chiến tranh để thực thi luật pháp, và ông lập kế hoạch hành động. Ngay trong tháng 6, Lincoln thảo luận với nội các nội dung bản Tuyên ngôn, trong đó ông viết, “như là một biện pháp quân sự cần thiết và thích đáng, từ ngày 1 tháng 1, 1863, mọi cá nhân bị xem là nô lệ trong các tiểu bang thuộc Liên minh, từ nay và vĩnh viễn, được tự do.”
Trong chỗ riêng tư, Lincoln khẳng quyết rằng không thể chiến thắng mà không giải phóng nô lệ. Tuy nhiên, phe Liên minh và thành phần chống chiến tranh tuyên truyền rằng giải phóng nô lệ là rào cản đối với nỗ lực thống nhất đất nước. Lincoln giải thích rằng mục tiêu chính của ông trong cương vị tổng thống là bảo vệ sự thống nhất của Liên bang:
Mục tiêu to lớn của tôi trong cuộc chiến này là cứu Liên bang, chứ không phải là cứu hay hủy diệt chế độ nô lệ. Nếu có thể cứu Liên bang mà không cần phải giải phóng nô lệ thì tôi sẽ làm như thế, còn nếu có thể cứu Liên bang mà phải giải phóng tất cả nô lệ tôi sẽ làm như thế; và nếu có thể cứu Liên bang mà chỉ cần giải phóng một số nô lệ và để mặc những nô lệ còn lại, tôi cũng sẽ làm. Những gì tôi làm liên quan đến chế độ nô lệ và chủng tộc da màu là do tôi tin rằng nó giúp chúng ta cứu Liên bang...
Công bố ngày 22 tháng 9, 1862, bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1, 1863, tuyên bố giải phóng nô lệ trong 10 tiểu bang ngoài vòng kiểm soát của Liên bang, với sự miễn trừ dành cho những khu vực trong hai tiểu bang thuộc Liên bang. Quân đội Liên bang càng tiến sâu về phía Nam càng có nhiều nô lệ được tự do cho đến hơn ba triệu nô lệ trong lãnh thổ Liên minh được giải phóng. Lincoln nhận xét về bản Tuyên ngôn, “Chưa bao giờ trong đời tôi tin quyết về những gì tôi đang làm là đúng như khi tôi ký văn kiện này.”
Sau khi ban hành Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, tuyển mộ cựu nô lệ vào quân đội là chủ trương chính thức của chính phủ. Lúc đầu còn miễn cưỡng, nhưng từ mùa xuân năm 1863, Lincoln khởi xướng chương trình “tuyển mộ đại trà binh sĩ da đen”. Trong thư gởi Andrew Johnson, thống đốc quân sự Tennessee, Lincoln viết, “Chỉ cần quang cảnh 50 000 chiến binh da đen được huấn luyện và trang bị đầy đủ cũng có thể chấm dứt cuộc nổi loạn ngay lập tức.”  Cuối năm 1863, theo hướng dẫn của Lincoln, Tướng Lorenzo Thomas tuyển mộ 20 trung đoàn da đen từ Thung lũng Mississippi. Frederick Douglass có lần nhận xét, “Khi gặp Lincoln, chưa bao giờ tôi nhớ đến xuất thân thấp kém, hoặc màu da không được ưa thích của mình.”

Diễn văn Gettysburg

Tháng 7 năm 1863, quân Liên bang thắng lớn trong trận Gettysburg. Trên chính trường, nhóm Copperheads bị thất bại trong kỳ tuyển cử mùa thu ở Ohio, nhờ đó Lincoln duy trì sự ủng hộ bên trong đảng cùng vị thế chính trị vững chãi đủ để tái thẩm định cuộc chiến. Tình thế thuận lợi cho Lincoln vào thời điểm ông đọc bài diễn văn tại nghĩa trang Gettysburg. Trái với lời tiên đoán của Lincoln, “Thế giới không quan tâm, cũng chẳng nhớ những gì chúng ta nói ở đây,” bài diễn văn đã trở nên một trong những diễn từ được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử Mỹ Quốc.
Diễn văn Gettysburg được đọc trong lễ cung hiến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia tại Gettysburg, Pennsylvania, vào chiều thứ Năm, ngày 19 tháng 11, 1863. Chỉ với 273 từ, trong bài diễn văn kéo dài ba phút này, Lincoln nhấn mạnh đất nước được sản sinh, không phải năm 1789, mà từ năm 1776, “được thai nghén trong Tự do, được cung hiến cho niềm xác tín rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng.” Ông định nghĩa rằng chiến tranh là sự hi sinh đấu tranh cho nguyên tắc tự do và bình đẳng cho mọi người. Giải phóng nô lệ là một phần của nỗ lực ấy. Ông tuyên bố rằng cái chết của các chiến sĩ dũng cảm là không vô ích, rằng chế độ nô lệ sẽ thất bại và cáo chung, tương lai của nền dân chủ sẽ được bảo đảm, và “chính quyền của dân, do dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất.” Lincoln đúc kết rằng cuộc nội chiến có một mục tiêu cao quý – sản sinh một nền tự do mới cho dân tộc.

Tướng Grant

Painting of four men conferring in a ship's cabin, entitled "The Peacemakers".
Tổng thống Lincoln (giữa) ngồi với các tướng lĩnh (từ trái) Sherman, Grant và Đô đốc Porter, tháng 3, 1865
Sự kiện Meade không thể khống chế đạo quân của Lee khi ông này triệt thoái khỏi Gettysburg cùng với sự thụ động kéo dài của Binh đoàn Potomac khiến Lincoln tin rằng cần có sự thay đổi ở vị trí tư lệnh mặt trận. Chiến thắng của Tướng Ulysses S. Grant trong trận Shiloh và trong chiến dịch Vicksburg tạo ấn tượng tốt đối với Lincoln. Vào năm 1864, Grant phát động Chiến dịch Overland đẫm máu thường được gọi là chiến tranh tiêu hao, khiến phía Liên bang thiệt hại nặng nề trong các mặt trận như WildernessCold Harbor. Dù được hưởng lợi thế của phía phòng thủ, quân đội Liên minh cũng bị tổn thất không kém.
Do không có nguồn lực dồi dào, đạo quân của Lee cứ hao mòn dần qua mỗi trận chiến, bị buộc phải đào hào phòng thủ bên ngoài Petersburg, Virginia trong vòng vây của quân đội Grant.
Linconln cho phép Grant phá hủy cơ sở hạ tầng của Liên minh như nông trang, đường sắt, và cầu cống nhằm làm suy sụp tinh thần cũng như làm suy yếu khả năng kinh tế của đối phương. Di chuyển đến Petersburg, Grant chặn ba tuyến đường sắt từ Richmond, Virginia về phía nam tạo điều kiện cho Tướng Sherman và Tướng Philip Sheridan hủy phá các nông trang và các thị trấn ở Thung lũng Shenandoah thuộc Virginia. Vào ngày 1 tháng 4 năm 1865, Grant thọc sâu vào sườn của lực lượng của Lee trong trận Five Forksbao vây Petersburg, chính phủ Liên minh phải di tản khỏi Richmond. Lincoln đến thăm thủ đô của Liên minh khi vừa bị thất thủ, người da đen được tự do chào đón ông như một vị anh hùng trong khi người da trắng tỏ vẻ lạnh lùng với tổng thống của phe chiến thắng. Vào ngày 9 tháng 4 năm 1865, tại làng Appomattox Court House, Lee đầu hàng trước Grant, kết thúc cuộc nội chiến.

Năm 1864, tái tranh cử

Là chính trị gia lão luyện, Lincoln không chỉ có khả năng đoàn kết tất cả phe phái chính trong đảng Cộng hòa mà còn thu phục những người Dân chủ như Edwin M. Stanton và Andrew Johnson. Ông dành nhiều giờ trong tuần để đàm đạo với các chính trị gia đến từ khắp đất nước, và sử dụng ảnh hưởng rộng lớn của ông để tạo sự đồng thuận giữa các phe nhóm trong đảng, xây dựng hậu thuẫn cho các chính sách của ông, và đối phó với nỗ lực của nhóm cấp tiến đang cố loại ông khỏi liên danh năm 1864.
=Map of the U.S. showing Lincoln winning all the Union states except for Kentucky, New Jersey, and Delaware. The Southern states are not included.
Chiến thắng áp đảo của Lincoln (đỏ) trong kỳ bầu cử 1864. Các tiểu bang (nâu) và lãnh thổ (nâu nhạt) miền nam không tham dự
A large crowd in front of a large building with many pillars.
Lincoln đọc diễn văn nhậm chức lần thứ hai năm 1865
Đại hội đảng năm 1864 chọn Andrew Johnson đứng cùng liên danh với Lincoln. Nhằm mở rộng liên minh chính trị hầu lôi cuốn các đảng viên Dân chủ và Cộng hòa, Lincoln tranh cử dưới danh nghĩa của Đảng Liên hiệp Quốc gia tân lập.
Khi các chiến dịch mùa xuân của Grant đi vào bế tắc trong khi tổn thất tiếp tục gia tăng, sự thiếu vắng các chiến thắng quân sự phủ bóng trên triển vọng đắc cử của Tổng thống, nhiều đảng viên Cộng hòa trên khắp nước e sợ Lincoln sẽ thất cử.
Khi cánh chủ hòa trong đảng Dân chủ gọi cuộc chiến là một “thất bại” thì ứng cử viên của đảng, Tướng George B. McClellan, ủng hộ chiến tranh và lên tiếng bác bỏ luận cứ của phe chủ hòa. Lincoln cấp thêm lính cho Grant, đồng thời vận động đảng của ông tăng cường hỗ trợ cho Grant. Trong tháng 9, Thắng lợi của Liên bang khi Sherman chiếm Atlanta và David Farragut chiếm Mobile dập tắt mọi hoài nghi;
Đảng Dân chủ bị phân hóa trầm trọng, một số nhà lãnh đạo và phần lớn quân nhân quay sang ủng hộ Lincoln. Một mặt, Đảng Liên hiệp Quốc gia đoàn kết chặt chẽ hỗ trợ cho Lincoln khi ông tập chú vào chủ đề giải phóng nô lệ; mặt khác, các chi bộ Cộng hòa cấp tiểu bang nỗ lực hạ giảm uy tín phe chủ hòa. Lincoln thắng lớn trong cuộc tuyển cử, giành được phiếu bầu của tất cả ngoại trừ ba tiểu bang.
Ngày 4 tháng 3, 1865, trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai, Lincoln bày tỏ rằng sự tổn thất lớn lao từ hai phía là do ý chỉ của Thiên Chúa. Sử gia Mark Noll xếp diễn từ này vào trong “một số ít các văn bản hàm chứa tính thiêng liêng, nhờ đó người dân Mỹ ý thức được vị trí của mình trên thế giới.”
Mơ ước khi hi vọng – khẩn thiết lúc nguyện cầu – chúng ta mong cuộc chiến đau thương này sớm chấm dứt. Song, theo ý chỉ của Thiên Chúa, nó vẫn tiếp diễn, cho đến khi tất cả của cải từng được dồn chứa bởi sự lao dịch khốn cùng của người nô lệ trong suốt 250 năm sẽ bị tiêu tan, cho đến khi mỗi một giọt máu ứa ra từ những lằn đòn sẽ bị đáp trả bằng những nhát chém, như đã được cảnh báo từ 3 000 năm trước, và cần được nhắc lại hôm nay, “sự đoán xét của Chúa là chân lý và hoàn toàn công chính”. Không ác tâm với bất cứ ai nhưng nhân ái với mọi người, và kiên định trong lẽ phải. Khi Chúa cho chúng ta nhận ra lẽ phải, hãy tranh đấu để hoàn thành sứ mạng được giao: hàn gắn vết thương của dân tộc, chăm sóc các chiến sĩ, những người vợ góa, những trẻ mồ côi – hết sức mình tạo lập một nền hòa bình vững bền và công chính, cho chúng ta, và cho mọi dân tộc.

