VĂN MINH HÓA 11/a (Đấu tranh giai cấp)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Quốc tế ca (tiếng Pháp: L'Internationale) là bài ca tranh đấu nổi tiếng nhất của những người công nhân theo xã hội chủ nghĩa và là một trong những bài hát được nhiều người biết đến nhất trên thế giới. Nguyên bản tiếng Pháp được sáng tác năm 1870 bởi Eugène Pottier (1816–1887), sau này là một thành viên trong Công xã Paris). Pierre Degeyter (1848–1932) phổ thơ thành nhạc năm 1888. (Lúc ban đầu họ dự định hát theo điệu nhạc của bài La Marseillaise.)
Quốc tế ca đã trở thành bài hát quen thuộc trong các thành phần cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt. Người ta thường hát với tay phải nắm chặt giơ lên.
Tại nhiều quốc gia châu Âu, bài hát đã bị cấm vào đầu thế kỷ 20 vì liên hệ với chủ nghĩa cộng sản và có thông điệp lật đổ chính phủ tư bản.
Phiên bản tiếng Nga được chọn làm quốc ca của Liên Xô từ 1917 đến 1944; khi Liên Xô chọn bài quốc ca khác ("Quốc ca Liên bang Xô viết") thì "Quốc tế ca" trở thành đảng ca của Đảng Cộng sản Liên Xô. Lời tiếng Nga do Aron Kots (Arkadiy Yakolevich Kots) soạn vào năm 1902 và được phổ biến trong một nguyệt san tiếng Nga in tại Luân Đôn.
"Quốc tế ca" chẳng những chỉ được những người cộng sản mà còn những người theo chủ nghĩa xã hội hát. Nó cũng là bài hát của các sinh viên trong cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 chống đối chính phủ Trung Hoa.
Nhạc của bài Quốc tế ca vẫn còn thuộc bản quyền tại Pháp cho đến năm 2014, nhưng bản quyền không được các thành phần cánh tả tuân theo. Trong năm 2005 một nhà làm phim đã phải trả 1000 Euro để sử dụng bài này trong phim.

Quốc tế ca
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
---|---|
Tại nhiều quốc gia châu Âu, bài hát đã bị cấm vào đầu thế kỷ 20 vì liên hệ với chủ nghĩa cộng sản và có thông điệp lật đổ chính phủ tư bản.
Phiên bản tiếng Nga được chọn làm quốc ca của Liên Xô từ 1917 đến 1944; khi Liên Xô chọn bài quốc ca khác ("Quốc ca Liên bang Xô viết") thì "Quốc tế ca" trở thành đảng ca của Đảng Cộng sản Liên Xô. Lời tiếng Nga do Aron Kots (Arkadiy Yakolevich Kots) soạn vào năm 1902 và được phổ biến trong một nguyệt san tiếng Nga in tại Luân Đôn.
"Quốc tế ca" chẳng những chỉ được những người cộng sản mà còn những người theo chủ nghĩa xã hội hát. Nó cũng là bài hát của các sinh viên trong cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 chống đối chính phủ Trung Hoa.
Nhạc của bài Quốc tế ca vẫn còn thuộc bản quyền tại Pháp cho đến năm 2014, nhưng bản quyền không được các thành phần cánh tả tuân theo. Trong năm 2005 một nhà làm phim đã phải trả 1000 Euro để sử dụng bài này trong phim.
Lịch sử ngày Quốc tế Lao động 1-5
Hằng
năm, người lao động trên toàn thế giới lại cùng nhau kỷ niệm ngày Quốc
tế Lao động 1/5. Tại Việt Nam, đây là một ngày mà mọi người dân ai ai
cũng được nghỉ ngơi, vui chơi không phải làm việc. Tuy vậy, không phải
ai cũng biết được lịch sử cũng như ý nghĩa trọng đại của ngày Quốc tế
Lao động, nhất là các bạn trẻ thế hệ 8X, 9X.
Trong
cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động, vấn đề thời gian lao động có ý
nghĩa quan trọng. Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi
việc rút ngắn thời gian lao động là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô
sản. Tại Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản I họp tại Gieneve
(Thụy Sĩ) tháng 9/1866, vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được
coi là nhiệm vụ quan trọng.
Khẩu
hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện trong một số nơi của nước Anh, nước
có nền công nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan sang các
nước khác.
Do
sự kiện giới công nhân viên chức Anh di cư sang Mỹ, phong trào đòi làm
việc 8 giờ phát triển mạnh ở nước Mỹ từ năm 1827, đi đôi với nó là sự
nảy nở và phát triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ
buộc phải thông qua đạo luật ấn định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan,
xí nghiệp thuộc Chính phủ. Nhưng các xí nghiệp tư nhân vẫn giữ ngày làm
việc từ 11 đến 12 giờ.
Năm
1884, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động
Mỹ thông qua nghị quyết nêu rõ: "...Từ ngày 1/5/1886, ngày lao động của
tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ". Sở dĩ ngày 1/5 được chọn bởi đây là
ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ.
Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản
có thể biết trước quyết định của công nhân mà không kiếm cớ chối từ.
