BÀI VIẾT HAY 80
(ĐC chép từ http://molang0205.blogspot.com)
TRÒ THÁU CÁY CỦA THẾ LỰC SAM RAINSY Ở CAMPUCHIA
Thứ Tư, ngày 09 tháng 7 năm 2014
Mõ Làng
Cuộc biểu tình được cho là do Phong trào sinh viên và trí thức Campuchia khởi xướng
Tin
cho hay vào sáng thứ Ba 8/7 khoảng 200 người tụ tập biểu tình
trước Đại sứ quán Việt Nam ở thủ đô Phnom Penh của Campuchia.
Thực
chất đấy là việc các thế lực đối lập cực đoan ở Campuchia mà đại diện
là phái Sam Rainsy phối hợp với truyền thông phương Tây, có sự bảo trợ
của Trung Quốc đang kích động một nhóm sinh viên biểu tình để phản đối
ông Trần Văn Thông Đại sứ Việt Nam tại đây vì đã giải thích: "Pháp
vào Việt Nam năm 1858, năm 1863 vào Campuchia". "Khi vào Đông
Dương, Pháp không cắt đất Việt Nam cho Campuchia và cũng không
cắt đất Campuchia cho Việt Nam. Cho tới khi nhân dân Đông Dương đấu
tranh giành độc lập, khi rút khỏi Đông Dương Pháp cũng không
cắt đất Campuchia cho Việt Nam." Chúng yêu cầu “Ông Thông
phải xin lỗi công khai về việc ông ta hiểu lầm về lịch sử
Kampuchea Krom, mà nay là một phần của miền Nam Việt Nam." Thực chất, ông Thông đã nói đúng.
Để hiểu rõ vấn đề này, Mõ tôi xin lược lại lịch sử vùng đất Nam Bộ như sau:
I. Vương quốc cổ Phù-Nam
Vùng
đất trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay từ khu vực Ðồng Nai đến Hà
Tiên xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của
từ Phnom có nghĩa là núi. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên
hình thành tại Ðông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ
thứ 6 sau Công nguyên.
Lịch
sử quốc gia này được biết đến bắt đầu từ khoảng năm thứ nhất sau Công
nguyên, tương đương với nhà Tây Hán Trung Hoa. Theo truyền thuyết thì
một vị giáo sĩ anh hùng (Brahman) người Ấn Độ tên là Kaundinya được thần
linh chỉ đường xuống thuyền xuôi về hướng đông. Sau một cuộc hành trình
đầy gian truân, thuyền của Kaundinya đến được đất liền của đồng bằng
sông Cửu Long. Bỗng từ đất liền xuất hiện một mỹ nhân trên chiếc thuyền
nan bơi ra chặn thuyền của Kaundinya lại. Mỹ nữ này là Nữ Chúa Soma, con
gái của vua Rắn Hổ mười đầu. Trận thư hùng diễn ra giữa anh hùng và
giai nhân. Nhờ phép thuật thần thông nên Kaundinya thắng trận. Nữ chúa
Soma cầu hòa. Sau đó không lâu hai người yêu rồi cưới nhau sinh ra một
người con trai. Người con trai này trở thành vị vua đầu tiên của Vương
quốc Phù-Nam lấy hiệu là Kampu.
Kinh
đô trù phú của vương quốc được xây dựng tại thành Vyadhapura. Vào năm
245 sau Công nguyên nhà Hán Trung Hoa sai sứ giả là K’ang T’ai đi kinh
lý vương quốc Phù Nam. Ông đã mô tả là vương quốc này đã biết cách luyện
kim, kinh đô Vyadhapura có xây thành bằng gạch kiên cố chung quanh, có
hệ thống kênh đào để thuyền bè có thể đi xuyên qua lãnh thổ..
Trong
vòng 300 năm sau ngày lập quốc, Phù Nam đã có một hạm đội chiến thuyền
và quân lực hùng mạnh và đã chinh phục được hầu như toàn bộ những khu
dân cư của vùng Mã Lai -Thái lan - Miên và nam Miến Ðiện để kiểm soát
đường hàng hải của các thương thuyền giữa Trung Hoa và Ấn Ðộ.