Tái thiết

Tôi luôn luôn thấy rằng một tấm lòng thương xót kết quả nhiều hơn một nền công lý nghiêm nhặt.
Abraham Lincoln
Thời kỳ tái thiết đã khởi đầu ngay từ lúc còn chiến tranh, khi Lincoln và các phụ tá của ông tính trước phương cách giúp các tiểu bang miền nam tái hội nhập, giải phóng nô lệ, và quyết định số phận của giới lãnh đạo Liên minh. Không lâu sau khi Tướng Lee đầu hàng, khi được hỏi nên đối xử với phe thất trận như thế nào, Lincoln trả lời, “Hãy để họ thoải mái". Trong nỗ lực tiến hành chính sách hòa giải, Lincoln nhận được sự ủng hộ của nhóm ôn hòa, nhưng bị chống đối bởi nhóm cấp tiến trong đảng Cộng hòa nhự Dân biểu Thaddeus Stevens, các Thượng Nghị sĩ Charles Summer và Benjamin Wade, là những đồng minh chính trị của ông trong các vấn đề khác. Quyết tâm tìm ra giải pháp hiệp nhất dân tộc mà không thù địch với miền Nam, Lincoln thúc giục tổ chức bầu cử sớm theo các điều khoản phóng khoáng. Tuyên cáo Ân xá của tổng thống ngày 8 tháng 12, 1863 công bố không buộc tội những ai không có chức vụ trong Liên minh, chưa từng ngược đãi tù binh Liên bang, và chịu ký tuyên thệ trung thành với Liên bang.
Sự chọn lựa nhân sự của Lincoln là nhằm giữ hai nhóm ôn hòa và cấp tiến cùng làm việc với nhau. Ông bổ nhiệm Salmon P. Chase thuộc nhóm cấp tiến vào Tối cao Pháp viện thay thế Chánh án Taney.
Sau khi Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có hiệu lực, dù không được áp dụng trên tất cả tiểu bang, Lincoln gia tăng áp lực yêu cầu Quốc hội ra một bản tu chính đặt chế độ nô lệ ngoài vòng pháp luật trên toàn lãnh thổ. Lincoln tuyên bố rằng một bản tu chính như thế sẽ “giải quyết dứt điểm toàn bộ vấn đề”. Tháng 6 năm 1864, một dự luật tu chính được trình Quốc hội nhưng không được thông qua vì không đủ đa số hai phần ba. Việc thông qua dự luật trở thành một trong những chủ đề vận động trong cuộc bầu cử năm 1864. Ngày 13 tháng 1, 1865, sau một cuộc tranh luận dài ở Viện Dân biểu, dự luật được thông qua và được gửi đến các viện lập pháp tiểu bang để phê chuẩn để trở thành Tu chính án thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 12, 1865.
Khi cuộc chiến sắp kết thúc, kế hoạch tái thiết của tổng thống tiếp tục được điều chỉnh. Tin rằng chính phủ liên bang có một phần trách nhiệm đối với hàng triệu nô lệ được giải phóng, Lincoln ký ban hàng đạo luật Freedman’s Bureau thiết lập một cơ quan liên bang đáp ứng các nhu cầu của những cựu nô lệ, cung ứng đất thuê trong hạn ba năm với quyền được mua đứt cho những người vừa được tự do.

Tái định nghĩa khái niệm cộng hòa và chủ nghĩa cộng hòa

An older tired looking Lincoln with a beard.
Tấm ảnh cuối cùng của Lincoln, tháng 3, 1865.
Những sử gia đương đại như Harry Jaffa, Herman Belz, John Diggins, Vernon Burton, và Eric Foner đều nhấn mạnh đến nỗ lực tái định nghĩa các giá trị cộng hòa của Lincoln. Từ đầu thập niên 1850 khi các luận cứ chính trị đều hướng về tính thiêng liêng của Hiến pháp, Lincoln đã tập chú vào bản Tuyên ngôn Độc lập, xem văn kiện này là nền tảng của các giá trị chính trị của nước Mỹ mà ông gọi là “thành lũy” của chủ nghĩa cộng hòa.
Sự kiện bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến quyền tự do và sự bình đẳng dành cho mọi người, trái ngược với Hiến pháp dung chịu chế độ nô lệ, đã làm thay đổi chiều hướng tranh luận. Luận điểm của Lincoln đã gây dựng được ảnh hưởng vì ông làm sáng tỏ nền tảng đạo đức của chủ nghĩa cộng hòa, thay vì chỉ biết tuân thủ hiến pháp.

Các đạo luật

Nội các Lincoln
Chức vụ Tên Nhiệm kỳ

Tổng thống Abraham Lincoln 1861–1865
Phó Tổng thống Hannibal Hamlin 1861–1865

Andrew Johnson 1865

Bộ trưởng Ngoại giao William H. Seward 1861–1865
Bộ trưởng Chiến tranh Simon Cameron 1861–1862

Edwin M. Stanton 1862–1865
Bộ trưởng Ngân khố Salmon P. Chase 1861–1864

William P. Fessenden 1864–1865

Hugh McCulloch 1865
Bộ trưởng Tư pháp Edward Bates 1861–1864

James Speed 1864–1865
Bộ trưởng Bưu điện Montgomery Blair 1861–1864

William Dennison, Jr. 1864–1865
Bộ trưởng Hải quân Gideon Welles 1861–1865
Bộ trưởng Nội vụ Caleb B. Smith 1861–1862

John P. Usher 1863–1865
Lincoln trung thành với chủ thuyết của đảng Whig về chức vụ tổng thống, theo đó Quốc hội có trách nhiệm làm luật và nhánh hành pháp thực thi luật pháp. Chỉ có bốn dự luật đã được Quốc hội thông qua đã bị Lincoln phủ quyết. Năm 1862, ông ký ban hành đạo luật Homestead bán cho người dân với giá rất thấp hàng triệu héc-ta đất chính phủ đang sở hữu. Đạo luật Morrill Land-Grant Colleges ký năm 1862 cung ứng học bổng chính phủ cho các trường đại học nông nghiệp tại mỗi tiểu bang. Đạo luật Pacific Raiway năm 1862 và 1864 dành sự hỗ trợ của liên bang cho công trình xây dựng đường sắt xuyên lục địa hoàn thành năm 1869.
Lincoln cũng mở rộng ảnh hưởng kinh tế của chính phủ liên bang sang các lãnh vực khác. Đạo luật National Banking cho phép thành lập hệ thống ngân hàng quốc gia cung ứng mạng lưới tài chính dồi dào trên toàn quốc, cũng như thiết lập nền tiền tệ quốc gia. Năm 1862, Quốc hội đề xuất và tổng thống phê chuẩn việc thành lập Bộ Nông nghiệp. Năm 1862, Lincoln cử Tướng John Pope bình định cuộc nổi dậy của bộ tộc Sioux. Tổng thống cũng cho lập kế hoạch cải cách chính sách liên bang đối với người da đỏ.
Lincoln là nhân tố chính trong việc công nhận Lễ Tạ ơn là quốc lễ của Hoa Kỳ. Trước nhiệm kỳ tổng thống của Lincoln, Lễ Tạ ơn là ngày lễ phổ biến ở vùng New England từ thế kỷ 17. Năm 1863, Lincoln tuyên bố thứ Năm lần thứ tư của tháng Mười một là ngày cử hành Lễ Tạ ơn.

Tối cao Pháp viện

Lincoln bổ nhiệm năm thẩm phán cho tòa án tối cao. Noah Haynes Swayne, được đề cử ngày 21 tháng 1, 1862 và bổ nhiệm ngày 24 tháng 1, 1862; ông là luật sư, chống chế độ nô lệ và ủng hộ Liên bang. Samuel Freeman Miller, được đề cử và bổ nhiệm ngày 16 tháng 7, 1862; ông ủng hộ Lincoln trong cuộc bầu cử năm 1860, và là người chủ trương bãi nô. David Davis, được đề cử ngày 1 tháng 12, 1862 và bổ nhiệm ngày 8 tháng 12, 1862; ông là người điều hành chiến dịch tranh cử năm 1860 của Lincoln, từng là thẩm phán tòa phúc thẩm liên bang ở Illinois. Stephen Johnson Field, được đề cử ngày 6 tháng 3, 1863 và bổ nhiệm ngày 10 tháng 3, 1863; từng là thẩm phán tòa tối cao bang California. Cuối cùng là Bộ trưởng Ngân khố của Lincoln, Salmon P. Chase, được đề cử và bổ nhiệm trong ngày 6 tháng 12, 1862 vào chức vụ Chánh án Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Lincoln tin Chase là một thẩm phán có khả năng, sẽ hỗ trợ công cuộc tái thiết trong lĩnh vực tư pháp, và sự bổ nhiệm này sẽ liên kết các nhóm trong đảng Cộng hòa.

Các Tiểu bang gia nhập Liên bang

Ngày 20 tháng 6, 1863, tiểu bang West Virginia xin gia nhập Liên bang, bao gồm những hạt cực tây bắc từng tách khỏi tiểu bang sau khi bang này rút lui khỏi Liên bang. Nevada, tiểu bang thứ ba thuộc vùng viễn tây được gia nhập ngày 31 tháng 10, 1864.