Ngày
1/5/1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một cách đầy đủ,
giới công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực
buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại
thành phố Chicago. Khoảng 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức
mit-tinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người
thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8
giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!” Cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông
người tham gia. Cũng trong ngày hôm đó, tại các trung tâm công nghiệp
khác trên nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân
tham gia. Ở Washington, New York, Baltimore, Boston... hơn 125.000 công
nhân giành được quyền ngày chỉ làm 8 giờ.
Những
cuộc biểu tình tại Chicago diễn ra ngày càng quyết liệt. Giới chủ đuổi
những công nhân bãi công, thuê người làm ở các thành phố bên cạnh, thuê
bọn khiêu khích và cảnh sát đàn áp, phá hoại cuộc đấu tranh của công
nhân. Các xung đột xảy ra dữ dội khiến hàng trăm công nhân chết và bị
thương, nhiều thủ lĩnh công đoàn bị bắt... Báo cáo của Liên đoàn Lao
động Mỹ xác nhận: "Chưa bao giờ trong lịch sử nước Mỹ lại có một cuộc
nổi dậy mạnh mẽ, toàn diện trong quần chúng công nghiệp đến như vậy".
Ngày
20/6/1889, ba năm sau "thảm kịch" tại thành phố Chicago, Quốc tế cộng
sản lần II nhóm họp tại Paris (Pháp). Dưới sự lãnh đạo của Frederic
Engels, Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản II đã quyết định lấy
ngày 1/5 hàng năm làm ngày biểu dương lực lượng và đấu tranh chung của
tầng lớp vô sản các nước.
Từ
đó, ngày 1/5 trở thành Ngày Quốc tế Lao động, ngày đấu tranh của giai
cấp công nhân, ngày nghỉ ngơi và biểu dương lực lượng, ngày hội của công
nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
Năm
1920, dưới sự phê chuẩn của Lê Nin, Liên Xô (cũ) là nước đầu tiên cho
phép người dân được nghỉ làm vào ngày Quốc tế Lao động 1/5. Sáng kiến
này dần dần được nhiều nước khác trên thế giới tán thành.
Tại
Việt Nam, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công
nhân Việt Nam đã lấy ngày l/5 hàng năm làm ngày đỉnh cao của phong trào
đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập - tự do - dân chủ,
giành những quyền lợi kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ trước Cách mạng
tháng Tám, việc kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5 phần nhiều phải tổ
chức bí mật bằng hình thức treo cờ, rải truyền đơn. Năm 1936, do thắng
lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc
tế Lao động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội, thu hút
đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Đặc biệt, ngày 1/5/1938, một
cuộc biểu tình lớn gồm hàng chục ngàn người đã diễn ra ở khu Đấu xảo Hà
Nội với sự tham gia của 25 ngành, giới: thợ hoả xa, thợ in, nông dân,
phụ nữ, người cao tuổi, nhà văn, nhà báo... Đây là cuộc mit-tinh lớn
nhất trong thời kỳ vận động dân chủ (1936 - 1939), một cuộc biểu dương
sức mạnh đoàn kết của nhân dân lao động do Đảng lãnh đạo. Nó đánh dấu
một bước trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo của
Đảng ta.
Ngày
nay, ngày Quốc tế Lao động đã trở thành ngày hội lớn của hai giai cấp
công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đây cũng là ngày biểu thị tình
đoàn kết hữu nghị với giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế
giới, cùng đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, tự do, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Ngày Quốc tế Lao động ở một số nước trên thế giới
Tại Đức
Người
Đức chọn Ngày lao động quốc tế vào 1/5. Tất cả công nhân, người lao
động đều được nghỉ trong dịp này. Theo truyền thống, mọi người thường
cài một bông hoa cẩm chướng đỏ trên ve áo. Thói quen này bắt nguồn từ
cuộc biểu tình ngày 1/5/1890, hôm đó những người tham gia đoàn diễu hành
đã dùng hoa cẩm chướng đỏ làm dấu hiệu để nhận ra nhau.
Tại Australia
Tại
xứ sở của những chú Kanguru, ngày Quốc tế Lao động thay đổi theo từng
vùng. Vào ngày 1/5, chỉ một số Nghiệp đoàn của Đảng Xã hội và Cộng sản
tổ chức kỷ niệm trọng thể cho công nhân và người lao động. Nhưng ở miền
tây, người dân lại lấy ngày 4/3 để nghỉ ngơi, vui chơi. Còn vùng
Queensland và miền bắc lại chọn ngày 6/5. Thủ phủ Canberra, thành phố
lớn Sydney và miền nam Australia thì lấy ngày 7/10.
Tại Canada
Người
dân Quebec tổ chức mit-tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động vào ngày 29/4
hằng năm. Hàng ngàn người tuần hành trên đại lộ Viau, sau đó đổ về công
viên Maisonneuve nghe đọc diễn văn và xem các chương trình biểu diễn
nghệ thuật.
Tại Mỹ
Tháng
1/1884, tại thành phố công nghiệp Chicago, Đại hội liên đoàn Mỹ thông
qua nghị quyết nêu rõ: “…Từ ngày 1/5/1886, thời gian làm việc của công
nhân sẽ là 8h/ngày”. Vì lẽ đó mà 1/5 được chọn là Ngày quốc tế lao động
của Mỹ. Hằng năm cứ vào ngày này, hợp đồng mới giữa chủ và công nhân lại
được ký kết. Người dân trên toàn nước Mỹ thường tổ chức diễu hành qui
mô lớn.