Những
thần dân của Phù Nam xưa thuộc giống người thổ da đen Khmer, Môn-Khmer,
Miến, và dân đa đảo Malay-indônêsiên. Ngôn ngữ sử dụng thuộc hệ Ấn độ
pha trộn với nhiều sắc thái, thổ ngữ địa phương. Người nước Phù Nam theo
đạo Bà La Môn và Phật giáo. Vương quốc Phù Nam đạt đến sự cực thịnh
dưới triều vua Kaundinya Jajavarman (478-514).
Vương
quốc Phù Nam bị suy tàn bởi nội loạn và sự nổi dậy của dân tộc Khmer
(một xứ phiên thuộc của Phù Nam), tràn sang từ vùng đất thuộc nước Lào
bây giờ. Một yếu tố khác góp phần vào sự suy tàn của Phù Nam là nền kinh
tế của quốc gia đã đi xuống từ sau những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải.
Thuyền buôn vào thời điểm này đã có thể đi xa bờ và ít có nhu cầu ghé
lại Óc-Eo trên đường đi qua Trung Quốc. Năm 539 vương quốc Phù Nam bị
buộc phải triều cống cho người Khmer lúc đó là Vương quốc Chân Lạp. Ðến
năm 627 Phù Nam bị người Khmer dưới quyền vua Chân Lạp là Bhavavarman
xóa hẳn tên trên bản đồ. Những thần dân của Phù Nam bị sát nhập vào
vương quốc Khmer. Hoàng gia của Phù Nam dùng đường biển tị nạn sang đảo
Java của Nam Dương (Indonesia).
Từ
năm 550 trở về sau cho đến khi chúa Nguyễn bành trướng thế lực đến miền
nam, người Khmer cai tri xứ này theo niên hiệu các vị vua Chân Lạp.
Ngày nay, người Khmer nhìn nhận các vương triều Phù Nam là tổ tiên của
dân tộc Khmer và là một phần của lịch sử Khmer. Người Khmer còn được
chúng ta biết đến qua nhiều danh xưng Cao Miên, Chân Lạp, Cam bốt và
Kampuchia.
II. Vương quốc Chân Lạp làm chủ khu vực miền nam Việt Nam (thế kỷ thứ 7- thế kỷ 17 sau Công Nguyên)
Năm
600-611 có triều vua Mahendravarman tiếp theo là vua Isanavarman đóng
đô tại Ankor Borey. Năm 750 vua Jayavaman I mở rộng lãnh thổ, xây thêm
đền đài, cho khẩn hoang và trồng lúa cùng các loại hoa màu dọc bờ sông
Cửu Long xuống tới miền Tây Việt Nam ngày nay.
Khoảng
năm 780 dòng Vương cũ của Phù Nam giờ thành Vương Triều Sailendra của
đảo Java (Indonesia) trở nên hùng mạnh đã dùng binh lực chinh phục và
buộc vương quốc Chân Lạp của người Khmer phải triều cống và lệ thuộc.
Từ
năm 800 đến 887 nước chân Lạp dưới sự lãnh đạo của vua Jayavaman II
(802-887) và Jayavaman III (850-887) đã giành lại được độc lập từ dòng
Sailendra của Java. Vương quốc Chân Lạp được đổi tên là Kampuchia. Trong
thời này những thế lực phong kiến có khuynh hướng chia đế quốc Chân lạp
thành Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (Thủy Chân Lạp là vùng đồng bằng
miền nam tức Phù Nam xưa). Năm 803 Puskarak lên ngôi Vương Thủy Chân
Lạp, lấy hiệu là Jayavaman II rồi tuyên bố độc lập. Tuy nhiên, vương
triều của đảo quốc Java không ngừng dòm ngó vương quốc Kampuchia của
Jayavaman II. Trong suốt 50 năm trị vì ông đã dời đô 5 lần vì chiến
tranh với Java. Khi Jayavaman III qua đời không con nối dõi nên một
người bà con họ mẹ đã lên ngôi xưng vương hiệu là Indravaman I
(877-889).