Ám sát

A drawing of Lincoln being shot by Booth while sitting in a theater booth.
Trong lô dành riêng cho tổng thống ở Nhà hát Ford, (từ trái) Henry Rathbone, Clara Harris, Mary Todd Lincoln, Abraham Lincoln, và John Wilkes Booth.
Một diễn viên nổi tiếng, John Wilkes Booth, là gián điệp của Liên minh đến từ Maryland; dù chưa bao giờ gia nhập quân đội Liên minh, Booth có mối quan hệ với mật vụ Liên minh. Năm 1864, Booth lên kế hoạch bắt cóc Lincoln để đòi thả tù binh Liên minh. Nhưng sau khi dự buổi diễn thuyết của Lincoln vào ngày 11 tháng 4, 1865, Booth giận dữ thay đổi kế hoạch và quyết định ám sát tổng thống. Dò biết Tổng thống, Đệ nhất Phu nhân, và Tướng Ulysses S. Grant, nhân vì ăn mừng việc chấm dứt chiến tranh, sẽ đến Nhà hát Ford, Booth cùng đồng bọn lập kế hoạch ám sát Phó Tổng thống Andrew Johnson, Bộ trưởng Ngoại giao William H. Seward, và Tướng Grant. Ngày 14 tháng 4, Lincoln đến xem vở kịch “Our American Cousin” mà không có cận vệ chính Ward Hill Lamon đi cùng. Đến phút chót, thay vì đi xem kịch, Grant cùng vợ đến Philadelphia.
Trong lúc nghỉ giải lao, John Parker, cận vệ của Lincoln, rời nhà hát cùng người đánh xe đến quán rượu Star kế cận. Lợi dụng cơ hội Tổng thống ngồi trong lô danh dự mà không có cận vệ bên cạnh, khoảng 10 giờ tối, Booth lẻn vô và bắn vào sau đầu của Tổng thống từ cự ly gần. Thiếu tá Henry Rathbone chụp bắt Booth nhưng hung thủ đâm trúng Rathbone và trốn thoát.
Sau mười ngày đào tẩu, người ta tìm thấy Booth tại một nông trang ở Virginia, khoảng 30 dặm (48 km) phía nam Washington D. C. Ngày 26 tháng 4, sau một cuộc đụng độ ngắn, Booth bị binh sĩ Liên bang giết chết.
Sau cơn hôn mê kéo dài chín giờ, Lincoln từ trần lúc 7g 22 sáng ngày 15 tháng 4. Mục sư Phineas Densmore Gurley thuộc Giáo hội Trưởng Lão được mời cầu nguyện sau khi Bộ trưởng Chiến tranh Stanton chào tiễn biệt và nói, “Nay ông thuộc về lịch sử.”
Thi thể của Lincoln được phủ quốc kỳ và được các sĩ quan Liên bang hộ tống dưới cơn mưa về Tòa Bạch Ốc trong tiếng chuông nhà thờ của thành phố. Phó Tổng thống Johnson tuyên thệ nhậm chức lúc 10:00 sáng ngay trong ngày Tổng thống bị ám sát. Suốt ba tuần lễ, đoàn tàu hỏa dành cho tang lễ Tổng thống mang thi thể ông đến các thành phố trên khắp miền Bắc đến các lễ tưởng niệm có hàng trăm ngàn người tham dự, trong khi nhiều người khác tụ tập dọc theo lộ trình giăng biểu ngữ, đốt lửa, và hát thánh ca.

Niềm tin tôn giáo

Lincoln, tranh George Healy, năm 1869
Giới học giả viết nhiều về các chủ đề liên quan đến đức tin và triết lý sống của Lincoln. Ông thường sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ tôn giáo để trình bày đức tin cá nhân hoặc để thuyết phục cử tọa, phần lớn trong số họ là tín hữu Kháng Cách theo trào lưu Tin Lành. Dù chưa bao giờ chính thức gia nhập giáo hội nào, Lincoln rất gần gũi với Kinh Thánh, thường xuyên trích dẫn và tán dương Kinh Thánh.
Trong thập niên 1840, Lincoln ngả theo ‘’Học thuyết Tất yếu’’ tin rằng tâm trí con người ở dưới sự kiểm soát của một quyền lực cao hơn. Đến thập niên 1850, Lincoln thừa nhận “ơn thần hựu” theo cách chung, nhưng hiếm khi sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh tôn giáo của người Tin Lành. Ông dành sự tôn trọng cho chủ nghĩa cộng hòa của những nhà lập quốc gần như là niềm tin tôn giáo. Song, khi đau khổ vì cái chết của con trai ông, Edward, Lincoln thường xuyên nhìn nhận rằng ông cần phải trông cậy Thiên Chúa. Khi một con trai khác của Lincoln, Willie, lìa đời trong tháng 2, 1862, ông càng hướng về tôn giáo để tìm câu giải đáp và sự an ủi.

Vị trí trong lịch sử

Theo bảng Xếp hạng Tổng thống trong Lịch sử Hoa Kỳ được thực hiện từ thập niên 1940, Lincoln luôn có tên trong ba người đứng đầu, thường khi là nhân vật số 1. Bản thân ông luôn coi các vị Quốc phụ của Hoa Kỳ - George Washington, Thomas Jefferson, Alexander HamiltonJames Madison - là những tấm gương ngời sáng để noi theo. Ông cho rằng các bậc tiền bối ấy là những con người sắt đá.
Ông được khen ngợi như một chính trị gia vĩ đại, ngang tầm với Tổng thống Washington và Thủ tướng Winston Churchill của nước Anh trong thế kỷ 20. Trong phần lớn các cuộc khảo sát bắt đầu thực hiện từ năm 1948, Lincoln được xếp vào hàng đầu: Schlesinger 1948, Schlesinger 1962, 1982 Murray Blessing Survey, Chicago Tribune 1982 poll, Schlesinger 1996, CSPAN 1996, Ridings-McIver 1996, Time 2008, and CSPAN 2009. Đại thể, những tổng thống chiếm ba vị trí đầu là 1) Lincoln; 2) George Washington; và 3) Franklin D. Roosevelt, mặc dù đôi khi cũng có sự đảo ngược vị trí với nhau giữa Lincoln và Washington, Washington và Roosevelt.
Tượng Abraham Lincoln, bên trong Khu Tưởng niệm Lincoln.
Lincoln sở hữu tính cách điềm tĩnh cần thiết cho một chính khách, nhất là trong tình thế phức tạp. Suốt trong năm 1862, không có ngày nào trôi qua mà không có một bài diễn thuyết kêu gọi tổng thống chấp nhận những quyết sách táo bạo nhằm chống lại nạn nô lệ và Tướng McClellan, nhưng Lincoln vẫn bất động. Ông cần phải cân nhắc cho từng bước đi để thuyết phục chính mình và giới cử tri ôn hòa ở phía Bắc rằng ông đã thử hết mọi phương cách.
Ngay cả sau khi cách chức Tướng McClellan và giải phóng nô lệ, ông vẫn kiên nhẫn chờ đợi đến thời điểm thích hợp. Sự mòn mỏi chờ đợi một chiến thắng để có thể công bố bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có lẽ là giai đoạn nhạy cảm nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của Lincoln. Thời kỳ chuyển tiếp là cần thiết bởi vì Lincoln biết rằng trong những lúc đất nước đang bị phân hóa nghiêm trọng thì lập trường trung dung là con đường dẫn đến thành công cho nhà lãnh đạo.
Một ngày mùa hè năm 1862, một nhóm các nhân vật tiếng tăm chủ trương bãi nô từ vùng New England đến gặp Lincoln nhằm yêu cầu ông phải chống nạn nô lệ triệt để hơn. Sau một lúc im lặng, Lincoln hỏi xem họ còn nhớ sự kiện Blondin đi dây ngang qua thác Niagara không. Dĩ nhiên là họ nhớ. Một người trong số họ thuật lại lời của Tổng thống, “Giả sử toàn bộ giá trị vật chất trên đất nước vĩ đại này của chúng ta, từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương – sự giàu có, thịnh vượng, những thành quả của nó trong hiện tại và cả niềm hi vọng cho tương lai – được tập trung lại và giao cho Blondin đem chúng băng qua thác trong chuyến đi kinh khủng này;" và giả sử “bạn đang đứng trên bờ thác khi Blondin đi trên dây, khi anh đang cẩn thận dò dẫm từng bước chân và đang cố giữ thăng bằng với thanh ngang trên tay bằng kỹ năng tinh tế của mình để băng qua thác nước khổng lồ đang gầm rú bên dưới. Bạn sẽ gào thét, ‘Blondin, qua phải một bước!’ ‘Blondin, qua trái một bước!’ hay là bạn lặng lẽ đứng yên, nín thở và cầu nguyện xin Đấng Toàn Năng hướng dẫn và giúp anh ấy vượt qua cơn thử thách?”
Chính là bởi vì vụ ám sát mà Lincoln được xem là vị anh hùng xả thân vì dân tộc. Trong mắt của những người chủ trương bãi nô, ông là nhà tranh đấu cho quyền tự do của con người. Đảng viên Cộng hòa liên kết tên tuổi ông với đảng của họ. Ở miền Nam, nhiều người, tuy không phải tất cả, xem ông là một tài năng kiệt xuất. Kể từ sau khi Lincoln qua đời, đã có không ít tác giả viết sách về ông. Cũng có nhiều mâu thuẫn giữa quan điểm của những cuốn sách viết về Lincoln.
Exterior photograph of museum
Thư viện và Bảo tàng Tổng thống Abraham Lincoln tại Springfield, Illinois
Theo Schwartz, cuối thế kỷ 19 thanh danh của Lincoln tiến triển chậm cho mãi đến Giai đoạn Phát triển (1900 – thập niên 1920) ông mới được xem như là một trong những vị anh hùng được tôn kính nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, ngay cả trong vòng người dân miền Nam. Đỉnh điểm của sự trọng vọng này là vào năm 1922 khi Đài Tưởng niệm Lincoln được cung hiến tại Washington. Trong thời kỳ New Deal, những người cấp tiến ca tụng Lincoln không chỉ như là người tự lập thân hoặc vị tổng thống vĩ đại trong chiến tranh, mà còn là nhà lãnh đạo quan tâm đến thường dân là những người có nhiều cống hiến cho chính nghĩa của cuộc chiến. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hình ảnh của Lincoln được tôn cao như là biểu tượng của tự do, là người mang hi vọng đến cho những người bị áp bức. Theo dòng lịch sử, ông đã trở thành một nhân vật tiêu biểu hàng đầu trong lịch sử nước Mỹ dân chủ, tự do.
Trong thập niên 1970, Lincoln được những người có chủ trương bảo thủ trong chính trị dành cho sự ngưỡng mộ đặc biệt do lập trường dân tộc, chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp, tập chú vào nỗ lực chống nô lệ, và nhiệt tâm của ông đối với các nguyên lý của những nhà lập quốc. James G. Randall nhấn mạnh đến tính bao dung và thái độ ôn hòa của Lincoln trong “sự chú tâm của ông đối với sự tăng trưởng trong trật tự, sự nghi ngờ đối với những hành vi khích động nguy hiểm, và sự miễn cưỡng của ông đối với các kế hoạch cải cách bất khả thi.” Randall đúc kết, “ông là người bảo thủ khi ông triệt để bác bỏ cái gọi là “thuyết cấp tiến” chủ trương bóc lột miền Nam, căm ghét chủ nô, thèm khát báo thù, âm mưu phe phái, và những đòi hỏi hẹp hòi muốn các định chế của miền Nam phải được thay đổi cấp tốc bởi tay người bên ngoài.”
Đến cuối thập niên 1960, những người cấp tiến như sử gia Lerone Bennett, xem xét lại sự việc, đặc biệt là quan điểm của Lincoln liên quan đến các vấn đề chủng tộc. Năm 1968, Bennett gây chấn động dư luận khi gọi Lincoln là người chủ trương người da trắng là chủng tộc thượng đẳng. Ông nhận xét rằng Lincoln thích gièm pha chủng tộc, chế giễu người da đen, chống đối sự công bằng xã hội, và đề nghị gởi nô lệ được tự do sang một đất nước khác. Những người ủng hộ Lincoln như các tác gia Dirk và Cashin, phản bác rằng Lincoln còn tốt hơn hầu hết các chính trị gia thời ấy; rằng ông là người đạo đức có viễn kiến đã làm hết sức mình để thăng tiến chủ nghĩa bãi nô. Tác giả Thomas Krannawitter trong cuốn Vindicating Lincoln: Defending the Politics of Our Greatest President, cũng lên án các lập trường phê phán Lincoln và coi ông là một chính khách Hoa Kỳ mẫu mực, nêu lên mọi sức mạnh của nền dân chủ. Ông là hiện thân cho mọi phẩm chất cao đẹp của nền Cộng hòa. Cũng giống như George Washington, ông quên mình mà chỉ lo cho dân cho nước, và biểu lộ rõ nét vĩ đại của người chính khách Hoa Kỳ thông qua tinh thần bình đẳng.