Tại Hà Lan
Vào
ngày 1/5, người dân ở bang Fribourg, một bang nhỏ của Hà lan lại tổ
chức ca hát, chia bánh kẹo và thưởng tiền lẻ cho trẻ với quan niệm đó là
ngày đầu tiên của mùa xuân nên làm như vậy sẽ đem lại may mắn cho cả
năm. Thông thường, người Hà Lan vẫn làm việc vào 1/5, chỉ một số công ty
và tổ chức nước ngoài cho phép nhân viên được nghỉ.
Tại Nhật Bản
Nhật
Bản không kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Tuy nhiên, trong tuần đầu tiên
của tháng 5, mọi người đều được nghỉ làm và tổ chức các lễ hội.
Tại Pháp
Ngày
1/5/1891, một cuộc biểu tình lớn của công nhân đã xảy ra ở vùng
Fourmies, miền Bắc nước Pháp. Để dẹp loạn, binh lính quốc gia đã xả súng
và bắn chết 10 người trong đó có một cô gái tên là Marie Blindeau, mang
trên mình bộ quần áo trắng tinh khiết. Để tưởng nhớ sự kiện này người
Pháp đã lấy hoa Linh lan, một loài hoa nhỏ có màu trắng, hương thơm dịu
nhẹ, nở vào ngày đầu tiên của tháng Năm làm biểu tượng, linh hồn của
ngày 1/5. Hằng năm, cứ vào dịp này, người Pháp náo nức trang hoàng nhà
cửa và tặng bạn bè một bó hoa Linh lan.
Theo nghĩa đen, Công xã Paris chỉ là một cơ quan hành chính địa phương (hội đồng của một xã) đã nắm quyền điều khiển Paris trong vòng hai tháng mùa xuân năm 1871. Tuy nhiên, với những điều kiện khi thành lập, những quy định gây tranh cãi và một kết thúc đẫm máu đã làm cho nó trở thành một sự kiện chính trị quan trọng vào thời đó.
Cuối tháng 6 năm 1870, Đệ nhị đế chế Pháp bước vào thời kỳ khủng hoảng. Cũng mùa hè 1870, nước Pháp bước vào cuộc chiến với Phổ. Do chỉ huy yếu, thua kém về vũ khí, các chiến lược sai lầm... Pháp nhanh chóng bị Phổ đánh bại. Tháng 9 năm 1870, hoàng đế Napoléon III thất trận ở chiến trường Sedan phải đầu hàng thủ tướng nước Phổ là Otto von Bismarck. Ngày 4 tháng 9, nhân dân Paris nhận được tin, tự phát nổi dậy tràn vào Điện Bourbon,
hô lớn: Phế truất hoàng đế", "Cộng hòa muôn năm". Chiều ngày hôm đó,
một chính phủ lâm thời được thành lập mang tên Chính phủ vệ quốc. Tướng Louis Jules Trochu, một người có tư tưởng bảo hoàng, nguyên thống đốc Paris, được cử làm Bộ trưởng Bộ chiến tranh và đứng đầu chính phủ mới.
Quân đội Phổ, sau chiến thắng ở trận Sedan, tiếp tục tiến về Paris. Khi thủ đô bị vây hãm vào gần cuối tháng 9, thành phố vẫn còn 246.000 vệ binh và thủy quân cùng 125.000 vệ quốc quân. Chính phủ tổ chức thêm 200 tiểu đoàn vệ quốc quân, cộng với 60 tiểu đoàn vốn có từ thời Đệ nhị đế chế. Lực lượng này bao gồm chủ yếu các thợ thủ công và công chức nhỏ. Trong khi đó, quân đội Pháp vẫn tiếp tục thua cuộc. Ngày 27 tháng 10, 15 vạn quân Pháp ở thành Metz do tướng François Achille Bazaine chỉ huy đầu hàng. Nhân dân Paris với quyết tâm cố thủ, phản đối việc chính phủ mới đàm phán với phía Phổ, tập trung trước tòa thị chính hô lớn: Đả đảo Trochu! Không đàm phán! Jules Favre, Bộ trưởng Bộ ngoại giao của Chính phủ vệ quốc, đã bí mật ký thỏa thuận hòa ước với Otto von Bismarck.
Từ ngày 23 tháng 1 năm 1871, Chính phủ của Trochu bắt đầu đàm phán với Phổ lại cung điện Versailles. Đến ngày 28/1, Chính phủ Pháp ký hiệp định đình chiến, chấp nhận các điều hiện của phía Phổ. Theo các điều khoản đình chiến này, cuộc bầu cử Quốc hội Pháp sẽ được tổ chức vào 8 tháng 2 năm 1871 và sau đó Quốc hội sẽ ký hòa ước. Đúng như dự đinh, Quốc hội mới được thành lập vào đầu tháng 2 với 750 nghị viên. Phần lớn trong số này thuộc tầng lớp phú ông, địa chủ và có tới 450 người thuộc phái bảo hoàng. Adolphe Thiers trở thành thủ tướng và Jules Favre tiếp tục giữ chức bộ trưởng bộ ngoại giao. Ngày 28 tháng 2, Thiers gặp Bismarck và ký kết các điều khoản hòa ước:
Giữa tháng 3 năm 1871, Quốc hội hạ lệnh tước vũ khí quân vệ quốc. Cuộc chiến ngày 18 tháng 3 giữa Chính phủ Versailles và quân vệ quốc là ngòi nổ trực tiếp cho Công xã Paris.