Vua
Indravaman I là một vị vua anh hùng, có tài thao lược và cũng yêu nghệ
thuật văn thư. Trong đời ông đã có công thống nhất Lục Chân Lạp với Thủy
Chân Lạp và xây dựng thêm nhiều thành phố lớn, khuyến khích nông nghiệp
và thương mãi. Indravaman I cũng khởi đầu nới rộng Ðế quốc Khmer
(Kampuchia), thay đổi bản đồ chính trị trên bán đảo Ðông Dương bằng
những võ công nổi bật. Con của Indravaman I nối sự nghiệp của cha xưng
hiệu là Yaksovaman I (889-900).Yaksovaman I dời kinh đô từ Hari Hara Ley
đến Yaso Tha Bura trên cao nguyên Bakheng. Chính vào thời điểm này, sự
phú cường của Ðế quốc Kampuchia đã cho phép nhà vua khởi công nhiều công
trình kiến trúc vĩ đại trong đó có Angkor Wat (Ðế Thiên Ðế Thích), đền
đài Lo Ley, đền đài Phnom Bok. Angkor Wat đã là một công trình kiến trúc
vĩ đại nhất của vùng Ðông Nam Châu Á. Những công trình này đa phần nhờ
vào sức lực hàng vạn tù binh và nô lệ bắt được từ những trận chiến chinh
phạt Xiêm và Lào. Suốt thế kỷ thứ 9 Ðế quốc Khmer-Chân Lạp có 6 triều
vương đó là Hashavaman I (900-922), Isanavaman II (922-928), Jayavaman
IV (928-941), Harshavaman II (941-944), Rajendravaman II (944-968), và
Jayavaman V (968-1001).
Sau
cái chết của Jayavaman V năm 1001 toàn lãnh thổ Chân Lạp rơi vào cảnh
đại loạn kéo dài 9 năm. Lãnh chúa Suryavaman I (1002-1050) đã đàn áp
được những thế lực khác và thống nhất ngôi Vương tại Angkor Wat. Từ năm
1050 đến 1177 đế quốc Khmer tiếp tục bành trướng. Phía bắc giáp Trung
Hoa, phía nam giáp biển Xiêm La (Thái Lan), phía tây giáp Miến Ðiện,
phía đông giáp Chiêm Thành. Năm 1177 quân Chăm của Vương Quốc Chiêm
Thành (Champa) xâm lăng và giết được vua Khmer là
Tri-Bhuvanadit-yavarman khởi đầu cho quá trình suy tàn của đế quốc Khmer
từ thế kỷ thứ 13.
Sự
suy yếu của Ðế quốc Khmer vào thế kỷ 13 tạo cơ hội cho người Thái
(Xiêm) nổi dậy giành độc lập. Danh xưng ‘Thái’ có nghĩa là ‘tự do’ không
còn nô lệ nữa. Quân đội người Thái đã tấn công đế đô Angkor (trong
khoảng thời gian 1431-1432) và tàn sát hàng mấy vạn người để trả thù sự
tàn bạo hà khắc mà người Khmer đã áp đặt lên họ trước kia. Sự tàn sát đã
khủng khiếp đến độ không còn ai sống sót để nhớ lại nơi chốn này. Ðế đô
Angkor đã bị quên lãng bởi chính người Khmer trong suốt 500 năm mãi đến
thế kỷ 19, ông Henri Mouhot, người Pháp, trong lúc đi thám hiểm rừng
sâu mới tìm lại phế tích Angkor Wat năm 1860.
