VĂN MINH HÓA 11/e (Giải phóng dân tộc)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Phong trào không liên kết là một tổ chức quốc tế gồm các quốc gia tự xem mình là không thuộc hoặc chống lại bất kỳ khối cường quốc lớn nào. Phong trào này chủ yếu là đứa con tinh thần của Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru, cựu tổng thống Ai Cập Gamal Abdul Nasser và chủ tịch Nam Tư Josip Broz Tito. Tổ chức được thành lập tháng 4 năm 1955; đến năm 2007, nó có 118 thành viên. Mục đích của tổ chức như đã ghi trong Tuyên bố La Habana năm 1979 là đảm bảo "sự độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của các quốc gia không liên kết" trong "cuộc chiến chống lại chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, và tất cả những hình thức xâm lược ra nước ngoài, chiếm đóng, chi phối, can thiệp hoặc bá quyền cũng như chống lại các đại cường quốc và chính sách của các khối". Họ đại diện cho gần hai phần ba thành viên Liên Hiệp Quốc và 55 phần trăm dân số thế giới, đặc biệt là những quốc gia được xem là đang phát triển hoặc thuộc thế giới thứ ba.
Tuy phong trào này mong muốn các quốc gia có liên kết chặt chẽ với nhau giống như NATO hay Khối Warszawa, nó có liên kết khá lỏng lẻo và nhiều thành viên của tổ chức thực sự có quan hệ gần gũi với siêu cường này hoặc siêu cường khác. Ngoài ra, một số thành viên còn mâu thuẫn nghiêm trọng với các thành viên khác (như Ấn Độ và Pakistan, Iran và Iraq). Phong trào rạn nứt do mâu thuẫn ngay bên trong khi Liên Xô xâm lược Afghanistan năm 1979. Trong khi những đồng minh của Liên Xô ủng hộ cuộc tấn công, các thành viên khác (đặc biệt là các quốc gia Hồi giáo) của phong trào lại lên án.
Vì Phong trào không liên kết được hình thành với nỗ lực chống lại Chiến tranh lạnh, tổ chức đã cố gắng tìm phương hướng hoạt động mới từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Sau khi Nam Tư, một thành viên sáng lập, tan rã, các quốc gia mới thành lập từ Nam Tư cũ tỏ ra không còn quan tâm tới việc tham dự Phong trào, tuy một số nước là quan sát viên. Vào năm 2004, Malta và Síp rút khỏi tổ chức để gia nhập Liên minh châu Âu.
Thuật ngữ "Không liên kết" được Thủ tướng Ấn Độ Nehru sử dụng trong bài diễn văn của ông vào năm 1954 tại Colombo, Sri Lanka. Trong bài diễn văn này, Nehru đã mô tả năm cột trụ làm kim chỉ nam cho quan hệ Trung Quốc-Ấn Độ, được Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đề xướng. Được gọi là Panchsheel (năm ràng buộc), các nguyên tắc này sau này đóng vai trò là nền tảng của Phong trào không liên kết. Năm nguyên tắc này bao gồm:
Tại Hội nghị Lusaka tháng 9 năm 1970, các quốc gia thành viên đã bổ sung nghị quyết hòa bình cho các tranh chấp và ảnh hưởng từ các đồng minh quân sự và hiệp ước của các cường quốc vài mục tiêu của phong trào. Sự phản đối thiết lập các căn cứ quân sự ở nước ngoài cũng được thêm vào mục tiêu của phong trào.
Những người sáng lập nên Phong trào không liên kết gồm: Nehru của Ấn Độ, Sukarno của Indonesia và Josip Broz Tito của Nam Tư, Gamal Abdel Nasser của Ai Cập và Kwame Nkrumah của Ghana. Những việc làm của họ được gọi là 'Nhóm năm khởi đầu'.