Ngày 26 tháng 3, bầu cử Hội đồng Công xã được tiến hành và ngày 28, kết quả được công bố. Trong số 85 đại biểu trúng cử, có 25 công nhân, 15 đại biểu thuộc tầng lớp tư sản trúng cử nhưng sớm từ chức sau đó. Phần còn lại gồm các bác sĩ, nhà báo, giáo viên, công chức... Khoảng gần 30 đại biểu của Hội đồng công xã là hội viên của Quốc tế thứ nhất và cũng có cả những người ngoại kiều gốc Nga, Ba Lan, Hungary. Cuối thàng 3, do ảnh hưởng của Công xã Paris, nhiều cuộc khởi nghĩa khác cũng nổ ra ở Marseilles, Lyon, Toulouse...
Sắc lệnh đầu tiên của Công xã là bãi bỏ quân đội thường trực và bộ máy cảnh sát cũ. Việc giữ an ninh được thay bằng lực lượng công nhân có vũ trang. Chính quyền của giai cấp công nhân cũng được thành lập. Cơ quan tối cao của nhà nước là Hội đồng Công xã có vai trò lập pháp và tổ chức 10 ủy ban chịu trách nhiệm về hành pháp. Mỗi ủy ban này do một ủy viên của Hội đồng Công xã làm chủ tịch. Công xã cũng ra sắc lệnh tách nhà thờ khỏi hoạt động của nhà nước, giới tăng lữ không được can thiệp vào công việc của chính quyền và ngân sách tôn giáo bị hủy bỏ. Tất cả tài sản của các giáo hội trở thành tài sản quốc gia, giáo dục cũng tách khỏi nhà thờ. Để tuyên truyền trong hoàn cảnh bị bao vây, Công xã Paris còn sử dụng khinh khí cầu rải truyền đơn tới các vùng nông thôn.
Trong khi đó, quân đội Phổ và quân đội Versailles vẫn tiếp tục bao vây Paris. Chính phủ Versailles cùng một số báo chí đưa nhiều tin bất lợi cho Công xã Paris, như Công xã sẽ tiêu diệt tất cả các quyền sở hữu. Nhiều nông dân lo ngại chính quyền của Công xã Paris.
Về giáo dục, Công xã Paris thành lập hệ thống giáo dục thống nhất, tách khỏi nhà thờ, thay thế các tăng lữ bằng tầng lớp giáo viên mới. Một sắc lệnh quy định giáo dục bắt buộc và miễn phí. Ngày 12 tháng 5, hai trường chuyên nghiệp được thành lập. Chịu trách nhiệm các nhiệm vụ này là Ủy ban giáo dục. Tương tự, Hội nghệ sĩ đứng ra quản lý các rạp hát, kinh doanh nghệ thuật bị cấm.
Về quân sự, Công xã Paris giải tán quân đội và bộ máy cảnh sát của chế độ cũ; thành lập lực lượng vũ trang và lực lượng an ninh của nhân dân
Ngày 2 tháng 4, quân Versailles bắt đầu tấn công Paris. Quân Công xã nhanh chóng thua cuộc do tổ chức yếu, kỷ luật kém, sử dụng pháo không hiệu quả... Trong tháng 4 và 5, quân Versailles đã chiếm được phần lớn các pháo đài phía tây và nam thành phố. Từ giữa tháng 4, Paris liên tiếp bị bắn phá. Nhiều người của chính phủ Versailles thâm nhập vào hàng ngũ Công xã, tham gia cả Bộ tổng tham mưu. Lực lượng tình báo này đã cho phá hủy một xưởng đúc đạn, lấy các bản đồ quân sự và tổ chức mở cửa thành Paris cho quân đội Versailles tiến vào.
Vào khoảng thời gian đang diễn ra cuộc chiến, ngày 10 tháng 5 năm 1871, Adolphe Thiers chính thức ký với Bismarck hòa ước nhượng Alsace và một phần Lorraine cho Phổ cùng khoản chiến phí 5.000 triệu franc[cần dẫn nguồn]}. Chính phủ của Thiers và phía Phổ cùng tham gia đàn áp Công xã [cần dẫn nguồn]. Theo yêu cầu của Thiers, Bismarck trao trả Pháp 10 vạn tù binh và lực lượng này cùng tham gia đàn áp Công xã. Sau hòa ước, Bộ chỉ huy quân Phổ cho quân đội Versailles qua phía bắc thành phố, nơi Công xã ít đề phòng .