Năm
1401 vua Chân Lạp Ponhea Yat dời đô về Phnom Penh (Nam Vang) đánh dấu
một triều đại mới, chấm dứt kỷ nguyên Angkor. Chữ Phạn Ấn độ cổ Sanscrit
không còn được sử dụng nữa. Lối chữ mới theo thể Pali giống Mã Lai được
thay vào. Toàn thể những dòng dõi vương tôn, quí tộc cũ theo văn hoá Ấn
Ðộ biết đọc, viết chữ Sanscrit đã bị người Thái tận diệt. Năm 1528 vua
Ong Chân I lại phải dời đô về Lovek (La Bích). Ðến năm 1593 quân Xiêm
lại tấn công La Bích. Từ đó người Thái nắm quyền phế lập các vua chúa
Khmer.
III. Vị thế Chúa Nguyễn và thế lực của người Việt tại Thủy Chân Lạp (thế kỷ 17-18 sau Công Nguyên)
Một
biến cố chính trị tại phương đông, miền cực nam nước Ðại Việt đã làm
thay đổi tình thế lúc đó là sự xuất hiện của chúa Nguyễn Hoàng, truyền
nhân của Nguyễn Bặc, Nguyễn Trãi và Nguyễn Kim. Chính sách Nam Tiến của
các chúa Nguyễn sau đó nhằm để chống lại thế lực của chúa Trịnh ở Thăng
Long tạo nên áp lực to lớn cho hai quốc gia lân bang là Champa và Chân
Lạp. Trong khoảng thời gian từ năm 1611-1653 vương quốc Champa đã bị dồn
nén bởi thế lực của chúa Nguyễn nên co cụm lại một vùng nhỏ từ Nha
Trang đến Phan Thiết.
Sau
một thời gian ở Xiêm làm con tin, Chey Chetta II về Chân Lạp lên ngôi
vương năm 1618. Tân vương cải cách mọi việc và mang lòng không phục
người Xiêm. Chey Chetta II dời đô về Oudong (Long Úc), thuộc tỉnh
Kompong Luông. Tân vương tổ chức quân đội có thực lực. Mấy năm liền
không thấy Chân Lạp dâng phẩm vật triều cống, Xiêm vương mang quân tấn
công vào Chân Lạp hai lần đều bị quân của Chey Chetta II đẩy lui. Tuy
nhiên về lâu về dài Chân Lạp sẽ không thể đương đầu với quân Xiêm. Chey
Chetta II quyết định nhờ vào thế lực của chúa Nguyễn Ðàng Trong, lúc đó
là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635).
Chúa
Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã quyết định gả Hoàng Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao
Miên năm 1620. Chúa còn hai Hoàng nữ khác là Ngọc Khoa gả cho vua Chiêm
Pô Romê và Hoàng nữ Ngọc Hoa lại gả cho một thân vương người Nhật. Hoàng
nữ Ngọc Vạn được tấn phong Hoàng Hậu với tước hiệu là Sô Dach Prea
Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey.
Dưới
sự bảo trợ của Hoàng hậu Ngọc Vạn lưu dân người Việt từ Ðàng Trong ồ ạt
theo đường biển vào lập nghiệp tại vùng Thủy Chân Lạp. Họ làm nghề
nông, buôn bán, tiểu công nghiệp, đánh cá, thợ rèn v.v.. chỉ 3 năm sau,
tức năm 1623 lưu dân Việt định cư tại Thủy Chân Lạp lên đến 20,000
người. Sãi vương liền viết thư cho con rể xin mượn vùng đất tại Prey
Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) để tiện việc thu thuế người
Việt tại đây. Vua Cao Miên chấp thuận.
Sau
khi quốc vương Cao Miên băng hà chỉ sau 5 năm lấy vợ Việt, toàn vùng Bà
Rịa giáp giới Chiêm Thành, Kâmpéâp Srekatrey (Biên Hòa), Prey Nokor
(Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) đều thuộc quyền người Việt cai trị và
thu thuế.