Tưởng niệm

An aerial photo a large white building with big pillars.
Khu Tưởng niệm Lincoln tại Washington, D.C.
Nhiều thị trấn, thành phố, và quận hạt mang tên Lincoln, trong đó có thủ phủ bang Nebraska. Tượng đài đầu tiên được dựng lên để tưởng niệm Lincoln đặt trước Tòa Thị chính Hạt Columbia năm 1868, ba năm sau khi ông bị ám sát. Tên và hình ảnh của Lincoln xuất hiện tại nhiều địa điểm khác nhau như Đài Tưởng niệm Lincoln ở Washington D. C. và tượng điêu khắc Lincoln trên Núi Rushmore.
Người ta cũng thiết lập những công viên lịch sử tại các địa điểm liên quan đến những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của Lincoln như: nơi ông chào đời (Abraham Licoln Birthplace National Historical Park) ở Hodgenville, Kentucky, chỗ ông trải qua thời niên thiếu (Lincoln Boyhood National Memorial) tại Lincoln City, Indiana, nơi ông trưởng thành (Lincoln’s New Salem) ở Illinois, và nơi ông khởi nghiệp (Lincoln Home National Historic Site) tại Springfield, Illinois.
Hình ảnh Lincoln trên Núi Rushmore.
Nhà hát Ford và tòa nhà Petersen (nơi Lincoln từ trần) được giữ lại làm viện bảo tàng, cũng như Thư viện và Bảo tàng Tổng thống Abraham Lincoln ở Springfield. Phần mộ Lincoln trong Nghĩa trang Oak Ridge ở Springfield, Illinois, là nơi chôn cất Lincoln, vợ ông Mary cùng ba trong số bốn con trai của ông, Edward, William, và Thomas.
Ngay trong năm Lincoln từ trần, hình ảnh của ông được gởi đi khắp thế giới qua những con tem bưu điện. Hình ảnh của ông cũng xuất hiện trên tờ năm đô-la, và đồng xu Lincoln, đây là đồng tiền đầu tiên của Hoa Kỳ có đúc hình một nhân vật
Ngày 28 tháng 7, 1920 một pho tượng Lincoln được đặt tại một địa điểm gần Điện Westiminster, Luân Đôn. Mặc dù ngày sinh của Lincoln, 12 tháng 2, chưa bao giờ được công nhận là quốc lễ, nó từng được cử hành tại 30 tiểu bang. Từ năm 1971 khi Ngày Tổng thống trở thành quốc lễ, trong đó có ngày sinh của Lincoln kết hợp với ngày sinh Washington, được cử hành thay thế lễ kỷ niệm ngày sinh của ông.
    Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 16:11, ngày 8 tháng 11 năm 2013.

    Nội chiến Hoa Kỳ

    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    Nội chiến Hoa Kỳ
    Một phần của Lịch sử Hoa Kỳ
    20-ME.jpg
    Quân đội Liên bang xung phong
    .
    Thời gian 12 tháng 4, 18619 tháng 4, 1865 (Phát súng cuối cùng tháng 6, 1865)
    Địa điểm Miền Nam, miền Đông Bắc, miền Tây Hoa Kỳ và Đại Tây Dương
    Nguyên nhân bùng nổ Quân miền Nam tấn công đồn SumterCharleston, Nam Carolina
    Kết quả Liên bang miền Bắc chiến thắng
    Tham chiến
    US flag 34 stars.svg
    Liên bang miền Bắc
    ("Union")
    Delaware
    Kickapoo
    Seneca
    Osage
    Shawnee
    Lumbee
    Iroquois
    Powhatan
    Pequot
    Ojibwa
    Huron
    Odawa
    Potawatomi
    Catawba
    Pamunkey
    Confederate National Flag since Mar 4 1865.svg
    Liên minh miền Nam
    ("Confederacy")
    Cherokee
    Chickasaw
    Chocktaw
    Seminole
    Catawba
    Creek
    Chỉ huy
    US flag 34 stars.svgAbraham Lincoln
    US flag 34 stars.svgWinfield Scott
    US flag 34 stars.svgGeorge B. McClellan
    US flag 34 stars.svgHenry Wager Halleck
    US flag 34 stars.svgUlysses S. Grant
    US flag 34 stars.svgGideon Welles
    ...
    CSA FLAG 4.3.1861-21.5.1861.svgJefferson Davis
    CSA FLAG 4.3.1861-21.5.1861.svgP.G.T. Beauregard
    CSA FLAG 4.3.1861-21.5.1861.svgJoseph E. Johnston
    CSA FLAG 4.3.1861-21.5.1861.svgRobert E. Lee
    CSA FLAG 4.3.1861-21.5.1861.svgStephen Mallory
    ...