Ngày 20 tháng 5, quân đội Versailles bắt đầu tổng tiến công. Ngày 21, quân đội tràn vào Paris qua cửa ô Saint-Cloud. Tiếp đó là khoảng thời gian "Tuần lễ đẫm máu" kéo dài từ 21 tới 28 tháng 5. Ngày 27, quân Versailles chiếm được Belleville. Khoảng 200 binh lính Công xã rút vào cố thủ trong nghĩa địa Père-Lachaise. Tới ngày 28, cuộc kháng cự của Paris hoàn toàn thất bại.
Về kinh tế, do không tịch thu ngân hàng, những thành phần chống lại công xã đã vẫn có thể tiếp tục sử dụng tiền. Ngoài ra, về quân sự, Công xã Paris tỏ ra yếu kém. Quân đội của Công xã chưa được huấn luyện, tổ chức tốt. Việc lãnh đạo thiếu tập trung, được chia làm hai cơ quan là Ủy ban quân sự và Ủy ban trung ương quân vệ quốc. Lực lượng công nhân không xây dựng được mối quan hệ chặt chẽ với lực lượng nông dân. Các yếu kém về quân sự khiến Công xã nhanh chóng tan rã khi bị quân đội Versailles tấn công.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:17, ngày 15 tháng 12 năm 2013.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng ra đời từ khi con người có ý thức. Nó thể hiện qua câu truyện cổ tích, sử thi. Nó thể hiện khát vọng công bằng, tự do, khát vọng chinh phục tự nhiên. Nó còn đóng góp việc hình thành tôn giáo. Tuy vậy theo Engels thì chủ nghĩa này vẫn chưa chín muồi vì những lý luận chưa chín muồi đó chính là phù hợp với tình trạng chưa chín muồi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán sâu sắc chủ nghĩa tư bản và lên tiếng bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, nó không thấy được bản chất của chủ nghĩa tư bản, không vạch ra được con đường giải phóng nhân dân lao động và phủ nhận đấu tranh giai cấp.
CL tổng hợp từ: N.M (tổng hợp Internet)
http://thainguyen.edu.vn
Công xã Paris
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về Công xã Paris (1871). Đối với bài về Công xã Paris thứ nhất (1789 đến 1795), xem Cách mạng Pháp.
Công xã Paris (tiếng Pháp: La Commune de Paris) là một chính quyền điều hành Paris trong một thời gian ngắn, từ ngày 18 tháng 3 đến ngày 28 tháng 5 năm 1871. Nó đã được mô tả như một chính quyền theo chủ nghĩa vô chính phủ hoặc chủ nghĩa xã hội, tùy theo tư tưởng của người bình luận.Theo nghĩa đen, Công xã Paris chỉ là một cơ quan hành chính địa phương (hội đồng của một xã) đã nắm quyền điều khiển Paris trong vòng hai tháng mùa xuân năm 1871. Tuy nhiên, với những điều kiện khi thành lập, những quy định gây tranh cãi và một kết thúc đẫm máu đã làm cho nó trở thành một sự kiện chính trị quan trọng vào thời đó.
Hoàn cảnh ra đời
Bàn luận về chiến tranh trong một quán cà phê Paris, The Illustrated London News ngày 17 tháng 9 năm 1870
Quân đội Phổ, sau chiến thắng ở trận Sedan, tiếp tục tiến về Paris. Khi thủ đô bị vây hãm vào gần cuối tháng 9, thành phố vẫn còn 246.000 vệ binh và thủy quân cùng 125.000 vệ quốc quân. Chính phủ tổ chức thêm 200 tiểu đoàn vệ quốc quân, cộng với 60 tiểu đoàn vốn có từ thời Đệ nhị đế chế. Lực lượng này bao gồm chủ yếu các thợ thủ công và công chức nhỏ. Trong khi đó, quân đội Pháp vẫn tiếp tục thua cuộc. Ngày 27 tháng 10, 15 vạn quân Pháp ở thành Metz do tướng François Achille Bazaine chỉ huy đầu hàng. Nhân dân Paris với quyết tâm cố thủ, phản đối việc chính phủ mới đàm phán với phía Phổ, tập trung trước tòa thị chính hô lớn: Đả đảo Trochu! Không đàm phán! Jules Favre, Bộ trưởng Bộ ngoại giao của Chính phủ vệ quốc, đã bí mật ký thỏa thuận hòa ước với Otto von Bismarck.
Từ ngày 23 tháng 1 năm 1871, Chính phủ của Trochu bắt đầu đàm phán với Phổ lại cung điện Versailles. Đến ngày 28/1, Chính phủ Pháp ký hiệp định đình chiến, chấp nhận các điều hiện của phía Phổ. Theo các điều khoản đình chiến này, cuộc bầu cử Quốc hội Pháp sẽ được tổ chức vào 8 tháng 2 năm 1871 và sau đó Quốc hội sẽ ký hòa ước. Đúng như dự đinh, Quốc hội mới được thành lập vào đầu tháng 2 với 750 nghị viên. Phần lớn trong số này thuộc tầng lớp phú ông, địa chủ và có tới 450 người thuộc phái bảo hoàng. Adolphe Thiers trở thành thủ tướng và Jules Favre tiếp tục giữ chức bộ trưởng bộ ngoại giao. Ngày 28 tháng 2, Thiers gặp Bismarck và ký kết các điều khoản hòa ước:
- Nước Pháp bồi thường chiến phí 5 ngàn triệu franc.