Từ
sau khi vua Chey Chetta II băng hà các hoàng tử con của các bà phi
người Chân Lạp liên tiếp lên làm vua: Ponhea To (1629-1630), Ponhea Nu
(1630-1640). Sau cái chết mờ ám của vua Ponhea Nu năm 1640 quan phụ
chính Prah Outey (là hoàng thúc của vua) đưa con mình là Ang Non I
(1640-1642) lên ngôi. Vào năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II
liên hiệp với người Mã Lai nổi dậy giết toàn gia hoàng thúc Prah Outey
để lên ngôi xưng hiệu Ponhea Chan I (1642-1659). Sử Việt gọi vị vua này
là Nặc Ông Chân. Các hoàng thân thuộc phe cánh Ang Non I vào cung bà
Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn xin cầu viện chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần
(1648-1687). Chúa Hiền nhân cơ hội có lời yêu cầu nên hưng binh chinh
phạt Chân Lạp vào tháng 10 năm 1658. Quân Chân Lạp thua to tại ngoài
khơi Bà Rịa và trận Gò Bích. Chúa Hiền đưa Hoàng tử So con trai bà Thái
hậu Ngọc Vạn lên ngôi vua lấy hiệu là Batom Réachea (1658-1672). Vào
thời điểm này triều đình Chân Lạp đã hợp thức hóa chủ quyền của nhà
Nguyễn tại Ðồng Nai.
Năm
1672 vua Batom Réachea bị ám sát. Con trai là Ang Chey tức Nặc Ông Ðài
lên nối ngôi. Tân vương dựa thế lực người Xiêm mang quân lấn ép vùng
Ðồng Nai. Lưu dân người Việt kêu cứu triều đình chúa Nguyễn. Chúa Hiền
Vương Nguyễn Phúc Tần sai các tướng Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn
Diên Thái và Văn Sùng mang quân tới tận Oudong hỏi tội Nặc Ông Ðài rồi
đưa Ang Saur tức Nặc Ông Thu hiệu Chey Chetta IV, em của Nặc Ông Ðài lên
ngôi Chính Vương ở Oudong Lục Chân Lạp. Chúa Hiền lại đồng thời cho Ang
Non tức Nặc Ông Nộn con trai thứ của bà Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II
làm Thứ Vương vùng Ðồng Nai – Mô Xoài. Vua Nặc Ông Nộn đóng đô tại Sài
Gòn tức Prey Nokor. Lúc đó là năm 1674. Cả hai vị vua Chân Lạp đều phải
triều cống xưng thần với chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc Ông Nộn ở Sài
Gòn đến khi chết năm 1691 thì toàn quyền cai trị tại đây thuộc về chúa
Nguyễn.
IV. Các di thần nhà Minh với vùng đất Biên Hòa, Mĩ Tho Thủy Chân Lạp.
Vào
năm 1679 tức năm Khang Hy thứ 18 nhà Ðại Thanh cựu thần của nhà cựu
Minh vì kháng cự lại quân Thanh đến xin hàng phục nhà Nguyễn. Bọn di
thần nhà Minh gồm có Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Ðịch, Phó tướng Hoàng
Tiến, và Tổng Binh các phủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó
tướng Trần An Bình mang 3000 binh lính thủ hạ và gia quyến trên 50 chiến
thuyền đến cửa Tư Dung và Ðà Nẵng xin được làm thần dân của chúa
Nguyễn. Chúa Hiền chấp thuận cho giữ nguyên binh hàm chức tước rồi
truyền cho vua Cao Miên cho phép người Minh vào định cư xứ Ðồng Nai và
sau đó đến Cần Thơ. Nhờ đợt di cư này mà ảnh hưởng của nhà Nguyễn tại
đất Thủy Chân Lạp ngày càng lớn. Các tướng nhà Minh giờ làm quan cho
triều đình nhà Nguyễn. Họ cũng góp phần xông pha trận mạc mở rộng lãnh
thổ cho nhà Nguyễn, nổi bật là Thống Binh Trần Ðại Ðịnh con của Trần
Thượng Xuyên triều chúa Ninh Vương. Người Minh vốn cùng văn hóa với
người Việt nên hợp nhau khai hoang khẩn đất, lập chợ, xây dựng phố
phường, buôn bán tấp nập. Những nơi như Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Ðức, Cần
Thơ không mấy chốc trở nên sầm uất. Triều đình nhà Nguyễn lại được dịp
có thêm dân, thêm đất và thêm thuế thu nhập.