    Lực lượng
    2.100.000 1.064.000
    Tổn thất
    140.414 tử trận
    tổng cộng ~360.000 chết
    275.200 bị thương
    72.524 tử trận
    tổng cộng ~260.000 chết
    137.000+ bị thương
    .
    Nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865), hay còn gọi là cuộc Chiến tranh Giữa các Tiểu bang (War Between the States), là một cuộc tranh chấp quân sự diễn ra tại Hoa Kỳ, giữa Chính phủ Liên bang và các tiểu bang phía nam vào giữa thế kỉ 19. Sau khi Abraham Lincoln đắc cử trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 1860, 11 tiểu bang theo chế độ nô lệ ở miền Nam Hoa Kỳ đã tuyên bố ly khai khỏi Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ và lập ra Liên minh miền Nam (Confederate States of America); 25 tiểu bang còn lại ủng hộ chính phủ Liên bang miền Bắc (Union). Cuộc phân tranh Nam-Bắc – chủ yếu diễn ra tại các tiểu bang phía Nam – kéo dài 4 năm và chấm dứt khi quân miền Nam đầu hàng năm 1865 và chế độ nô lệ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Trong những vấn đề là nguyên nhân gây nên cuộc chiến, một số đã được giải quyết trong Thời kỳ Tái thiết sau đó, và một số khác vẫn còn tiếp tục tồn tại.
    Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1860, Đảng Cộng hòa do Abraham Lincoln lãnh đạo đã tiến hành vận động tranh cử theo đường lối chống lại việc mở rộng chế độ nô lệ vượt ra ngoài các tiểu bang mà nó đã tồn tại. Những người Cộng hòa ủng hộ mạnh mẽ chủ nghĩa dân tộc, và trong cương lĩnh năm 1860 của mình họ lên án kịch liệt những sự đe dọa gây chia rẽ như là hành động phản quốc. Sau chiến thắng của phe Cộng hòa, nhưng trước khi chính quyền mới lên nhậm chức vào ngày 4 tháng 3 năm 1861, 7 tiểu bang bông vải đã tuyên bố ly khai và cùng nhau thành lập chính phủ riêng do Jefferson Davis làm tổng thống, tạo nên Liên minh miền Nam Hoa Kỳ. Cả chính quyền sắp mãn nhiệm của Tổng thống James Buchanan lẫn chính quyền sắp lên nhận chức đều không công nhận tính hợp pháp của việc ly khai và coi đó là hành động nổi loạn. Tám tiểu bang nô lệ khác đã bác bỏ lời kêu gọi ly khai vào thời điểm đó. Không một quốc gia nào trên thế giới tuyên bố công nhận khối Liên minh này.
    Chiến sự bắt đầu vào ngày 12 tháng 4 năm 1861, khi các lực lượng của miền Nam tấn công một căn cứ quân sự của Liên bang tại Đồn Sumter thuộc Nam Carolina. Lincoln phản ứng lại bằng cách kêu gọi một đội quân tình nguyện từ mỗi tiểu bang để chiếm lại các tài sản liên bang, và dẫn đến sự ly khai của thêm bốn tiểu bang nô lệ nữa. Cả hai bên đều tăng cường xây dựng quân đội. Trong năm đầu của cuộc chiến, phe miền Bắc chiếm quyền kiểm soát các tiểu bang biên giới và tiến hành một cuộc phong tỏa bằng hải quân. Chiến cuộc ở miền Đông bất phân thắng bại trong các năm 1861-1862, phe miền Nam đánh lui những nỗ lực của quân miền Bắc nhằm đánh chiếm thủ đô Richmond, Virginia, đáng chú ý nhất là trong chiến dịch Bán đảo. Vào tháng 9 năm 1862, chiến dịch Maryland của quân miền Nam kết thúc với thất bại trong trận Antietam, trận đánh này đã khiến người Anh từ bỏ ý định can thiệp vào cuộc chiến. Sau trận chiến này, Abraham Lincoln đọc bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, xác định việc kết thúc chế độ nô lệ là một mục tiêu chiến tranh. Đến năm 1863, chiến dịch tiến công lên miền bắc của Đại tướng miền Nam Robert E. Lee kết thúc trong thất bại tại trận Gettysburg.
    Tại Mặt trận miền Tây, quân miền Bắc thu được nhiều thắng lợi liên tiếp, và đến tháng 7 năm 1862 đã giành được quyền kiểm soát sông Mississippi sau cuộc vây hãm Vicksburg, chia cắt Liên minh miền Nam ra làm hai và tiêu diệt phần lớn quân đội miền Nam trên mặt trận này. Nhờ vào những thành công tại miền Tây của mình, Ulysses S. Grant đã được nhận chức tổng chỉ huy quân đội tại miền đông vào năm 1864, ông bố trí các đội quân của William Tecumseh Sherman, Philip Sheridan và nhiều lực lượng khác để tấn công miền Nam trên tất cả các hướng, nhằm gia tăng lợi thế của phe miền Bắc về mặt nhân lực. Grant tái cơ cấu lại quân đội miền Bắc, và đặt các tướng khác làm chỉ huy các sư đoàn trong đội quân hỗ trợ cho cuộc tiến công của ông vào Virginia. Đến năm 1864, quân miền Bắc với nhiều lợi thế về địa hình, quân lực, kỹ nghệ, tài chính, kế hoạch chính trị và tiếp vận bắt đầu chiếm ưu thế đối với quân miền Nam. Grant đánh nhau nhiều trận chiến tiêu hao khốc liệt tại vùng Virginia với tướng Lee trong Chiến dịch Overland vào mùa hè năm 1864 nhằm chiếm Richmond, tuy nhiên khi vấp phải sự kháng cự quyết liệt của đối phương, ông liền thay đổi kế hoạch của mình và dẫn đến cuộc vây hãm Petersburg mà đã gần xóa sổ phần còn lại của đội quân của tướng Lee. Trong khi đó, Sherman chiếm được Atlanta, Georgiatiến quân ra phía biển, phá hủy toàn bộ cơ sở vật chất hạ tầng của Liên minh miền Nam trên đường đi. Khi cố gắng bảo vệ Petersburg thất bại, quân đội miền Nam rút lui nhưng đã bị truy kích và đánh bại, cuối cùng Lee phải đầu hàng Grant tại làng Appomattox Court House thuộc Virginia vào ngày 9 tháng 4 năm 1865 - đây là thời điểm chấm dứt cuộc chiến tương tàn giữa hai miền Nam Bắc Hoa Kỳ.
    Nội chiến Hoa Kỳ là một trong những cuộc chiến tranh công nghiệp thực sự đầu tiên. Đường sắt, điện báo, tàu hơi nước và vũ khí sản xuất hàng loạt đã được sử dụng một cách rộng rãi. Các học thuyết chiến tranh toàn diện được Sherman phát triển ở Georgia, và chiến tranh chiến hào quanh Petersburg là điềm báo trước cho cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất ở châu Âu. Cho đến này đây vẫn là cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, dẫn đến cái chết của khoảng 750.000 binh sĩ và một số lượng thương vong dân sự không xác định. Sử gia John Huddleston ước tính số người chết chiếm 10% toàn bộ số nam giới miền Bắc từ 20 đến 45 tuổi, và 30% đàn ông da trắng miền Nam trong độ tuổi từ 18-40.
    Chiến thắng của miền Bắc đặt dấu chấm hết cho Liên minh miền Nam cũng như chế độ nô lệ Hoa Kỳ, và làm tăng cường vai trò của chính phủ liên bang. Các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế và chủng tộc của cuộc Nội chiến đã có vai trò quyết định trong việc định hình Thời kỳ Tái thiết, kéo dài đến năm 1877.

    Diễn biến

    1860

    6 tháng 11 - Abraham Lincoln, đảng viên Cộng hòa đầu tiên đắc cử tổng thống với 180 phiếu thuận trong tổng số 303 phiếu. Lincoln tuyên bố chính phủ không thể chấp nhận một xã hội có nô lệ.
    20 tháng 12 - Tiểu bang Nam Carolina phản đối chính sách của Lincoln và tuyên bố ly khai. Hai tháng sau, các tiểu bang Mississippi, Florida, Alabama, Georgia, LouisianaTexas cũng ly khai.

    1861

    9 tháng 2 - Các tiểu bang miền Nam thành lập Liên minh miền Nam và bầu lãnh tụ là Jefferson Davis - cựu sĩ quan quân đội Hoa Kỳ, từng học trừ bị tại Trường Võ bị West Point.
    4 tháng 3 - Abraham Lincoln chính thức tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ.
    12 tháng 4 - Lúc 4:30 sáng, quân miền Nam dưới chỉ huy của Tướng Pierre Beauregard bắn đại bác vào đồn SumterCharleston, Nam Carolina. Nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ.
    15 tháng 4 - Lincoln ra tuyên cáo tuyển mộ 75.000 binh sĩ và họp quốc hội đặc kỳ cho ngày quốc khánh 4 tháng 7.
    Tướng Robert E. Lee, con trai của một anh hùng cách mạng Mỹ, cựu sĩ quan với 25 năm kinh nghiệm chiến trường và cựu giám đốc Trường Võ bị West Point được đề cử thống lĩnh quân miền Bắc, nhưng ông từ chối.
    17 tháng 4 - Virginia ly khai, tiếp theo là Arkansas, Tennessee, và Bắc Carolina - tạo khối 11 tiểu bang, gồm 9 triệu dân, trong đó có 4 triệu nô lệ. Chính phủ miền Bắc Hoa Kỳ chỉ còn 21 tiểu bang và 20 triệu dân.
    19 tháng 4 - Lincoln ra lệnh phong tỏa các hải cảng phía nam. Do đó, miền Nam bị thiếu nguyên liệu trong khi miền Bắc tiếp tục phát triển kỹ nghệ.
    20 tháng 4 - Tướng Lee sau khi từ chối không giúp miền Bắc, từ chức và trở về quê quán tại Richmond, Virginia và nhận chỉ huy quân đội miền Nam.

    Quân phục lính Liên minh miền Nam

    Quân phục lính Liên bang miền Bắc

    Quân miền nam bắn phá đồn Sumter
    4 tháng 7 - Lincoln đọc diễn văn tại quốc hội. Quốc hội đồng ý kêu gọi 50.000 binh sĩ cho cuộc chiến với miền Nam.
    21 tháng 7 - Tướng miền Bắc Irvin McDowell bị đánh bại tại trận Bull Run thứ nhất, cách Washington 25 dặm phía tâynam. Trong trận này, một lữ đoàn quân miền Nam dưới chỉ huy của đại tá Thomas J. Jackson đã kiên cường ngăn chặn nhiều đợt tấn công của quân miền Bắc, nhờ đó ông nhận được biệt hiệu nổi tiếng "Stonewall" (bức tường đá).
    27 tháng 7 - George B. McClellan được thăng chức thay thế McDowell. Sau đó McClellan được cử làm chỉ huy tham mưu trưởng.
    10 tháng 8 - Quân miền Nam thắng trận Wilson's Creek, trận đánh lớn nhất tại tiểu bang Missouri trong năm 1861 và giành quyền kiểm soát phần tây nam của tiểu bang này.
    8 tháng 11 - Khủng hoảng bang giao quốc tế với Anh Quốc. Hai tùy viên miền Nam trên chuyến tàu sang Anh bị hải quân miền Bắc bắt giữ. Chính phủ Anh đòi trả tự do cho hai người này, không thì sẽ khai chiến. Tổng thống Hoa Kỳ Lincoln đành nhượng bộ thả họ ra vào tháng 12.

    1862


    Lincoln và tướng McClellan (1862)
    6 tháng 2 - Tướng miền Bắc Ulysses S. Grant đánh thắng chiếm đoạt đồn Henry và 10 ngày sau hạ đồn Donelson. Ông được biệt hiệu Grant "đầu hàng vô điều kiện" ("Unconditional Surrender" Grant).
    Tháng 3 - McClellan kéo Binh đoàn Potomac từ Washington tiến theo vịnh Chesapeake đổ bộ xuống bán đảo Virginia và tiến về thủ phủ Richmond của miền Nam trong chiến dịch Bán đảo. Lincoln tạm thời giữ chức tham mưu trường chỉ huy quân miền Bắc.
    7 tháng 3 - Trận Pea Ridge nổ ra ở tây bắc Arkansas. Quân miền Bắc tiến từ trung Missouri xuống phía nam đã đánh bại cuộc phản công nhằm tái chiếm Missouri của đối phương. Trận này đánh dấu mốc quân miền Bắc kiểm soát được tiểu bang Missouri và phần phía bắc tiểu bang Arkansas.
    8 tháng 3 - Trong trận Hampton Roads tàu chiến bọc sắt USS Merrimack của miền Nam đánh chìm hai tàu chiến gỗ miền Bắc. Sau đó bất phân thắng bại khi đụng độ với tàu bọc sắt USS Monitor của miền Bắc.
    Từ tháng 3 đến tháng 6 - Chiến dịch Thung lũng của Jackson. Tướng miền Nam Stonewall Jackson đem 17.000 quân đánh phá trong vùng Thung lũng Shenandoah, giành nhiều thắng lợi, thu hút 52.000 quân miền Bắc khiến cho họ không thể tham gia chiến dịch Bán đảo của McClellan.
    6 tháng 4 - Quân miền Nam bất thình lình đánh úp quân của tướng Grant tại Shiloh trên sông Tennessee. Gần 13.000 quân miền Bắc và 11.000 quân miền nam tử trận. Các chính giới miền Bắc đòi đuổi Grant nhưng Lincoln không nghe, tin tưởng tài nghệ của vị tướng này.
    24 tháng 4 - Sĩ quan hải quân miền Bắc David Farragut đem 17 chiến thuyền theo sông Mississippi lên đánh chiếm New Orleans, một hải cảng quan trọng của miền Nam.
    29 tháng 4 - Henry W. Halleck đem quân tiến về Corinth, Mississippi và đến 30 tháng 5 thì chiếm được thành phố. P.G.T. Beauregard rút được quân miền Nam an toàn về Tupelo, Mississippi.