- Các pháo đài Paris bị quân Đức chiếm đóng cho tới khi Pháp nộp 500 triệu đầu tiên.
- Lãnh thổ phía đông bị chiếm đóng cho tới khi Pháp hoàn thành hết khoản bồi thường.
- Alsace và một phần ba Lorraine thuộc về Đức.
- Quân Phổ vào chiếm đóng Paris.
Giữa tháng 3 năm 1871, Quốc hội hạ lệnh tước vũ khí quân vệ quốc. Cuộc chiến ngày 18 tháng 3 giữa Chính phủ Versailles và quân vệ quốc là ngòi nổ trực tiếp cho Công xã Paris.
Thành lập Công xã
3 giờ đêm ngày 17 rạng sáng ngày 18 tháng 3, quân đội chính phủ Thiers tới chiếm các vị trí chiến lược bên tả ngạn sông Seine. Một nhóm khác cũng được điều đến các kho đại bác của Paris. Mục tiêu chủ yếu của quân đội chính phủ là đồi Montmartre ở phía bắc thành phố để chiếm các trọng pháo của quân vệ quốc. Đến 5 giờ 30, quân chính phủ chiếm được các trọng pháo nhưng chưa di chuyển đi được. Sau các tiếng kèn tập hợp và chuông báo động, quân vệ quốc tiến tới bao vây đồi. Trong cuộc chiến, nhiều binh lính quân chính phủ đã nghiên về phía quân vệ quốc, viên tướng chỉ huy bị bắn chết tại chỗ. Tới 9 giờ sáng, lực lượng chính phủ thất bại, vội vã lui quân. Buổi trưa, Ủy ban trung ương vệ quốc ra lệnh các tiểu đoàn tiến vào trung tâm thành phố. Chỉ sau vài tiếng đồng hồ, quân vệ quốc đã chiếm được các cơ quan đầu não của phủ, tòa thị chính và các trại lính. Đến buổi chiều, Thiers cùng chính phủ phải rút về Versailles.Ngày 26 tháng 3, bầu cử Hội đồng Công xã được tiến hành và ngày 28, kết quả được công bố. Trong số 85 đại biểu trúng cử, có 25 công nhân, 15 đại biểu thuộc tầng lớp tư sản trúng cử nhưng sớm từ chức sau đó. Phần còn lại gồm các bác sĩ, nhà báo, giáo viên, công chức... Khoảng gần 30 đại biểu của Hội đồng công xã là hội viên của Quốc tế thứ nhất và cũng có cả những người ngoại kiều gốc Nga, Ba Lan, Hungary. Cuối thàng 3, do ảnh hưởng của Công xã Paris, nhiều cuộc khởi nghĩa khác cũng nổ ra ở Marseilles, Lyon, Toulouse...
Sắc lệnh đầu tiên của Công xã là bãi bỏ quân đội thường trực và bộ máy cảnh sát cũ. Việc giữ an ninh được thay bằng lực lượng công nhân có vũ trang. Chính quyền của giai cấp công nhân cũng được thành lập. Cơ quan tối cao của nhà nước là Hội đồng Công xã có vai trò lập pháp và tổ chức 10 ủy ban chịu trách nhiệm về hành pháp. Mỗi ủy ban này do một ủy viên của Hội đồng Công xã làm chủ tịch. Công xã cũng ra sắc lệnh tách nhà thờ khỏi hoạt động của nhà nước, giới tăng lữ không được can thiệp vào công việc của chính quyền và ngân sách tôn giáo bị hủy bỏ. Tất cả tài sản của các giáo hội trở thành tài sản quốc gia, giáo dục cũng tách khỏi nhà thờ. Để tuyên truyền trong hoàn cảnh bị bao vây, Công xã Paris còn sử dụng khinh khí cầu rải truyền đơn tới các vùng nông thôn.
Trong khi đó, quân đội Phổ và quân đội Versailles vẫn tiếp tục bao vây Paris. Chính phủ Versailles cùng một số báo chí đưa nhiều tin bất lợi cho Công xã Paris, như Công xã sẽ tiêu diệt tất cả các quyền sở hữu. Nhiều nông dân lo ngại chính quyền của Công xã Paris.
Các chính sách kinh tế, xã hội
Công xã Paris quyết định giao cho công nhân quản lý các xí nghiệp, công xưởng mà giới chủ đã bỏ khỏi Paris. Còn những xưởng mà người chủ vẫn ở lại, Công xã quản lý thông qua việc kiểm soát tiến lương. Các Ủy ban lao động được thành lập chịu trách nhiệm về sản xuất và đời sống công nhân. Với những nhà máy vẫn còn giới chủ, Công xã đưa ra lệnh cấm hình thức cúp phạt, cấm làm đêm trong các xưởng bánh mì. Chế độ ngày làm 8 tiếng cũng được đề ra nhưng chưa kịp thực hiện. Mức lương của các viên chức bị hạ xuống, trong khi của công nhân được tăng lên. Đến tháng 5, Công xã ban hành đạo luật quy định giá bánh mỳ, thịt bò, cừu. Nhiều công dân nghèo rời nhà mình tới sống tại các dinh thự của những quý tộc, tư sản bỏ trốn.Về giáo dục, Công xã Paris thành lập hệ thống giáo dục thống nhất, tách khỏi nhà thờ, thay thế các tăng lữ bằng tầng lớp giáo viên mới. Một sắc lệnh quy định giáo dục bắt buộc và miễn phí. Ngày 12 tháng 5, hai trường chuyên nghiệp được thành lập. Chịu trách nhiệm các nhiệm vụ này là Ủy ban giáo dục. Tương tự, Hội nghệ sĩ đứng ra quản lý các rạp hát, kinh doanh nghệ thuật bị cấm.