Quyền kết nạp thành viên cũng đã thay đổi so với các tiêu chí ban đầu. Khi tổ chức dần lớn mạnh và tình thế chính trị quốc tế thay đổi, các tiêu chí cũng thay đổi theo. Đang có một nỗ lực tích hợp các tiêu chí của Phong trào với các quan điểm chính yếu của Liên Hiệp Quốc. Các tiêu chí mới nhất đó là quốc gia ứng viên phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Phong trào không liên kết tin tưởng vào các chính sách và thực tiễn hợp tác, đặc biệt là những gì đa phương và cùng có lợi cho những bên liên quan. Nhiều thành viên của Phong trào cũng là thành viên của Liên Hiệp Quốc và cả hai tổ chức này đều tuyên bố các chính sách hợp tác hợp tác hòa bình, tuy những thành công mà Phong trào này có được trong trong các thỏa thuận đa phương dường như bị các nước phát triển lớn hơn ở phương Tây đang thống trị Liên Hiệp Quốc bỏ qua. Sự lo ngại của châu Phi về chủ nghĩa apartheid được liên kết với những lo ngại của Ả Rập-châu Á về Palestine và sự thành công của sự hợp tác đa phương tại các khu vực này là một dấu ấn thành công của Phong trào không liên kết. Phong trào cũng đóng một vai trò quan trọng trong các mâu thuẫn về lý tưởng khác nhau trong khi tồn tại, trong đó có việc phản đối kịch liệt các chế độ apartheid và sự hỗ trợ cho phong trào giải phóng tại nhiều nơi như Zimbabwe và Nam Phi. Sự hỗ trợ những loại phong trào như thế này xuất phát từ niềm tin rằng mọi quốc gia đều có quyền đặt nền tảng chính sách và thực hành theo quyền lợi của quốc gia chứ không phải là kết quả có được từ mối liên hệ với một khối cường quốc cụ thể nào. Phong trào không liên kết đã trở thành tiếng nói hỗ trợ cho các vấn đề mà quốc gia đang phát triển gặp phải và vẫn chứa đựng những lý tưởng phù hợp với bối cảnh này.
Phong trào không liên kết
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phong trào không liên kết
|
||
---|---|---|
Ủy ban Phối hợp | Thành phố New York, Hoa Kỳ | |
Thành viên | 118 thành viên 15 quan sát viên |
|
Thành lập | 1 tháng 9 năm 1961 |
Tuy phong trào này mong muốn các quốc gia có liên kết chặt chẽ với nhau giống như NATO hay Khối Warszawa, nó có liên kết khá lỏng lẻo và nhiều thành viên của tổ chức thực sự có quan hệ gần gũi với siêu cường này hoặc siêu cường khác. Ngoài ra, một số thành viên còn mâu thuẫn nghiêm trọng với các thành viên khác (như Ấn Độ và Pakistan, Iran và Iraq). Phong trào rạn nứt do mâu thuẫn ngay bên trong khi Liên Xô xâm lược Afghanistan năm 1979. Trong khi những đồng minh của Liên Xô ủng hộ cuộc tấn công, các thành viên khác (đặc biệt là các quốc gia Hồi giáo) của phong trào lại lên án.
Vì Phong trào không liên kết được hình thành với nỗ lực chống lại Chiến tranh lạnh, tổ chức đã cố gắng tìm phương hướng hoạt động mới từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Sau khi Nam Tư, một thành viên sáng lập, tan rã, các quốc gia mới thành lập từ Nam Tư cũ tỏ ra không còn quan tâm tới việc tham dự Phong trào, tuy một số nước là quan sát viên. Vào năm 2004, Malta và Síp rút khỏi tổ chức để gia nhập Liên minh châu Âu.
Nguồn gốc
Các quốc gia độc lập nào quyết định không tham gia các khối trong Chiến tranh lạnh còn được gọi là các quốc gia không liên kết.Thuật ngữ "Không liên kết" được Thủ tướng Ấn Độ Nehru sử dụng trong bài diễn văn của ông vào năm 1954 tại Colombo, Sri Lanka. Trong bài diễn văn này, Nehru đã mô tả năm cột trụ làm kim chỉ nam cho quan hệ Trung Quốc-Ấn Độ, được Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đề xướng. Được gọi là Panchsheel (năm ràng buộc), các nguyên tắc này sau này đóng vai trò là nền tảng của Phong trào không liên kết. Năm nguyên tắc này bao gồm:
- Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau;
- Không xâm lược lẫn nhau;
- Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
- Bình đẳng và hai bên cùng có lợi;
- Cùng tồn tại hoà bình.
Tại Hội nghị Lusaka tháng 9 năm 1970, các quốc gia thành viên đã bổ sung nghị quyết hòa bình cho các tranh chấp và ảnh hưởng từ các đồng minh quân sự và hiệp ước của các cường quốc vài mục tiêu của phong trào. Sự phản đối thiết lập các căn cứ quân sự ở nước ngoài cũng được thêm vào mục tiêu của phong trào.
Những người sáng lập nên Phong trào không liên kết gồm: Nehru của Ấn Độ, Sukarno của Indonesia và Josip Broz Tito của Nam Tư, Gamal Abdel Nasser của Ai Cập và Kwame Nkrumah của Ghana. Những việc làm của họ được gọi là 'Nhóm năm khởi đầu'.