    Edwin Jennison - chết trận khi 16 tuổi
    31 tháng 5 - Tướng miền Nam Joseph E. Johnston bị thương nặng trong trận Seven Pines đánh với quân của McClellan bên ngoài Richmond. Hôm sau tướng Robert E. Lee lên thay thế Johnston, đổi tên lực lượng miền Nam thành Binh đoàn Bắc Virginia. McClellan khinh thường Lee, cho ông ta là người "...bẽn lẽn và thiếu cơ mưu trong tác chiến".
    25 tháng 6-1 tháng 7 - Chuỗi trận Bảy ngày. Lee đánh nhau với McClellan gần Richmond. Hai bên đều tổn thất nặng nề. McClellan thấy không xong bèn từ từ rút về sông James. Trong trận đánh tại Malvern Hill, binh sĩ miền Nam Edwin Jennison tử trận khi mới 16 tuổi.
    11 tháng 7 - Tướng Henry W. Halleck lãnh chức chỉ huy tham mưu trưởng quân đội miền Bắc.
    19 tháng 7 - Lee bắt đầu Chiến dịch Bắc Virginia tiến công Binh đoàn Virginia. Ngày 29 tháng 8, nổ ra trận Bull Run thứ hai giữa 62.000 quân miền Bắc do tướng John Pope chỉ huy và 50.000 quân miền Nam của hai tướng Stonewall JacksonJames Longstreet. Đến 30 tháng 8, quân miền Bắc thua to. Pope bị cách chức.
    Tháng 8 - Tướng Braxton Bragg dẫn quân miền Nam từ Đông Tennessee tiến vào xâm chiếm Kentucky, đối đầu với Don Carlos Buell tại đây.
    4 tháng 9 - Tướng Lee dẫn 50.000 quân tấn công miền Bắc trong Chiến dịch Maryland. Tướng McClellan dẫn 84.000 quân miền Bắc đuổi theo. Ngày 12 tháng 9, Stonewall Jackson tấn công Harpers Ferry, cách Washington 50 dặm về phiá tây bắc.
    17 tháng 9 - Trận Antietam - ngày đẫm máu nhất trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.[6] McClellan và các tướng tùy tùng chặn đánh quân của tướng Lee tại rạch Antietam, Maryland. 23.000 binh lính tử trận, bị thương hay mất tích. Tướng Lee phải rút lui chạy về Virginia.
    22 tháng 9 - Lincoln tuyên cáo sơ khai về cuộc giải phóng nô lệ.
    8 tháng 10 - Trận Perryville. Bragg đánh thắng Buell về chiến thuật nhưng phải rút lui, chấm dứt chiến dịch Kentucky của phe miền Nam.
    7 tháng 11 - Tổng thống Lincoln thất vọng khi thấy McClellan không biết nhanh chóng thừa thắng xông lên, bỏ lỡ cơ hội tấn công miền Nam khi Lee thua chạy. Tướng Ambrose Burnside được bổ nhiệm thay thế McClellan.
    13 tháng 12 - Burnside thất bại nặng nề trong trận chiến tại Fredericksburg thuộc Virginia. Sau 14 lần công kích các chiến hào gần Marye's Heights, quân miền Bắc bị thương vong mất 12.653 lính so với 5.309 bên miền Nam.
    31 tháng 12 - Quân miền Nam của Braxton Bragg tấn công William S. Rosecrans tại Tennessee trong trận Stones River - trận đánh có tỷ lệ quân số thương vong cao nhất trong Nội chiến Hoa Kỳ. Hai bên bất phân thắng bại nhưng đến ngày 2 tháng 1 năm 1863 quân miền Nam phải rút lui.

    1863

    1 tháng 1 - Tổng thống Lincoln chính thức ra Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ - trả tự do cho mọi người Mỹ gốc Phi xưa nay là nô lệ của các địa chủ Mỹ. Đồng thời kêu gọi những người nô lệ này nhập ngũ. Cuộc chiến lúc đầu có ý nghĩa bảo vệ quyền hạn chính phủ; lúc này trở thành cuộc chiến cách mạng giải thể chế độ nô lệ.
    25 tháng 1 - Tướng Joseph Hooker thay thế Burnside chỉ huy Binh đoàn Potomac.
    3 tháng 3 - Quốc hội ra lệnh tổng động viên, bắt buộc người nam tuổi từ 20 đến 40 phải nhập ngũ - trừ khi đóng $300 thế chân hay mướn được ai khác đi thay mình.
    1 tháng 5 - Tướng Lee đem 60.000 quân miền Nam đánh 130.000 quân miền Bắc do tướng Hooker cầm đầu tại Chancellorsville. Do chiến thuật tài tình táo bạo, Lee đánh bại quân miền Bắc. Bên miền Nam 13.000 lính thương vong, so với 17.000 lính bên miền Bắc.
    10 tháng 5 - Tướng miền Nam Stonewall Jackson chết vì vết thương trong trận Chancellorsville. Ông bị quân của chính mình bắn nhầm.
    3 tháng 6 - Tướng Lee kéo 75.000 quân phát động chiến dịch Gettysburg đánh miền Bắc lần thứ nhì, nhắm hướng Pennsylvania.
    24 tháng 6 - William Rosecrans tiến hành Chiến dịch Tullahoma hầu như không đổ máu, đánh bật được Braxton Bragg ra khỏi Trung Tennessee và bắt đầu đe dọa Chattanooga.
    28 tháng 6 - Tướng George G. Meade được Lincoln cử làm chỉ huy binh đoàn Potomac thay thế Hooker. Trong vòng 1 năm chức vụ này thay người 5 lần.
    Trận Gettysburg

    Trận đánh Gettysburg
    Xuất bản: Currier & Ives
    1 tháng 7 - Meade đem quân ngăn chặn quân của tướng Lee từ miền Nam lên. Hai bên dàn trận tại Gettysburg. Dải đất phía tây bắc của thị trấn do một sư đoàn kỵ binh miền Bắc phòng thủ, sau đó tăng cường thêm hai quân đoàn bộ binh. Nhưng quân miền Nam tràn vào thật nhanh phá vỡ hàng phòng thủ này. Quân miền Bắc phải rút vào trong thị trấn và chạy về các ngọn đồi phía nam.
    Ngày hôm sau, 2 tháng 7, quân đội hai bên hầu hết đã tập hợp đầy đủ. Quân miền Bắc có đội hình móc câu. Tướng Lee xua quân miền Nam tràn sang tấn công bắt đầu từ cánh trái và sau đó là cả cánh phải, hai bên đánh nhau kịch liệt. Tuy thiệt hại nặng nề, quân miền Bắc giữ được phòng tuyến, không lùi bước.
    3 tháng 7, ngày thứ ba của trận đánh, trong khi kỵ binh hai bên đánh xáp lá cà tại một số nơi ở phía đông và nam, tướng Lee quyết định xua 12.500 quân bộ binh miền Nam mở cuộc tấn công của Pickett vào trung tâm của đội hình quân miền Bắc. Nhưng cả đoàn quân bị miền Bắc đem súng và đại bác ra bắn tan tành. Lee phải rút quân chạy về Virginia.
    Trận đánh tại Gettysburg là trận chiến khốc liệt nhất trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.[6] Tổng cộng thương vong của hai bên lên đến khoảng 45-50 ngàn binh lính trong trận đánh kinh hồn này.
    4 tháng 7 - Tướng Grant chiếm Vicksburg, sau đó hoàn thành việc đánh chiếm những cứ điểm cuối cùng trên sông Mississippi của miền Nam. Lực lượng miền Nam do đó bị chia hai không liên lạc tiếp tế được cho nhau.
    13 tháng 6 - Cuộc bạo động chống tổng động viên tại New York do người di dân da trắng chủ động. Có đến 120 người da đen, kể cả trẻ con, bị giết và nhà cửa bị đốt. Quân đội từ Gettysburg phải kéo về giữ an ninh.

    Trung tá Robert G. Shaw


    Đội quân da đen
    Trung đoàn 54 Massachusetts


    Quân đoàn 54 Massachusetts tấn công đồn Wagner

    18 tháng 7 - Đội quân da đen của Trung đoàn 54 Massachusetts dưới sự chỉ huy của Trung tá Robert G. Shaw tấn công đồn Wagner thuộc Nam Carolina của quân miền Nam. Shaw và 600 binh sĩ của ông bị bắn chết. Quân miền Nam cố giữ đồn này được 60 ngày thì bỏ chạy.
    10 tháng 8 - Chính trị gia Frederick Douglass đòi quyền bình đẳng cho binh sĩ của Đội quân da đen.
    21 tháng 8 - William C. Quantrill và 450 người ủng hộ thể chế nô lệ tràn vào tỉnh Lawrence của Kansas và giết 182 người, đàn ông và thiếu niên.
    19 tháng 9 - Binh đoàn Tennessee do tướng miền Nam Braxton Bragg thống lãnh chiến thắng tại Chickamauga - trận chiến đẫm máu đứng thứ hai trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Tướng miền Bắc William S. RosecransBinh đoàn Cumberland của ông bị vây chặt tại Chattanooga, Tennessee.
    16 tháng 10 - Tướng Grant được tổng thống Lincoln giao phó chức vụ tổng chỉ huy toàn Mặt trận miền Tây.
    Tháng 11 - Longstreet tiến hành Chiến dịch Knoxville cầm chân Ambrose Burnside tại Knoxville, Tennessee nhằm phối hợp với cuộc vây hãm Chattanooga nhưng sau đó thất bại.
    19 tháng 11 - Tổng thống Lincoln đọc diễn văn Gettysburg dài hai phút - công bố chiến trường Gettysburg là Nghĩa Trang Quốc Gia.
    23 tháng 11 - Tướng Grant kéo quân đến giải vây cho tướng Rosecrans, phá vỡ vòng vây tại Chattanooga. Bragg phải đem quân bỏ chạy về Georgia. Phe miền Nam mất hoàn toàn quyền kiểm soát tiểu bang Tennessee.