Về quân sự, Công xã Paris giải tán quân đội và bộ máy cảnh sát của chế độ cũ; thành lập lực lượng vũ trang và lực lượng an ninh của nhân dân
Chiến tranh bảo vệ Công xã
Sau ngày 18 tháng 3, quân đội chính phủ Versailles hầu như tan rã. Về Versailles, Adolphe Thiers dần tập hợp lại được 12 ngàn quân. Cuối tháng 3, khi những cuộc nổi dậy ở các tỉnh thất bại, quân đội tập trung lại Paris và lên tới con số 65 ngàn. Trong khi đó, lực lượng của Công xã ban đầu khoảng 100 ngàn người, về sau tăng lên tới 200 ngàn. Nhưng trong số này chỉ có khoảng 20 đến 30 ngàn đã được luyện tập. Về vũ khí, tuy Công xã có được 1740 khẩu đại bác, nhưng do không có pháo thủ, một số bị phá hủy nên chỉ sử dụng được 320 khẩu. Quân đội Công xã cũng được trang bị hơn 400 ngàn súng trường.Ngày 2 tháng 4, quân Versailles bắt đầu tấn công Paris. Quân Công xã nhanh chóng thua cuộc do tổ chức yếu, kỷ luật kém, sử dụng pháo không hiệu quả... Trong tháng 4 và 5, quân Versailles đã chiếm được phần lớn các pháo đài phía tây và nam thành phố. Từ giữa tháng 4, Paris liên tiếp bị bắn phá. Nhiều người của chính phủ Versailles thâm nhập vào hàng ngũ Công xã, tham gia cả Bộ tổng tham mưu. Lực lượng tình báo này đã cho phá hủy một xưởng đúc đạn, lấy các bản đồ quân sự và tổ chức mở cửa thành Paris cho quân đội Versailles tiến vào.
Vào khoảng thời gian đang diễn ra cuộc chiến, ngày 10 tháng 5 năm 1871, Adolphe Thiers chính thức ký với Bismarck hòa ước nhượng Alsace và một phần Lorraine cho Phổ cùng khoản chiến phí 5.000 triệu franc[cần dẫn nguồn]}. Chính phủ của Thiers và phía Phổ cùng tham gia đàn áp Công xã [cần dẫn nguồn]. Theo yêu cầu của Thiers, Bismarck trao trả Pháp 10 vạn tù binh và lực lượng này cùng tham gia đàn áp Công xã. Sau hòa ước, Bộ chỉ huy quân Phổ cho quân đội Versailles qua phía bắc thành phố, nơi Công xã ít đề phòng .
Ngày 20 tháng 5, quân đội Versailles bắt đầu tổng tiến công. Ngày 21, quân đội tràn vào Paris qua cửa ô Saint-Cloud. Tiếp đó là khoảng thời gian "Tuần lễ đẫm máu" kéo dài từ 21 tới 28 tháng 5. Ngày 27, quân Versailles chiếm được Belleville. Khoảng 200 binh lính Công xã rút vào cố thủ trong nghĩa địa Père-Lachaise. Tới ngày 28, cuộc kháng cự của Paris hoàn toàn thất bại.
Nguyên nhân thất bại
Công xã Paris thất bại có nhiều nguyên nhân, các khách quan và chủ quan. Sau ngày 18 tháng 3, lực lượng của Công xã đã chiếm được nhiều cơ quan quan trọng, nhưng lại bỏ qua bưu điện và Ngân hàng Pháp. Công xã cũng không hoàn thành thắng lợi bằng cách tấn công tiếp tục tới Versailles và điều này khiến chính phủ của Adolphe Thiers có thời giờ củng cố, xây dựng lại quân đội. Công xã cũng không mạnh tay với các nhân vật gián điệp, cho tới thời kỳ Tuần lễ đẫm máu mới thực hiện biện pháp mạnh nhưng không còn tác dụng.Về kinh tế, do không tịch thu ngân hàng, những thành phần chống lại công xã đã vẫn có thể tiếp tục sử dụng tiền. Ngoài ra, về quân sự, Công xã Paris tỏ ra yếu kém. Quân đội của Công xã chưa được huấn luyện, tổ chức tốt. Việc lãnh đạo thiếu tập trung, được chia làm hai cơ quan là Ủy ban quân sự và Ủy ban trung ương quân vệ quốc. Lực lượng công nhân không xây dựng được mối quan hệ chặt chẽ với lực lượng nông dân. Các yếu kém về quân sự khiến Công xã nhanh chóng tan rã khi bị quân đội Versailles tấn công.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là một từ dùng để chỉ những làn tư tưởng xã hội
hiện đại đầu tiên. Mặc dù, theo đúng nghĩa mà nói, mọi người sống tại
bất kỳ một thời điểm lịch sử nào đều có thể là người theo chủ nghĩa xã
hội không tưởng, từ này thường được dùng nhất để chỉ những người theo
chủ nghĩa xã hội không tưởng trong hai mươi lăm năm đầu tiên của thế kỷ 19. Từ giữa thế kỷ 19 trở đi, những nhánh khác của chủ nghĩa xã hội
đã vượt trội hơn so với phiên bản không tưởng về mặt phát triển trí tuệ
và số người ủng hộ. Những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã
đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành những phong trào hiện đại
cho cộng đồng định trước và các tổ chức hợp tác.Chủ nghĩa xã hội không tưởng ra đời từ khi con người có ý thức. Nó thể hiện qua câu truyện cổ tích, sử thi. Nó thể hiện khát vọng công bằng, tự do, khát vọng chinh phục tự nhiên. Nó còn đóng góp việc hình thành tôn giáo. Tuy vậy theo Engels thì chủ nghĩa này vẫn chưa chín muồi vì những lý luận chưa chín muồi đó chính là phù hợp với tình trạng chưa chín muồi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán sâu sắc chủ nghĩa tư bản và lên tiếng bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, nó không thấy được bản chất của chủ nghĩa tư bản, không vạch ra được con đường giải phóng nhân dân lao động và phủ nhận đấu tranh giai cấp.
Những nhà tư tưởng
Chủ nghĩa xã hội khoa học
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chủ nghĩa xã hội khoa học là thuật ngữ được Friedrich Engels nêu ra để mô tả các lý thuyết về kinh tế-chính trị-xã hội do Karl Marx và ông sáng tạo. Thuật ngữ này đối lập với chủ nghĩa xã hội không tưởng
vì nó trình bày một cách có hệ thống và nêu bật lên được những điều
kiện và tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học đó là nó chỉ
rõ con đường hiện thực dựa vào khoa học để thủ tiêu tình trạng người
bóc lột người và đưa ra một tổ chức xã hội mới không biết đến những mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản mà những người theo chủ nghĩa xã hội không
tưởng đã mơ ước nhưng không thực hiện được.
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Mác- Lênin (bao gồm cả 3 bộ phận). Nghĩa rộng của chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin khẳng định: “chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Mác”. Vì triết học Mác lẫn kinh tế chính trị Mác đều dẫn đến cái tất yếu lịch sử là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo họ, những người lãnh đạo, tổ chức cùng nhân dân thực hiện sự nghiệp cách mạng lâu dài và triệt để đó chỉ có thể là giai cấp công nhân hiện đại, thông qua đảng của nó. V.I.Lênin nhận định: "bộ "Tư bản" - tác phẩm chủ yếu và cơ bản ấy trình bày chủ nghĩa xã hội khoa học... những yếu tố từ đó nảy sinh ra chế độ tương lai”.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân theo Mác và Ăng-ghen là những người công nhân sẽ xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Ph. Ăngghen phát biểu rằng
Sau này V.I. Lênin cũng phát biểu rằng:
Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được C. Mác và Ph. Ăng ghen trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác phẩm này các ông đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Thuật ngữ
Theo các nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin thì chủ nghĩa xã hội khoa học về mặt lý luận nằm trong khái niệm “chủ nghĩa xã hội”, là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác-Lênin, nghiên cứu sự vận động xã hội nhằm thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến tới xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo nghĩa hẹp thì chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học đã dựa trên phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời cũng dựa trên những cơ sở lý luận khoa học về các quy luật kinh tế, quan hệ kinh tế... để luận giải một cách khoa học về quá trình nảy sinh cách mạng xã hội chủ nghĩa, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, gắn liền với sứ mệnh lịch sử có tính toàn thế giới của giai cấp công nhân hiện đại, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội.Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Mác- Lênin (bao gồm cả 3 bộ phận). Nghĩa rộng của chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin khẳng định: “chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Mác”. Vì triết học Mác lẫn kinh tế chính trị Mác đều dẫn đến cái tất yếu lịch sử là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo họ, những người lãnh đạo, tổ chức cùng nhân dân thực hiện sự nghiệp cách mạng lâu dài và triệt để đó chỉ có thể là giai cấp công nhân hiện đại, thông qua đảng của nó. V.I.Lênin nhận định: "bộ "Tư bản" - tác phẩm chủ yếu và cơ bản ấy trình bày chủ nghĩa xã hội khoa học... những yếu tố từ đó nảy sinh ra chế độ tương lai”.
Nội dung
Nội dung quan trọng của lý thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đây là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một thành tích chủ nghĩa Mác - Lênin.Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân theo Mác và Ăng-ghen là những người công nhân sẽ xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Ph. Ăngghen phát biểu rằng
“ | Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại | ” |
“ | Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa | ” |
- Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Và, với tính cách như vậy, nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan tạo cho họ khả năng làm việc đó, tức là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp và khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh.
Nhận xét
Đăng nhận xét