Hiền
Vương Nguyễn Phúc Tần băng hà năm 1687 ở ngôi 39 năm, Nghĩa Vương
Nguyễn Phúc Thái (còn gọi là Trăn) lên thay (1687-1691). Nghĩa Vương dời
đô về Phú Xuân (Huế). Trong thời gian chúa mới lên ngôi có một di thần
nhà Minh là Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Ðịch ở Mỹ Tho rồi tự
xưng là Phấn Dũng Hổ Oai Tướng Quân thống lĩnh quân sĩ Long Môn người
Minh đóng đồn ở Ðịnh Tường. Hoàng Tiến thả quân qua Cao Miên cướp của
giết người. Vua Cao Miên là Nặc Ông Thu bất bình vì việc làm sai quấy
này và ngờ là chủ ý của Thiên Vương nhà Nguyễn. Vua Nặc Ông Thu quyết
định bỏ triều cống và chuẩn bị binh lính chống lại triều đình nhà
Nguyễn.
Tháng
Giêng năm 1690 Chúa Nghĩa sai lão tướng là Vạn Long mang quân đến Rạch
Gầm dàn trận. Vạn Long dùng kế bắt được Hoàng Tiến rồi xua quân qua Cao
Miên đánh thốc tới Nam Vang và Long Úc (thành Oudong). Vua Cao Miên cả
sợ dâng 30 thớt voi, 150 lạng vàng, 600 lạng bạc, 6 con tê giác để xin
hòa và giữ lệ triều cống như xưa. Quan quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân
tháng 8 năm đó. Chúa Nghĩa không thọ lâu, ngài băng hà năm 1691 thọ 43
tuổi.
Năm
1698 chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sai Lễ Thành Hầu
Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh Cao Miên và kinh lược mấy tỉnh miền nam. Lễ
Thành Hầu chia cắt giới phận, canh cải địa điền, kiểm kê nhân khẩu, lập
sổ đinh điền cho có nề nếp. Lúc đó toàn miền nam có dân số 40,000 gia
đình (hộ) đất đai mở ra 1000 dặm.
V. Mạc Cửu với vùng đất Hà Tiên
Năm
1671 có người Minh tên là Mạc Cửu quê ở Lôi Châu, Quảng Ðông (Trung
Quốc) mang gia quyến binh lính 400 người và 10 chiếc thuyền di cư sang
Thủy Chân Lạp đổ bộ lên bờ biển Panthaimas vịnh Thái Lan. Mạc Cửu đến
Oudong xin yết kiến vua Nặc Ông Thu và ở lại hợp tác giữ chức Óc Nha cho
đến năm 1681. Lúc ấy thấy chính sự Chân Lạp rối ren, ông xin vua Chân
Lạp cho đi khai khẩn vùng đất hoang Panthaimas. Vua thuận cho. Mặc Cửu
chiêu tập đám cướp biển lại mở sòng bạc, chiêu mộ dân phiêu bạt chạy
trốn nhà Thanh về lập nên 7 xã là: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần
Bột (Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh
(Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Hà Tiên tức Căn Khẩu.
Mạc Cửu đặt tên vùng đất của mình là ‘Căn Khẩu Quốc’. Lãnh địa này
thuộc Chân Lạp nhưng vua Chân Lạp không đủ sức cai quản nên được qui chế
tự trị. Không bao lâu Căn Khẩu Quốc của Mạc Cửu trở nên giàu có, người
đi vào buôn bán, cờ bạc, đổi chác tấp nập.
Thấy
kinh tế vùng Căn Khẩu nổi lên như sóng vua Xiêm chuẩn bị thôn tính vùng
đất này. Năm 1678 quân Xiêm tràn sang cướp phá bắt Mạc Cửu và gia quyến
về Muang Galapuri (Vạn Tuế Sơn). Hai năm sau nhân lúc nước Xiêm có loạn
ông mang quyến thuộc trốn về lại Căn Khẩu. Ông lại bắt tay khôi phục
lại Căn Khẩu. Mạc Cửu nhiều lần xin triều đình Chân Lạp cứu nhưng Vương
triều Chân Lạp lúc đó quá yếu, tự giữ mình còn không xong nên từ chối
không thể giúp gì cho họ Mạc. Năm 1711 Mạc Cửu cùng tùy tùng là Trương
Cầu, Lý Xá mang vàng lụa đến gỏ cửa Khuyết ở Huế xin thần phục chúa Minh
Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Mạc Cửu được giữ chức Tổng Binh toàn
quyền cai trị xứ Căn Khẩu mà không phải nộp thuế cho triều đình. Nghe
được tin này vua Xiêm cho 20,000 quân tấn công Căn Khẩu quốc, một thuộc
địa mới của nhà Nguyễn. Mạc Cửu thua chạy về Gia Ðịnh xin triều đình Huế
cứu giúp. Quân Triều Nguyễn đánh đuổi người Xiêm đi và trả lại toàn vẹn
đất đai cho Mạc Cửu cai trị nhưng đổi tên Căn Khẩu thành Hà Tiên Trấn
với mục đích lưu lại dấu ấn của triều đình họ Nguyễn.
Mùa
hạ năm 1735 Mạc Cửu chết, hưởng thọ 81 tuổi. Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ
(có sử ghi là Trú:1725-1739) phong ông làm Khai Trấn Thượng Trụ Quốc
Ðại Tướng Quân, tước Cửu Lộc Hầu. Ðến đời Minh mạng được phong làm Thần
hiệu là Thọ Công Thuận Mỹ Trung Ðẳng Thần. Năm 1738 chúa Nguyễn Phúc Thụ
ban cho dòng họ Mạc ‘Thất Diệp Phiên Hàn’ (bảy chữ quí tộc) nối đời
vinh hiển là: Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Con trai Mạc Cửu là Mạc
Thiên Tứ lên nối quyền cai trị Hà Tiên. Con của Tứ là Mạc Công Du, Con
của Du là Mạc Hầu Lâm, con của Lâm là Mạc Bá Bình, con của Bình là Mạc
Tử Khâm, con của Khâm là Mạc Nam Lan. Bà Nam Lan tuyệt tự hết người thừa
kế nhưng cũng vừa tròn bảy chữ vua ban.
VI. Vùng đất Méso - Longhor tức Mỹ Tho, Vĩnh Long
Năm
1731 quân Chân Lạp đánh Gia Ðịnh. Ninh Vương sai Tướng Trương Phước
Vĩnh và Cai Cơ Ðạt Thành cùng tướng quân Trần Ðại Ðịnh (con của Trần
Thượng Xuyên người Minh) đem quân ra chống đỡ. Cai Cơ Ðạt Thành bị quân
Cao Miên giết ở Bến Lức. Trần Ðại Ðịnh mang quân bản bộ Long Môn đắp đồn
Cây Mai ở Sài gòn để cầm cự. Cai đội Nguyễn Cửu Triêm đem quân cứu ứng
đến Bến Lức, quân Miên lại rút về Tân An. Tháng 4 năm 1731 Trần Ðại Ðịnh
đánh vào Lovek (La Bích). Cha con quốc vương Chân Lạp là Nặc Yêm (Ang
Em) và Nặc Tha (Satha II) thua trận xin nhường đất Mésa (Mỹ Tho) và
Longhor (Dinh Long Hồ tức Vĩnh Long bây giờ) để cầu hòa. Chúa Nguyễn sai
đo đạc, đặt thành Châu Ðịnh Viễn và dinh Long Hồ.
VII. Mạc Thiên Tứ nới rộng thêm lãnh thổ cho Nguyễn Vương Ðàng Trong.
Mạc
Thiên Tứ cai trị trấn Hà Tiên rất thịnh vượng. Tứ mở văn đàn làm thơ,
phổ nhạc, vịnh phú, lập Chiêu Anh Các để chiêu nạp nhân tài. Về võ công
Tứ cũng lẫy lừng không kém. Năm 1739 Tứ dẹp tan một trận tấn công của
vua Cao Miên. Năm 1747 Tứ dẹp yên bọn cướp biển ở Long Xuyên. Năm 1753
vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên (Ang Snguôn) hà hiếp người Chăm từ Chiêm
Thành tị nạn Việt Nam qua Cao Miên đồng thời thông mưu với chúa Trịnh
ngoài Bắc để đánh úp chúa Nguyễn đòi lại đất đai đã mất. Võ Vương Nguyễn
Phúc Khoát (1739-1765) sai Nguyễn Cư Trinh hưng binh đánh Cao Miên mùa
hạ năm 1754. Binh triều đi tới sông Vàm Cỏ thì quân địch cả sợ ra hàng.
Nặc Nguyên chạy ra Vĩnh Long. Ở vùng Vàm cỏ Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ
người Chăm tị nạn bây giờ không nơi nương tựa có tới 10,000 người và hộ
tống họ đi về Ðồng Tháp Mười (Tà Vô Ân). Ở đây phục binh của vua Cao
Miên ùa ra đánh giết người Chăm chết mất 5000 người. Quân tiếp ứng của
ông Thiện Chính đến không kịp để cứu. Về sau Vũ Vương gián ông Thiện
xuống làm Cai Ðội. Nguyễn Cư Trinh cứu được 5000 người Chăm cho về định
cư ở núi Bà Ðen, Châu Ðốc. Nguyễn Cư Trinh lại tuyển người Chăm khoẻ
mạnh đưa cho khí giới thúc họ đi tiên phong đánh quân Cao Miên. Quân
triều đi sau ủng hộ. Thanh thế to lớn nên vua Cao Miên bỏ chạy xuống Hà
Tiên nhờ Thiên Tứ cứu mạng. Vua Cao Miên nhờ Tứ xin với Võ Vương cho
dâng hai phủ Tầm Bôn (Gò Công) và Lôi Lập (Tân An) để chuộc tội. Chúa
Nguyễn thuận cho và truyền cho nhập vào châu Ðịnh Viễn. Võ Vương Nguyễn
Phúc Khoát cho vua Cao Miên Nặc Ông Nguyên về nước. Vua Cao Miên là Nặc
Ông Nguyên băng hà năm 1758. Dòng họ vua Cao Miên tranh nhau làm vua.
Mạc Thiên Tứ giúp cho Nặc Ông Tôn lên làm vua nên được tặng Tầm Phong
Lâm (Meat Chruk) tức Châu Ðốc và Sa Ðéc. Nội chiến ở Cao Miên vẫn không
dứt. Các vua Cao Miên lại sang triều Nguyễn dâng đất cầu cứu. Thế là Nặc
Ông Thuận (Thommo Réchea) hiến Sóc Trăng, Bạc Liêu. Nặc Ông Tôn (Ang
Tong) hiến hết đất từ núi Thất Sơn, Sa Ðéc, Kiên Giang và Long Xuyên về
sau đều thuộc chủ quyền chúa Nguyễn.
Từ đây chấm dứt cuộc nam tiến của dân tộc Việt nam.
Và
như vậy vùng đất Nam Bộ đã thuộc về Việt Nam trước khi người Pháp xâm
lược Đông Dương, nó không như luận điệu dối trá của các thế lực Samrensi
tuyên truyền.
Về
nguyên tắc của công pháp quốc tế, biên giới quốc gia đã được định hình
trong những biến cố lịch sử từ khi nó được thế giới công nhận, không hồi
tố. Đòi lại vùng đất mà cách đây hàng trăm năm đã được sát nhập vào
quốc gia khác mà chủ yếu là do tổ tiên mình dâng hiến là không thể xem
xét. Sam Rainsy chỉ lợi dụng vấn đề này để kích động tính dân tộc của
người Khmer mà thôi.
Nhận xét
Đăng nhận xét