    1864

    9 tháng 3 - Tổng thống Lincoln đề cử tướng Grant làm tổng chỉ huy toàn bộ quân đội Hoa Kỳ. Tướng William T. Sherman nhậm chức chỉ huy Mặt trận miền Tây. Grant bắt đầu áp dụng chiến lược mới, đồng loạt tấn công quân miền Nam tại nhiều nơi: Chiến dịch Red River, Chiến dịch Bermuda Hundred, Chiến dịch Thung lũng, Chiến dịch AtlantaChiến dịch Overland.
    Tháng 5 - Các chiến dịch Red River đánh chiếm Mobile, AlabamaBermuda Hundred nhằm vào Richmond, Virginia đều lần lượt thất bại. Vào giai đoạn đầu của Chiến dịch Thung lũng 1864, các tướng Franz SigelDavid Hunter của miền Bắc cũng lần lượt bị đánh bại trong các trận đánh tại New MarketLynchburg.
    4 tháng 5 - Grant tập trung một lực lượng 120.000 lính tiến về Richmond trong Chiến dịch Overland. Tướng Lee lúc này chỉ còn 64.000 quân. Hai bên đánh nhau tại nhiều nơi: Trận Wilderness (5 tháng 5), Trận Spotsylvania (8 tháng 5), Trận Bắc Anna (23 tháng 5).
    7 tháng 5 - Tại miền Tây, tướng Sherman đem 100.000 quân bắt đầu chiến dịch Atlanta, đương đầu với 60.000 quân thuộc binh đoàn Tennessee của tướng miền Nam Joseph E. Johnston. Trong vòng hơn hai tháng, Johnston phải từ từ rút lui về phía Atlanta trước những đòn tấn công bọc sườn liên tiếp của Sherman.
    11 tháng 5 - Tướng kỵ binh J.E.B. Stuart của miền Nam bị bắn trong trận Yellow Tavern và chết ngày hôm sau.
    3 tháng 6 - Tướng Grant tính toán sai lạc khi tấn công Cold Harbor và lãnh thiệt hại nặng nề với 13.000 quân miền Bắc thương vong. Trước đó nhiều viên chức sĩ quan trong đội quân này đã biết không thể nào chiếm được Cold Harbor. Một binh sĩ bị chết trong trận này đã biết trước số phận của mình và viết trong nhật ký: "3 tháng 6, Cold Harbor. Tôi bị giết."
    15 tháng 6 - Quân miền Bắc bỏ lỡ cơ hội chiếm Petersburg và cắt đứt đường xe lửa tiếp vận của miền Nam cho Richmond. Petersburg bắt đầu bị bao vây trong suốt 10 tháng.
    Tháng 7 - Jubal Early theo lệnh của tướng Lee tiến qua vùng Thung lũng Shenandoah kéo lên uy hiếp Washington, D.C., với hy vọng buộc Grant giảm bớt lực lượng bao vây Petersburg.
    11 tháng 7 - Trận đồn Stevens - trận đánh duy nhất diễn ra tại Washington, D.C. trong cuộc Nội chiến. Early tấn công đồn quân sự Stevens thuộc vành đai phòng thủ phía tây bắc Washington nhưng không thành công và phải rút lui. Trong trận này, Tổng thống Abraham Lincoln tận mắt chứng kiến cảnh đánh nhau giữa hai đội quân Nam-Bắc. Sau đó Early tiếp tục hoành hành trong vùng Thung lũng Shenandoah, với đỉnh cao là việc đốt cháy thành phố Chambersburg, Pennsylvania của miền Bắc. Grant phải phái tướng Philip Sheridan đi đánh dẹp Early.
    17 tháng 7 - Tướng Joseph E. Johnston bị cách chức chỉ huy Binh đoàn Tennessee. Hôm sau, 18 tháng 7, John B. Hood được chỉ định lên thay Johnston phòng thủ Atlanta.
    22 tháng 7 - Trận Atlanta. Hood tiến hành tấn công Sherman ở phía đông thành phố, nhưng bị đẩy lùi với tổn thất nặng nề. Quân miền Bắc bắt đầu bao vây và pháo kích Atlanta trong suốt 6 tuần lễ.
    23 tháng 8 - Trận Mobile Bay. David Farragut khóa chặt hải cảng Mobile, Alabama, cảng biển lớn cuối cùng của miền Nam trên vịnh Mexico, thắt chặt hơn nữa cuộc phong tỏa của miền Bắc.
    29 tháng 8 - Đảng Dân Chủ đưa George B. McClellan ra ứng cử tổng thống.
    2 tháng 9 - Atlanta thất thủ. Đây là thắng lợi lớn cho Lincoln khi ông đang vận động tranh cử.
    18 tháng 9 - Hood bắt đầu chiến dịch Franklin-Nashville nhằm tấn công tuyến liên lạc của Sherman với khu vực trung tâm Tennessee. Sherman phái thiếu tướng George H. Thomas đi Nashville đối phó với Hood.
    19 tháng 9 - Philip Sheridan, tư lệnh Binh đoàn Shenandoah của miền Bắc đánh bại Jubal Early trong trận Opequon - trận đánh lớn nhất và là bước ngoặt của Chiến dịch Thung lũng 1864.
    19 tháng 10 - Quân miền Bắc do tướng Sheridan chỉ huy thắng lớn trong Trận Cedar Creek tại thung lũng Shenandoah, chấm dứt hoàn toàn cuộc tấn công cuối cùng lên miền Bắc của quân miền Nam do Jubal Early cầm đầu.
    8 tháng 11 - Abraham Lincoln tái đắc cử tổng thống.
    15 tháng 11 - Sau khi phóng hỏa thiêu cháy Atlanta, tướng miền Bắc Sherman bắt đầu kéo 62.000 quân tiến ra hướng biển, về phía Savannah thuộc Georgia.
    30 tháng 11 - Hood thất bại nặng nề trong trận Franklin thứ hai tại Tennessee, nhưng vẫn tiếp tục tiến lên phía bắc chiến dịch xâm chiếm Tennessee, nhằm hướng Nashville.
    15 tháng 12 - Tại trận Nashville, 30.000 quân miền Nam do tướng Hood chỉ huy bị 55.000 quân miền Bắc (trong đó có cả quân da đen) cùa tướng George H. Thomas đánh bại. Binh đoàn Tennessee của miền Nam hầu như hoàn toàn tan rã.
    21 tháng 12 - Tướng Sherman đến Savannah, sau một cuộc tàn phá tiêu thổ 300 dặm từ Atlanta. Ông đánh điện cho tổng thống Lincoln, xin dâng Savannah làm quà Giáng sinh.

    1865

    Tháng 1 - Sherman bắt đầu Chiến dịch Carolinas tiến quân từ Savannah lên phía bắc, tiếp tục áp dụng chính sách tiêu thổ qua địa phận các tiểu bang Carolina trên đường kết hợp với lực lượng của Grant tại Virginia. Đối đầu với ông là những gì còn lại của Binh đoàn Tennessee dưới quyền tướng Joseph E. Johnston.
    31 tháng 1 - Quốc hội Hoa Kỳ thông qua sửa đổi thứ 13 của Hiến pháp, bác bỏ thể chế nô lệ.
    3 tháng 2 - Lincoln đến gặp phó tổng thống miền Nam là Alexander Stephens tại Hampton Roads của Virginia để thương lượng hoà giải nhưng không thành. Cuộc nội chiến vẫn tiếp diễn.
    Quân miền Nam lúc này chỉ còn hai nơi: Binh đoàn Bắc Viriginia của tướng Lee đang bị vây tại Petersburg và quân của Johnston tại Bắc Carolina. Trong khi đó lực lượng quân miền Bắc lên đến 280.000 lính.
    4 tháng 3 - Tổng thống Lincoln tuyên thệ nhậm chức lần thứ nhì.
    25 tháng 3 - Tướng Lee kéo quân từ Petersburg ra đánh phá vòng vây nhưng chỉ 4 tiếng sau cuộc công kích bị phá vỡ.
    1 tháng 4 - Sheridan đánh tan quân của George Pickett trong trận Five Forks, tiêu diệt cánh trái quân miền Nam tại Petersburg. Hôm sau, 2 tháng 4, tướng Grant tấn công Petersburg, phá từng tuyến phòng thủ của Lee. Tướng miền Nam A.P. Hill bị giết. Lee bỏ Petersburg, bắt đầu Chiến dịch Appomattox rút chạy theo hướng tây nam. Nhiều vụ đốt phá và cướp bóc xảy ra. Hôm sau cờ Liên bang Hoa Kỳ được kéo lên tại thủ phủ Richmond của miền Nam.
    4 tháng 4 - Lincoln tham quan Richmond và vào xem văn phòng của Jefferson Davis tại Toà Bạch Ốc của Liên minh miền Nam.
    9 tháng 4 - Tại làng Appomattox Court House, Virginia, tướng miền Nam Robert E. Lee ký giấy đầu hàng tướng miền Bắc Ulysses S. Grant. Grant cho phép hàng quân được tiếp tục giữ súng tay bên hông, và cho giữ lừa ngựa. Tướng Lee khuyên nhủ quân sĩ của mình: "Sau 4 năm chiến đấu khó khăn, với sự can đảm và ngoan cường chưa từng thấy, Binh đoàn Bắc Virginia bị bắt buộc phải nhượng bộ một lực lượng và hậu thuẫn quá to lớn".
    10 tháng 4 - Cuộc liên hoan chiến thắng bắt đầu tại Washington.
    14 tháng 4 - Cờ Hoa Kỳ được kéo lên long trọng tại đồn Sumter nơi cuộc nội chiến bắt đầu 4 năm trước. Tối hôm đó, tổng thống Lincoln cùng vợ là bà Mary đi xem vở kịch "Người bà con Mỹ của chúng ta" tại Ford's Theater. Lúc 10:30 tối, trong phần 3 của vở kịch, John Wilkes Booth thò súng ngắn bắn vào đầu Lincoln. Ông bất tỉnh và chết vào lúc 7 giờ 22 phút sáng hôm sau.
    15 tháng 4 - Phó tổng thống Andrew Johnson lên thay làm tổng thống.
    18 tháng 4 - Tướng miền Nam Joseph Johnston đầu hàng tướng Sherman tại Durham thuộc Bắc Carolina.
    13 tháng 5 - Trận Palmito Ranch là trận đánh sau cùng của cuộc Nội chiến.