Cấu trúc tổ chức và kết nạp thành viên
Tuy Phong trào không liên kết là một tổ chức liên minh các quốc gia, giống như Liên Hiệp Quốc hay NATO, nó vẫn có những điểm đặc biệt so với các tổ chức này về tổ chức và cấu trúc. Đầu tiên, nó tự nhận là mang bản chất không phân cấp, có nghĩa là không có quốc gia nào có quyền phủ quyết hoặc có sự ưu tiên đặc biệt trong bất cứ lĩnh vực nào. Ghế chủ tịch được xoay vòng một cách chính thức tại mỗi hội nghị. Quốc gia điều hành tổ chức được xoay vòng (hiện nay là Ai Cập) và việc xoay vòng này là nhất quán và bình đẳng. Thứ hai, tổ chức không có bất kỳ một hiến chương nào như các tổ chức tương tự khác. Đây là do xét đến việc với quá nhiều quốc gia với nhiều quan điểm và ưu tiên khác nhau, bất kỳ một cấu trúc quản lý hình thức nào cũng có thể tăng sự chia rẽ và cuối cùng có thể dẫn đến sự sụp đổ của tổ chức.Quyền kết nạp thành viên cũng đã thay đổi so với các tiêu chí ban đầu. Khi tổ chức dần lớn mạnh và tình thế chính trị quốc tế thay đổi, các tiêu chí cũng thay đổi theo. Đang có một nỗ lực tích hợp các tiêu chí của Phong trào với các quan điểm chính yếu của Liên Hiệp Quốc. Các tiêu chí mới nhất đó là quốc gia ứng viên phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Tôn trọng quyền cơ bản của con người và tôn trọng mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
- Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia.
- Công nhận sự bình đẳng của tất cả chủng tộc và sự bình đẳng của tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ.
- Tránh can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
- Tôn trọng quyền tự vệ một cách đơn độc hoặc tập thể của mỗi quốc gia, thể theo Hiến chương của Liên Hiệp Quốc.
- Tránh các hành động hoặc đe dọa tấn công hoặc sử dụng vũ lực nhằm chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự độc lập chính trị của quốc gia khác.
- Giải quyết tất cả các tranh chấp quốc tế bằng con đường hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
- Tăng cường sự hợp tác và đôi bên cùng có lợi.
- Tôn trọng công lý và các nghĩa vụ quốc tế.
Chính sách và lý tưởng
Tổng thư ký Phong trào không liên kết bao gồm nhiều nhân vật như Suharto, một nhà độc tài chống cộng sản, và Nelson Mandela, người dân chủ xã hội và là nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid nổi tiếng. Bao gồm nhiều chính phủ với lý tưởng khác nhau rất nhiều, Phong trào không biên giới thống nhất được các thành viên vì sự gắn kết của nó với hòa bình và an ninh thế giới. Tại hội nghị lần thứ 7 tại New Delhi tháng 3 năm 1983, phong trào đã tự mô tả mình là "phong trào hòa bình lớn nhất trong lịch sử". Phong trào cũng nhấn mạnh việc giải trừ quân bị. Sự theo đuổi hòa bình của Phong trào không liên kết có từ khi được thành lập chính thức năm 1961. Cuộc gặp Brioni giữa những người đứng đầu chính phủ Ấn Độ, Ai Cập và Nam Tư năm 1956 đã thừa nhận rằng tồn tại một mối liên kết sống còn giữa cuộc đấu tranh vì hòa bình và nỗ lực giải trừ quân bị.Phong trào không liên kết tin tưởng vào các chính sách và thực tiễn hợp tác, đặc biệt là những gì đa phương và cùng có lợi cho những bên liên quan. Nhiều thành viên của Phong trào cũng là thành viên của Liên Hiệp Quốc và cả hai tổ chức này đều tuyên bố các chính sách hợp tác hợp tác hòa bình, tuy những thành công mà Phong trào này có được trong trong các thỏa thuận đa phương dường như bị các nước phát triển lớn hơn ở phương Tây đang thống trị Liên Hiệp Quốc bỏ qua. Sự lo ngại của châu Phi về chủ nghĩa apartheid được liên kết với những lo ngại của Ả Rập-châu Á về Palestine và sự thành công của sự hợp tác đa phương tại các khu vực này là một dấu ấn thành công của Phong trào không liên kết. Phong trào cũng đóng một vai trò quan trọng trong các mâu thuẫn về lý tưởng khác nhau trong khi tồn tại, trong đó có việc phản đối kịch liệt các chế độ apartheid và sự hỗ trợ cho phong trào giải phóng tại nhiều nơi như Zimbabwe và Nam Phi. Sự hỗ trợ những loại phong trào như thế này xuất phát từ niềm tin rằng mọi quốc gia đều có quyền đặt nền tảng chính sách và thực hành theo quyền lợi của quốc gia chứ không phải là kết quả có được từ mối liên hệ với một khối cường quốc cụ thể nào. Phong trào không liên kết đã trở thành tiếng nói hỗ trợ cho các vấn đề mà quốc gia đang phát triển gặp phải và vẫn chứa đựng những lý tưởng phù hợp với bối cảnh này.
Sự phù hợp với thời đại
Từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh và sự kết thúc chính thức chủ nghĩa thực dân, Phong trào không liên kết đã buộc phải tự điều chỉnh mình và đề ra mục tiêu mới trong hệ thống thế giới hiện tại. Một câu hỏi lớn đó là liệu các lý tưởng khi thành lập của nó, sự độc lập quốc gia về nguyên tắc, sự toàn vẹn lãnh thổ, và cuộc chiến đấu chống lại chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, có còn áp dụng được cho tình hình hiện nay hay không. Phong trào đã nhấn mạnh nguyên tắc đa phương, bình đẳng, và không can thiệp lẫn nhau trong nỗ lực có được tiếng nói mạnh mẽ hơn cho Nam bán cầu, và là một phương tiện có thể dùng để tăng cường đòi hỏi của các quốc gia thành viên ở mức độ quốc tế và tăng sức mạnh chính trị của họ khi đàm phán với các nước phát triển. Trong nỗ lực tăng cường lợi ích Nam bán cầu, phong trào đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác và thống nhất giữa các quốc gia thành viên, nhưng cũng như trong quá khứ, sự gắn kết vẫn là một vấn đề do kích thước của tổ chức và sự phân tán lịch làm việc và lòng trung thành cho thấy nguy cơ rạn nứt vẫn còn đó. Tuy sự thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản là khá dễ dàng, thực hiện những hành động dứt khoát tương ứng với những vấn đề cụ thể của thế giới còn hiếm hoi, với việc phong trào thường đưa ra sự chỉ trích hoặc ủng hộ chứ không thích thông qua những nghị quyết cứng rắn. Phong trào tiếp tục chứng kiến vai trò của nó, như quan điểm của tổ chức, các quốc gia nghèo nhất thế giới vẫn bị bóc lột và đặt ra rìa, không phải từ những siêu cường đối lập nhau, mà từ một thế giới đơn cực, và phong trào đang thực sự chống lại chủ nghĩa bá quyền phương Tây và chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Phong trào đối lập với sự chiếm đóng nước ngoài, can thiệp vào công việc nôi bộ, và các biện pháp xâm lăng đơn phương, nhưng nó cũng chuyển sang tập trung cho các thách thức kinh tế-xã hội mà các quốc gia thành viên đang đối mặt, đặc biệt là sự bất bình đẳng do toàn cầu hóa tạo nên và việc thực thi các chính sách tân tự do. Phong trào không liên kết đã xác định kém phát triển về kinh tế, đói nghèo, và bất công xã hội là những nguy cơ đang lên đối với hòa bình và an ninh.Các tổng thư ký
Giữa mỗi hội nghị, Phong trào không liên kết do một Tổng thư ký được bầu tại cuối kỳ họp trước vận hành. Vì một phần đáng kể công việc của phong trào được thực hiện tại Liên Hiệp Quốc ở New York, đại sứ tại Liên Hiệp Quốc của quốc gia chủ tịch được mong đợi sẽ bỏ thời gian và nỗ lực cho các vấn đề liên quan đến Phong trào không liên kết. Một Ủy ban Phối hợp, cũng đặt tại Liên Hiệp Quốc, là cơ quan chính chỉ đạo công việc của các đơn vị sự nghiệp, ủy ban và nhóm làm việc của phong trào.Tổng thư ký của Phong trào không liên kết | |||
---|---|---|---|
Tên | Quốc gia | Từ năm | Đến năm |
Josip Broz Tito | 1961 | 1964 | |
Gamal Abdel Nasser | 1964 | 1970 | |
Kenneth Kaunda | 1970 | 1973 | |
Houari Boumédienne | 1973 | 1976 | |
William Gopallawa | 1976 | 1978 | |
Junius Richard Jayawardene | 1978 | 1979 | |
Fidel Castro | 1979 | 1983 | |
N. Sanjiva Reddy | 1983 | ||
Zail Singh | 1983 | 1986 | |
Robert Mugabe | 1986 | 1989 | |
Janez Drnovšek | 1989 | 1990 | |
Borisav Jović | 1990 | 1991 | |
Stjepan (Stipe) Mesić | 1991 | ||
Branko Kostić | 1991 | 1992 | |
Dobrica Ćosić | 1992 | ||
Suharto | 1992 | 1995 | |
Ernesto Samper Pizano | 1995 | 1998 | |
Andrés Pastrana Arango | 1998 | ||
Nelson Mandela | 1998 | 1999 | |
Thabo Mbeki | 1999 | 2003 | |
Mahathir bin Mohammad | 2003 | ||
Abdullah Ahmad Badawi | 2003 | 2006 | |
Fidel Castro[10] | 2006 | 2008 | |
Raúl Castro | 2008 | 2009 | |
Hosni Mubarak | 2009 | 2011 | |
Mohamed Hussein Tantawi | 2011 | 2012 | |
Mohamed Morsi | 2012 | ||
Mahmoud Ahmadinejad | 2012 | 2013 | |
Hassan Rouhani | 2013 | Nay |
Các hội nghị
Các quốc gia có đại diện trong Hội nghị Á-Phi tại Bandung, Indonesia năm 1955 đặt nền tảng cho tổ chức. 29 chính quốc gia hiện diện đại diện chho hơn một nửa dân số thế giới.
Belgrade, 1-6 tháng 9 năm 1961
Cairo, 5-10 tháng 10 năm 1964
Lusaka, 8-10 tháng 9 năm 1970
Algiers, 5-9 tháng 9 năm 1973
Colombo, 16-19 tháng 8 năm 1976
La Habana, 3-9 tháng 9 năm 1979
New Delhi (ban đầu dự tính tổ chức tại Bagdad), 7-12 tháng 3 năm 1983
Harare, 1-6 tháng 9 năm 1986
Belgrade, 4-7 tháng 9 năm 1989
Jakarta, 1-7 tháng 9 năm 1992
Cartagena de Indias, 18-20 tháng 10 năm 1995
Durban, 2-3 tháng 9 năm 1998
Kuala Lumpur, 20-25 tháng 2 năm 2003
La Habana, 15-16 tháng 9 năm 2006
Sharm El Sheikh, 11-16 tháng 7 năm 2009
Iran Thủ đô Tehran - Iran, 28 tháng 8 năm 2012
Các quốc gia thành viên và đại diện
Afghanistan
Algérie
Angola
Antigua và Barbuda
Bahamas
Bahrain
Bangladesh
Barbados
Belarus
Belize
Bénin
Bhutan
Bolivia
Botswana
Miến Điện (Myanmar)
Brunei
Burkina Faso
Burundi
Campuchia
Cameroon
Cape Verde
Cộng hòa Trung Phi
Tchad
Chile
Colombia
Comoros
Congo
Côte d'Ivoire
Cuba
Cộng hòa Dân chủ Congo
Djibouti
Dominica
Cộng hòa Dominica
Ecuador
Ai Cập
Guinea Xích đạo
Eritrea
Ethiopia
Fiji
Gabon
Gambia
Ghana
Grenada
Guatemala
Guinée
Guiné-Bissau
Guyana
Haiti
Honduras
Indonesia
Ấn Độ
Iran
Iraq
Jamaica
Jordan
Kenya
Kuwait
Lào
Liban
Lesotho
Liberia
Libya
Madagascar
Malawi
Malaysia
Maldives
Mali
Mauritanie
Mauritius
Mông Cổ
Maroc
Mozambique
Namibia
Nepal
Nicaragua
Niger
Nigeria
Bắc Triều Tiên
Oman
Pakistan (Gia nhập năm 1977)
Palestine
Panama
Papua New Guinea
Peru
Philippines
Qatar
Rwanda
Saint Lucia
Saint Kitts và Nevis
Saint Vincent và Grenadines
São Tomé và Príncipe
Ả Rập Saudi
- Bản mẫu:Country data Sénégal
Seychelles
Sierra Leone
Singapore
Somalia
Nam Phi
Sri Lanka
Sudan
Suriname
Swaziland
Syria
Tanzania
Thái Lan
Timor-Leste
Togo
Trinidad và Tobago
Tunisia
Turkmenistan
Uganda
Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Uzbekistan
Vanuatu
Venezuela
Việt Nam
Yemen
Zambia
Zimbabwe
Các quan sát viên
Các quốc gia sau đây là quan sát viên:Khách mời
Không có vị trí khách mời cố định, nhưng thông thường sẽ có một vài quốc gia không thành viên cử đại diện làm khách mời tại hội nghị. Ngoài ra, một số lượng lớn tổ chức, cả thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc hoặc bên ngoài, cũng luôn được mời làm khách.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:01, ngày 8 tháng 1 năm 2014.
Nhận xét
Đăng nhận xét