    Bản đồ tiểu bang năm 1861.
       Tiểu bang ly khai trước 15 tháng 4 1861
       Tiểu bang ly khai sau 15 tháng 4 1861
       Tiểu bang liên bang công nhận nô lệ
       Tiểu bang liên bang không công nhận nô lệ
       Lãnh thổ

    Bản đồ tiểu bang năm 1864-5.
       Lãnh thổ thuộc liên bang miền Bắc
       Tiểu bang liên bang vùng biên, công nhận nô lệ
       Kansas, gia nhập liên bang sau vụ Đổ máu Kansas
       Các lãnh thổ đôi khi nằm dưới quyền của Liên minh miền Nam

    Hậu quả


    Quân phục binh sĩ Liên Bang trong Nội chiến Hoa Kỳ năm 1863
    Sau khi chiến cuộc kết thúc, người ta vẫn tranh cãi vấn đề quân miền Nam có cơ hội chiến thắng hay không. Nhiều học giả cho rằng miền Bắc quá hùng mạnh và quân miền Nam không bao giờ có hy vọng chiến thắng, chỉ đánh để đình hoãn thất bại. Trong phim tài liệu về Nội chiến Hoa Kỳ của Ken Burns, sử gia Shelby Foote tổng kết: "Tôi nghĩ miền Bắc đánh trận chấp một tay sau lưng. Nhỡ khi miền Nam thắng nhiều trận, nhiều hơn nữa, thì miền Bắc sẽ lôi tiếp tay sau lưng ra mà đánh. Tôi không nghĩ miền Nam có cơ hội nào thắng được cuộc chiến."  Lực lượng miền Nam cố gắng giữ độc lập bằng cách chờ cho Lincoln hết nhiệm kỳ. Nhưng sau khi Sherman phá được Atlanta, Lincoln thắng cử lần thứ nhì thì hy vọng chiến thắng chính trị của miền Nam tan biến. Lincoln đoạt nhiều thắng lợi lớn, được thêm ủng hộ từ các tiểu bang ranh giới, từ phe chủ chiến trong Đảng Dân chủ, từ các nô lệ được giải phóng và từ các nước ngoài như Anh và Pháp. Lincoln đánh bại McClellan và Đảng Dân chủ, đồng thời dập tắt nhóm chủ hòa Copperheads . Ngoài ra, Lincoln có tướng tài như Grant và Sherman, sẵn sàng đẩy hết quân lực hùng hậu, không sợ tốn lính. Những vị tướng không sợ đổ máu đã đem lại chiến thắng. Đến cuối năm 1864 mọi hy vọng chiến thắng của miền Nam đều tan biến.
    Theo James McPherson thì miền Bắc nhờ có lực lượng hùng hậu, tài nguyên nhiều nên thế thắng cao nhưng không thể gọi là tất thắng được. Trong nhiều chiến tranh khác, phe ít lính, thiếu súng đạn vẫm có thể thắng (như Chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ). Quân miền Nam đáng lý không nên tấn công miền Bắc mà chỉ nên phòng thủ kéo dài cuộc chiến làm lung lay tinh thần chiến đấu của miền Bắc, cho dân miền Bắc thấy được cái giá quá đắt của cuộc chiến. Quân miền Bắc phải tấn công, chiếm giữ và kiểm soát một lãnh thổ quá to lớn, sẽ bị tốn phí rất nhiều.
    Một điểm quan trọng nữa là khả năng kêu gọi của tổng thống Lincoln. Ông dùng tài biện thuyết, thuyết phục các tiểu bang đang lừng khừng tại ranh giới Nam Bắc ngả theo miền Bắc. Bài tuyên cáo giải phóng nô lệ tuy được đề xuất trễ nhưng có hiệu lực tạo điều kiện cho miền Bắc tiếp tục dấy binh đánh miền Nam.
    Bảng so sánh hai miền

    Miền Bắc Miền Nam
    Dân số 22.000.000 (71%) 9.000.000 (29%)
    Dân tự do 22.000.000 5.500.000
    Nô lệ tại các tiểu bang ranh giới năm 1860 432.586 Không có
    Nô lệ tại các tiểu bang miền Nam năm 1860 Không có 3.500.000
    Lính 2.200.000 (67%) 1.064.000 (33%)
    Tuyến xe lửa (dặm) 21.788 (71%) 8.838 (29%)
    Sản xuất công nghệ 90% 10%
    Sản xuất súng đạn 97% 3%
    Vải 1860 Không đáng kể 4.500.000 cuộn
    Vải 1864 Không đáng kể 300.000 cuộn
    Xuất khẩu (tiền chiến) 30% 70%
    Vì miền Bắc có phát triển kỹ nghệ kinh tế cao nên có khả năng sản xuất vũ khí, đạn dược nhiều hơn, đồng thời có điều kiện tốt về tài chánh và vận tải. Bảng bên đây so sánh khoảng cách kinh tế giữa hai miền vào đầu cuộc chiến. Khoảng cách này tăng xa lên trong cuộc chiến, trong khi kinh tế miền Bắc tiếp tục phát triển thì miền Nam tụt dốc. Năm 1861, miền Bắc có 22 triệu dân, miền Nam 9 triệu; trong đó có 3,5 triệu là nô lệ và 5.5 dân da trắng - khoảng một phần tư số dân da trắng miền Bắc. Khi quân miền Bắc thành công trong việc chiếm đoạt các đồn quân sự, khống chế biên giới, cắt đường tiếp vận của quân miền Nam ở sông Mississippi, kiểm soát 80% đường sông, đường biển, xây dựng thêm cơ xưởng đóng tàu, thì miền Nam coi như không còn hy vọng chiến thắng. Trong khi miền Bắc xây được đường xe lửa tốt liên kết giữa các khu vực chính yếu thì tuyến đường xe lửa của miền Nam bị trì trệ, hư hỏng, không kịp tu chỉnh.
    Tổng thống miền Nam Davis thiếu khả năng thuyết phục các tổng đốc của Georgia và Bắc Carolina, bỏ mất cơ hội tăng cường lực lượng cho miền Nam. Chính quyền miền Nam lại tiên đoán nhầm về kinh tế thế giới, tự mãn về khả năng sản xuất vải của mình, thiếu tế nhị trong ngoại giao nên chóng bị cô lập. Một thí dụ điển hình là chần chừ không chịu cho chuyên chở vải bán ra nước ngoài trước khi bị miền Bắc khống chế mặt biển.
    Sau bản tuyên ngôn giải phóng nô lệ của Lincoln, khoảng 190 nghìn dân nô lệ tình nguyện tòng quân, quân số của miền Bắc lên gấp bội. Trong khi đó miền nam không dám cho nô lệ nhập ngũ vì sợ đi ngược lại chính sách nô lệ của mình. Quân da đen miền Bắc chiến đấu anh dũng trong nhiều trận then chốt của cuộc nội chiến  Ngoài ra còn có dân di cư từ châu Âu cũng gia nhập quân miền Bắc. Khoảng 23.4% quân miền Bắc có gốc Đức, với gần 216 nghìn sanh tại Đức.

    Tái thiết

    Các lễ hội ăn mừng thắng lợi ở miền Bắc diễn ra một thời gian thì đột nhiên chấm dứt với sự kiện tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát ngày 14-4-1865. Andrew Johnson của tiểu bang Tennessee lên kế nhiệm.
    Giới lãnh đạo miền Bắc đồng ý rằng chiến thắng thực sự không thể dừng lại khi chiến cuộc chấm dứt mà phải tiếp tục cho đến khi đạt được hai mục đích: một là dập tắt hoàn toàn các chính quyền ly khai, hai là giải thể hoàn toàn hệ thống nô lệ dưới mọi hình thức. Tuy vậy, giữa các chính giới lại có nhiều quan điểm khác nhau về phương cách thực hiện hai mục đích này. Họ cũng tranh cãi gay go về vai trò của miền Bắc trong cuộc kiểm soát miền Nam sau cuộc chiến, và làm thế nào cho miền Nam kết hợp trở lại với Chính phủ liên bang. Nhóm cấp tiến trong đảng Cộng hòa đang kiểm soát Nghị viện như Thaddeus Stevens, Charles SummerBenjamin Wade, chủ trương phải nhanh chóng triệt hạ giới chủ nô, tiêu diệt những mầm mống chống đối còn sót lại ở miền Nam và muốn các định chế của miền Nam phải được thay đổi cấp tốc.
    Andrew Johnson và nghị viện miền Bắc tiến hành mở rộng quyền dân sự cho người da đen, đồng thời ngăn cấm những thành viên của Hợp bang miền Nam giành lại quyền lực. Họ phái quân đội tới miền Nam để ngăn chặn những người da trắng từng chống đối Liên bang đăng kí hoặc tham gia bầu cử. Việc triển khai quân đội là biện pháp chính yếu để thiết lập chính quyền mới ở các bang miền Nam, cũng như dùng vũ lực đàn áp những cử tri da trắng và da đen chống lại Liên bang. Việc này gây căm phẫn cho người da trắng miền Nam, dẫn rới sự ra đời phong trào Klu Klux Klan (3K) và nhiều nhóm theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
    Cuộc tái thiết đất nước Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến kéo dài cho đến năm 1877 (Thỏa ước 1877). Điều này dẫn tới gồm nhiều đợt thay đổi phức tạp trong chính sách từ liên bang đến tiểu bang. Ba điều được thay đổi trong Hiến pháp Hoa Kỳ: điều XIII (giải thể nô lệ), điều XIV (chính phủ liên bang có nhiệm vụ bảo vệ công lý cho mọi công dân bất kể sắc tộc) và điều XV (xóa bỏ kỳ thị chủng tộc trong việc bỏ phiếu bầu cử). Tuy nhiên, cuộc bầu cử năm 1876 diễn ra không suôn sẻ, các bang miền Nam bất mãn với chính phủ miền Bắc nổi dậy đòi lại quyền lực, thường là bằng bạo lực.
    Thay đổi hiến pháp thực ra chỉ là lý thuyết vì trên thực tế, nạn kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ vẫn tiếp tục kéo dài, người da đen vẫn phải sống trong nghèo túng, thất học và bị coi là "công dân hạng hai". Chẳng bao lâu sau, các bang miền Nam mà người da trắng mới giành lại quyền lực cho áp đặt những hạn chế về quyền bầu cử để gạt bỏ người da đen khỏi các cuộc bầu cử. Điều này chỉ thay đổi cho đến khi phong trào dân quyền bùng nổ vào thập niên 1960.. Bên cạnh đó, tâm lý nghi kỵ với các chính khách miền Nam vẫn dai dẳng, và phải 100 năm sau, nước Mỹ mới có một tổng thống xuất thân từ miền Nam là Lyndon Johnson (nắm quyền giai đoạn 1963-1969).

    Kết quả

    Toàn thể người nô lệ tại các tiểu bang miền Nam được thả tự do. Nô lệ tại các tiểu bang ranh giới, kể cả Washington, D.C., được trả tự do vào mùa xuân năm 1865. Khoảng 4 triệu người nô lệ được phóng thích.
    Khoảng 970,000 người bị tử thương, gần 3 phần trăm tổng số dân Mỹ - trong đó 620,000 là binh sĩ chết trận hay vì bệnh tật. Số binh sĩ tử trận trong Nội chiến Hoa Kỳ cao hơn tổng số lính chết trong những chiến cuộc khác của quân Hoa Kỳ. Ngày nay người ta vẫn còn tranh cãi về nguyên nhân và tên gọi cuộc chiến đẫm máu này. Căn cứ theo thống kê dân số năm 1860, 8% người nam da trắng Mỹ tuổi từ 13 đến 43 chết trong cuộc nội chiến (6% miền Bắc và 18% miền Nam).
    Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 16:55, ngày 4 tháng 1 năm 2014.

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét